Lý luận của triết học Mác – Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý | Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin
Sự nhận thức chân lý luôn đóng vai trò cốt lõi trong quá trình tìm hiểu và giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới xung quanh chúng ta. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG
BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Triết học Mác – Lênin
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_23_1_28CLC
GVHD: TS. Đặng thị Minh Tuấn
NHÓM THỰC HIỆN: HI FIVE
HỌC KỲ: I – NĂM HỌC: 2023 - 2024
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 1 NĂM 2024 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài.................................................................1
3. Phương pháp thực hiện đề tài.....................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ.....................3
1.1 Chân lý.....................................................................................................3
1.1.1 Khái niệm chân lý.............................................................................3
1.1.2 Các tính chất của chân lý.................................................................4
1.2. Nhận thức chân lý..................................................................................5
1.2.1. Nhận thức cảm tính.........................................................................6
1.2.2. Nhận thức lý tính.............................................................................8
1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức lý tính, nhận thức cảm tính và thực
tiễn................................................................................................................11
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM
HIỆN NAY......................................................................................................13
2.1. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay......13
2.2.1. Khái niệm tự học............................................................................13
2.2.2. Thực trạng tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay...................14
2.2. Vận dụng con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý vào hoạt
động tự học của bản thân...........................................................................15
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................18
PHỤ LỤC...........................................................................................................19 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nhận thức chân lý luôn đóng vai trò cốt lõi trong quá trình tìm hiểu và
giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới xung quanh chúng ta. Trong triết
học, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý là một chủ đề quan trọng,
được đề cập một cách sâu sắc và chi tiết bởi các nhà triết học vĩ đại là C.Mác và
V.I.Lênin. Đối với Mác - Lênin, con đường biện chứng là phương pháp duy nhất
để tiến tới sự nhận thức chân lý về thế giới và xã hội. Việc khám phá và hiểu rõ
quan điểm của Mác - Lênin về con đường này không chỉ giúp chúng ta khám
phá bản chất của nhận thức, mà còn từ đó rút ra những ý nghĩa quan trọng trong
việc nghiên cứu khoa học và học tập của chính bản thân chúng ta. Bài tiểu luận
này sẽ tập trung vào việc làm rõ quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý. Từ đó, ta sẽ thấy được tầm quan
trọng của việc áp dụng con đường biện chứng trong hoạt động tự học của sinh
viên Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh công nghệ và thông tin phát triển mạnh
mẽ hiện nay. Hiểu rõ hơn về triết lý này, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan và sâu
sắc hơn về quá trình hiểu biết thế giới, từ đó giúp cho sinh viên phát triển khả năng
tự học để trở thành sinh viên thành công, đáp ứng với yêu cầu của xã hội, đem
lại những ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của xã hội và nhân loại.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận của triết học Mác – lênin
về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý và hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu này, bài tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích quan điểm của triết học mác – lênin về con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý.
- Trình bày khái quát thực trạng hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam
hiện nay và ý nghĩa của sự nhận thức chân lý trong con đường tự học.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch sử - logic,
phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch… PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ 1.1 Chân lý
1.1.1 Khái niệm chân lý
Chân lý là khái niệm dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với
thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực
tiễn. Đồng thời, chân lý cũng là một quá trình. Theo V.I.Lênin: “Sự phù hợp
giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (con người) không nên
hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh đơn
giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động.”
Chân lý là kiến thức phản ánh chính xác hiện thực của đối tượng mà nó thể
hiện và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Theo cách này, khái niệm chân lý không tương đồng với khái niệm tri thức
và cũng không tương đồng với khái niệm giả thuyết. Đồng thời, chân lý cũng là
một quá trình động, không nên hình dung nó dưới dạng một thực thể tĩnh, không
linh hoạt, hay một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không có hướng dẫn, và không có sự vận động.
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức, vì nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến
chân lý, tức là kiến thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan. Điều
này không phải là sự nhận thức tổng quát, mà là sự nhận thức chính xác về hiện thực khách quan.
Chân lý không đơn thuần là hiện thực khách quan nói chung, mà còn là
hiện thực khách quan đã được chính xác phản ánh qua nhận thức của con người.
Không thể tồn tại chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại độc lập và trừu tượng
hoàn toàn trong hiện thực khách quan, như quan điểm của triết học duy tâm đã
thừa nhận. Cũng không chấp nhận quan điểm rằng chân lý thuộc về số đông, tức
là chỉ là ý kiến được nhiều người thừa nhận, hoặc rằng nó thuộc về những người
có quyền lực, người giàu có, và các yếu tố khác.
