Lý luận văn bằng 2 - Triết lí Mác Lênin | Trường Đại học Lao động - Xã hội
Lý luận văn bằng 2 - Triết lí Mác Lênin | Trường Đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin(LĐXH)
Trường: Đại học Lao động - Xã hội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TÀI LIỆU ÔN THI VĂN BẰNG 2
Câu 1: Phân tích đối tượng và phương pháp nghiên cứu của lý luận về nhà
nước và pháp luật.
*Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận chung về nhà nước và pháp luật là một môn học quan trọng
trong hệ thống các môn luật, trình bày và luận giải một cách khoa học các vấn
đề cơ bản nhất của pháp luật trong mối quan hệ với nhà nước và với các hiện tượng xã hội khác.
- Đối tượng nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật là
những vấn đề chung nhất về nhà nước và pháp luật như bản chất, chức năng, vai
trò của nhà nước và pháp luật, các kiểu và hình thức nhà nước và pháp luật, các
khái niệm pháp lý cơ bản, điều chỉnh pháp luật, cơ chế điều chỉnh pháp luật…
Như vậy, những quy luật đặc thù của sự phát sinh, phát triển, những thuộc
tính chung và những biểu hiện quan trọng nhất của nhà nước và pháp luật nói
chung, của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng cấu thành đối
tượng nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
*Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu môn học
- Phương pháp luận của lý luận chung về nhà nước và pháp luật là lập
trường và quan điểm tiếp cận để nghiên cứu hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật có cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nội dung của phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử bao gồm những quy luật, những phạm trù và
những nguyên tắc của duy vật biện chứng như: tính khách quan, tính toàn diện,
tính lịch sử cụ thể...
- Phương pháp nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật là
những cách thức nghiên cứu, cách thức tiếp cận cụ thể đối tượng nhà nước và pháp luật.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận chung về 1
nhà nước và pháp luật sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: trừu tượng
khoa học, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp xã hội học
cụ thể, phương pháp phân tích quy phạm thuần tuý, phương pháp so sánh...
Tóm lại, trong nghiên cứu nhà nước và pháp luật, để đạt tới những kết luận
và nguyên lý khoa học phải tuân thủ theo phương pháp luận Mác-Lênin và cần
sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu; các phương pháp này được kết
hợp sử dụng một cách linh hoạt.
Câu 2: Trình bày nguồn gốc của nhà nước theo học thuyết Mác và liên hệ
với sự ra đời nhà nước Việt Nam trong lịch sử.
Với quan điểm duy vật biện chứng và lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin đã
chứng minh một cách khoa học rằng, nhà nước và pháp luật không phải là hiện
tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã
hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn luôn vận
động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và
phát triển của chúng không còn nữa. Căn cứ khoa học cho các luận điểm quan
trọng về sự xuất hiện nhà nước và pháp luật được hình thành trên cơ sở nghiên
cứu và phân tích toàn bộ hiện thực lịch sử của xã hội loài người.
Do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, con người được
phát triển về thể lực, ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới và trong lao
động sản xuất ngày càng phát triển... đã tạo tiền đề làm thay đổi sự phân công lao
động tự nhiên phải được thay thế bằng sự phân công lao động xã hội. Lịch sử đã trải
qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn, sau mỗi lần đó xã hội có những bước tiến mới.
-Sự phân công lao động lần thứ nhất: chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt và làm
xuất hiện chế độ tư hữu.
-Sự phân công xã hội lớn lần thứ hai: thủ công nghiệp đã tách ra khỏi nông nghiệp.
-Sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ ba: xuất hiện tầng lớp thương
nhân và nghề thương mại. 2
Sau ba lần phân công lao động xã hội những yếu tố mới xuất hiện đã làm
đảo lộn đời sống thị tộc. Những hoạt động thương nghiệp, sự thay đổi nghề
nghiệp và sự nhường quyền sở hữu