1.1.2 Các tính chất của chân lý Tính khách quan
Tính khách quan của chân lý thể hiện tính độc lập của nó đối với ý thức con
người và loài người. Nói cách khác, những tri thức đúng đắn không phải là kết
quả của sự chủ quan thuần túy, không phụ thuộc vào sự xác lập tùy tiện của con
người hoặc những quan điểm cá nhân mà nội dung đó thuộc về thế giới khách
quan, do thế giới khách quan quy định.
Tính tương đối và tính tuyệt đối
Tính tuyệt đối của chân lý được thể hiện qua sự hoàn toàn và đầy đủ của
nội dung tri thức so với hiện thực khách quan. Tính tuyệt đối này có thể được
đạt được về nguyên tắc thông qua khả năng nhận thức của con người, khi mà
không tồn tại bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào trong thế giới khách quan mà con
người không thể nhận thức được hoặc tiếp cận. Mặc dù khả năng nhận thức có
thể phát triển vô hạn, nhưng lại bị giới hạn bởi các điều kiện cụ thể của từng thế
hệ và bởi các điều kiện không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh.
Do đó, tính tuyệt đối của chân lý lại mang tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý thể hiện sự phù hợp, nhưng không hoàn toàn
đầy đủ, giữa nội dung tri thức và hiện thực khách quan. Điều này ngụ ý rằng
giữa nội dung của chân lý và khách thể được phản ánh, sự phù hợp chỉ là từng
phần, từng bộ phận, hoặc ở một số mặt, khía cạnh nhất định trong điều kiện cụ thể.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại hoàn toàn tách
rời, mà thay vào đó, chúng thể hiện sự thống nhất biện chứng với nhau. Một
phần, tính tuyệt đối của chân lý là tổng hợp của các tính tương đối. Mặt khác,
trong mỗi chân lý mang tính tương đối, luôn chứa đựng những yếu tố của tính
tuyệt đối. Điều này nhấn mạnh sự liên kết và tương tác phức tạp giữa tính tương
đối và tính tuyệt đối trong quá trình hình thành và biểu diễn chân lý. Tính cụ thể
Tính cụ thể của chân lý thể hiện sự kết hợp và phù hợp giữa nội dung tri
thức và một đối tượng cụ thể, cùng với các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Điều này có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn luôn đi kèm với một nội dung cụ thể,
không phải là một ý niệm trừu tượng hoàn toàn độc lập khỏi hiện thực, mà
ngược lại, luôn liên quan đến một đối tượng cụ thể, xảy ra trong một không gian,
thời gian hoặc môi trường cụ thể, trong mối quan hệ và liên kết cụ thể. Do đó,
mọi chân lý đều kết nối với những điều kiện lịch sử cụ thể, mang đến tính cụ
thể. Nếu loại bỏ những điều kiện lịch sử cụ thể, những tri thức hình thành trong
quá trình nhận thức sẽ trở nên trừu tượng thuần túy và mất đi sự liên quan với
hiện thực cụ thể. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý.
1.2. Nhận thức chân lý
Theo Triết học Mác- Lênin, nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động,
giản đơn, nhất thời mà là một quá trình biện chứng phức tạp có vận động và phát
triển. Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng sự nhận thức chân lý phải dựa trên
phương pháp duy vật biện chứng. Duy vật biện chứng coi ý thức và hiện thực xã
hội là hai mặt không thể tách rời của sự phát triển đồng nhất. Sự nhận thức chân
lý không thể nằm ngoài hoặc trên cao so với thế giới vật chất, mà ngược lại, nó
phụ thuộc vào việc nắm bắt và phản ánh đúng đắn quy luật và quy tắc hoạt động
của thế giới vật chất xung quanh.
Sự nhận thức chân lý trong Triết học Mác – Lênin không chỉ đơn thuần là
việc hiểu biết thế giới xã hội một cách đúng đắn, mà còn đóng vai trò quan trọng
và cách mạng trong việc thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sự nhận thức chân lý trở thành
một công cụ không thể thiếu để làm sáng tỏ bản chất xã hội, tìm ra những
nguyên nhân cơ bản của các vấn đề xã hội và định hướng phát triển tương lai.
V.I. Lênin đã khái quát con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân
lý như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của
sự nhận thức thực tại khách quan”. Như vậy, con đường biện chứng của quá
trình nhận thức chân lý gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau là trực quan
sinh động và tư duy trừu tượng.
1.2.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính (hay trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên trong n
nhận thức của con người, phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các giác quan,
được biểu diễn dưới ba hình thức: cảm giác, giác quan và biểu tượng.
- Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của quá trình nhận thức
cảm tính. Cảm giác được hình thành do sự tác động trực tiếp của khách thể lên
các giác quan của con người, đem lại cho con người những thông tin trực tiếp,
đơn giản nhất về những thuộc tính riêng lẻ của sự vật. Cảm giác là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, là nguồn gốc của những hiểu biết của con người,
là kết quả của sự chuyển hóa những kính thích từ bên ngoài thành ý thức.
Ví dụ, khi con người nhìn thấy một viên phấn màu đỏ, cảm giác của chúng
ta sẽ phản ánh mùa sắc của bông hoa đó thông qua thị giác. Đây là một hình
thức của nhận thức cảm tính vì nó trực tiếp phản ánh các thuộc tính của viên
phấn mà trong trường hợp này là mùa đỏ của viên phấn.
Cảm giác của ta về màu sắc của viên phấn giúp ta có thể phân biệt mùa sắc
với các viên phấn khác, hiểu được tác dụng của viên phấn trong quá trình dạy
học, tác động lên bố cục bài giảng và các sinh viên, ý nghĩa giáo dục mà nó mang lại.
Lênin viết: “cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Dừng lại ở cảm giác thì con người có thể hiểu được các thuộc tính riêng lẻ, cụ
thể của sự vật. Để hiểu sự vật một cách sâu sắc hơn thì cảm giác cần phải được
phản ánh và tổng hợp trong tư duy. Có nghĩa rằng nhận thức phải vươn lên cao hơn hình thức.
- Tri giác là hình thức tiếp theo của quá trình nhận thức cảm tính và được
hình thành trên cơ sở của cảm giác. Nó là sự liên kết, tổng hợp của nhiều cảm
giác nên tri giác phản ánh đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng nó chỉ
phản ánh được những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng mà chưa phản
ánh được bản chất, quy luật khách quan.
Ví dụ, khi ta ngắm một bông hoa hồng đẹp đẽ, các giác quan cho ta nhận
thức ban đầu về màu sắc của bông hoa, hình dạng, các chi tiết cấu tạo nên bông
hoa. Tuy nhiên, để hiểu sâu hơn về bông hoa này, ta cần áp dụng tri giác để đánh
giá bông hoa sâu sắc hơn. Tri giác cho phép ta liên kết, tổng hợp nhiều các cảm
giác ban đề thành một bông hoa hoàn thiện.
Một ví dụ khác về tri giác, khi ta có thể nhận dạng một số vật mà không cần
dùng mắt. Thay vào đó ta có thể dùng tay để sờ hoặc bóp những vật đó để nhận
biết đó là những vật gì. Tri giác cho phép ta sử dụng các dữ liệu do cảm giác
mang lại đồng thời sử dụng những kinh nghiệm mà mình đã được học trong quá
khứ để có hình ảnh của sự vật chúng ta sờ, nắm một cách toàn diện để đoán và
gọi tên sự vật hiện tượng.
Tuy nhiên do tri giác chứa những thuộc tính đặc của sự vật hiện tượng và
không đặc trưng của sự vật hiện tượng. Vì thế để đi đến nhận thức cần phải yêu
cầu con người phân biệt đâu là thuộc tính đặc trưng và đâu là thuộc tính không
đặc trưng của sự vật hiện tượng. Do đó cần phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
- Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính
và đồng thời nó cũng là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận
thức lý tính. Biểu tượng là sự tái hiện lại hình ảnh của sự vật, hiện tượng khách
quan khi những sự vật, hiện tượng đó không còn nằm trong phạm vi cảm giác.
Hình ảnh được tái hiện lại mang tính biểu trưng về hình thức bên ngoài của sự
vật, hiện tượng khách quan nhưng có sự liên tưởng, trừu tượng hoá về sự vật,
hiện tượng. Đó là tiền đề chuyển lên hình thức cao hơn là nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng).
Khi ta nhớ về một bài tập lập trình chúng ta đã hoàn thành, đó là lúc ta có
hình thức nhận thức cảm tính biểu tượng. Mặc dù không có tương tác qua lại
trên phần mềm lập trình nhưng khi chúng ta nhớ lại hay tái hiện lại những hình
ảnh, những thao tác mà ta đã thực hiện và hình dung ra cách mà chương trình
thực hiện các bước trong tâm trí.
Biểu tượng giúp ta có thể suy tư, phân tích, hiểu sâu hơn về vấn đề, về mọi
thứ xung quanh mà không phụ thuộc vào sự tác động trực tiếp của sự vật. Cho
nên biểu tượng phản ánh đặc trưng chính của sự vật. Tuy nhiên, hình thức nhận
thức cảm tính này mới chỉ phản ánh được những mặt, những mối liên hệ bản
chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để tiến gần tới chân lý, nhận thức phải vươn
lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
1.2.2. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính (hay tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ nhận thức cảm tính
(hay trực quan sinh động) nhưng đã được nâng lên một hình thức cao hơn. Con
người phản ánh gián tiếp, sâu sắc hơn, chính xác hơn và hoàn chỉnh hơn về bản
chất sự vật. Nhận thức lý tính bao gồm: khái niệm, phán đoán và suy lý.
- Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát,
gián tiếp các thuộc tính có tính bản chất của sự vật, hiện tượng. Khái niệm được
hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Nó là kết quả của sự tổng hợp, khái quát biện chứng những hiểu biết có được
trong hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, khái niệm “là chủ quan trong
tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan
trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”.
Khi nói đến "mèo", ta không chỉ đề cập đến một con mèo cụ thể mà còn
đang ám chỉ đến một loại sự vật cụ thể trong thế giới tự nhiên. Khái niệm "mèo"
được hình thành thông qua quá trình khái quát và tổng hợp các đặc điểm chung
của các con mèo cụ thể khác nhau. Ví dụ, có thể nhận thấy rằng đa số mèo có
bốn chân, bộ lông và mũi, chúng có khả năng kêu, vẫy đuôi và thực hiện nhiều
hành động tương tự nhau. Nhờ vào quá trình khái quát và tổng hợp biện chứng
này, ta xây dựng được khái niệm "mèo". Khi nhìn thấy một con vật có bốn chân,
lông và biết rằng nó có thể kêu và vẫy đuôi, ta sẽ gọi nó là "mèo", dựa vào việc
áp dụng khái niệm đã tổng hợp trước đó.
Khái niệm "mèo" không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian, mà áp
dụng cho mọi sự vật thoả mãn những đặc điểm chung đó có ở khắp nơi và tồn
tại hàng thế kỷ. Như khái niệm "mèo" vẫn luôn được sử dụng để chỉ giống loài
bốn chân từ xa xưa đến nay. Khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ
quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, và vừa thường xuyên vận
động và phát triển. Đó không chỉ là cơ sở cho việc hình thành phán đoán và tư
duy khoa học, mà còn là một nguồn độc nhất trong quá trình nhận thức. - Phán
đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng khách quan của thế giới trong ý thức con người.
Phán đoán là một hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái niệm
lại để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật. Nó được biểu
hiện dưới hình thức ngôn ngữ là mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất
định. Có ba hình thức phán đoán cơ bản là: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc
thù và phán đoán phổ biến.
Phán đoán được chia làm 3 loại:
+ Phán đoán đơn nhất là khi chúng ta rút ra kết luận dựa trên một khái niệm
duy nhất hoặc một đặc điểm đơn lẻ của đối tượng. Chẳng hạn, trong ví dụ “Mèo
là một loại thú cưng”, phán đoán chỉ tập trung vào một đặc điểm cụ thể của mèo,
đó là "là một loại thú cưng", mà không khám phá chi tiết về mèo hay các đặc điểm khác của nó.
+ Phán đoán đặc thù là khi ta đưa ra một kết luận dựa trên những đặc điểm
đặc thù, cụ thể của đối tượng hoặc tình huống. Điều này giúp làm cho nhận thức
trở nên rõ ràng và chi tiết hơn. Ví dụ: "Mèo là loài thú cưng có đặc điểm đặc thù
là động vật có lông và thích sống trong nhà." Trong trường hợp này, phán đoán
đặc thù sử dụng các đặc điểm riêng biệt của mèo như "thú cưng", "có lông" và
"thích sống trong nhà" để mô tả đặc tính độc đáo của loài mèo.
+ Phán đoán độc nhất là khi ta suy luận một kết luận cụ thể dựa trên một
đặc điểm độc nhất hoặc sự khác biệt của một đối tượng hoặc tình huống. Ví dụ:
"Mèo Sphynx là một loài mèo đặc biệt, có đặc điểm độc nhất là không có lớp
lông và thường yêu thích sự ấm áp." Trong ví dụ này, phán đoán độc nhất sử
dụng đặc điểm độc nhất của "Mèo Sphynx" là "không có lớp lông" và "thường
yêu thích sự ấm áp" để mô tả đặc tính đặc biệt của loài mèo này.
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào mức độ phán đoán, nhận thức chỉ mới mở
rộng mối liên hệ giữa cái đơn nhất và cái phổ biến. Vẫn chưa rõ ràng về mối
quan hệ giữa cái đơn nhất trong phán đoán này và cái đơn nhất trong phán đoán
kia, cũng như chưa đạt được sự hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa cái đặc thù
và cái đơn nhất cùng cái phổ biến. Chẳng hạn, qua ví dụ phán đoán đã được đề
cập, ta vẫn chưa thể xác định được những thuộc tính giống nhau khác ngoài đặc
điểm chung là giữa một loài mèo và các loài thú cưng. Để vượt qua hạn chế này,
nhận thức cần mở rộng hơn từ mức độ đơn nhất và đặc thù đến mức độ suy luận,
nhằm có cái nhìn tổng thể và hiểu rõ hơn về những tương quan giữa các khía
cạnh độc nhất, đặc thù và phổ biến trong ngữ cảnh của loài mèo.
- Suy luận (hay suy lý) là một hình thức tư duy trừu tượng, trong đó xuất
phát từ các phán đoán đã biết làm tiền đề để rút ra phán đoán mới (phán đoán
cuối cùng) là kết luận. Có hai loại suy luận chính là: diễn dịch (đi từ cái chung
đến cái riêng, cái cụ thể) và quy nạp (đi từ cái riêng đến cái chung nhất). Hai
loại suy luận này có mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Suy luận là một
phương thức tư duy quan trọng giúp con người đi từ cái đã biết đến cái chưa biết
một cách gián tiếp, rút ngắn thời gian trong việc phát hiện tri thức mới. Tri thức
có được từ suy luận chỉ chân thực khi các phán đoán tiền đề chân thực và phải
tuân thủ chặt chẽ, đúng đắn các quy tắc logic của chủ thể suy lý.
Suy luận là quá trình tư duy trừu tượng, nơi chúng ta kết nối các phán đoán
với nhau để tạo ra một phán đoán mới mang tính chất kết luận và khám phá tri
thức mới. Ví dụ, nếu liên kết phán đoán "mèo là một loài thú có lông" với phán
đoán "mèo thích sống trong nhà", ta có thể suy luận được tri thức mới là "mèo
có thể có lông và thích sống trong nhà". Suy luận trong trường hợp này tuân
theo nguyên tắc "nếu một đặc điểm áp dụng cho một nhóm và một thành viên
thuộc nhóm đó, thì đặc điểm đó cũng có thể áp dụng cho thành viên đó".
Suy luận là một hình thức tư duy mạnh mẽ trong nhận thức logic, giúp
chúng ta kết hợp các phán đoán riêng lẻ để rút ra những phán đoán mới và hiểu
sâu hơn về sự tương tác của thế giới xung quanh, đặc biệt là trong ngữ cảnh của loài mèo
1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức lý tính, nhận thức cảm tính và thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính không tách biệt nhau mà có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau bổ sung cho nhau và cùng phát triển. Nhận thức cảm
tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, không có nhận thức cảm tính thì không có
nhận thức lý tính. Và ngược lại, nhờ có nhận thức lý tính con người mới đi sâu
vào các nhận thức và nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính tuy khác nhau về chất nhưng lại thống nhất với
nhau, chúng có vị trí, vai trò khác nhau. Trong thực tiễn, cần tránh cường điệu,
tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức cảm tính, hạ thấp và phủ nhận vai trò của
nhận thức lý tính. Như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy cảm. Đồng thời, cần phải
tránh cường điệu thái quá vai trò của nhận thức lý tính, của trí tuệ dẫn đến hạ
thấp hoặc phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, của cảm giác, rơi vào chủ nghĩa duy lý.
Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách
thể cảm tính, thì nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết
được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp nhận
thức cảm tính có được sự định hướng đúng đắn và trở nên sâu sắc hơn. Tuy
nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người chỉ mới có được những tri
thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay
không thì con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi
phải xác định xen những tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều
này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu
chuẩn, làm thước đo tính chân thực của tri thức đã đạt được trong quá trình nhận
thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy cho đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Như vậy, nhận thức lý tính khác với nhận thức cảm tính ở chỗ, nó đã phản
ánh, khái quát, trừu tượng, gián tiếp sự vật hiện tượng trong tính tất yếu, chỉnh
thể hoàn diện. Vì vậy, nhận thức lý tính có thể phản ảnh được mối liên hệ bản
chất bên trong của sự vật hiện tượng sâu sắc hơn nhận thức cảm tính. Đồng thời
nó cũng hàm chứa nguy cơ xa rời hiện thực. Do đó, nhận thức lý tính phải được
gắn liền và được kiểm tra bởi thực tiễn.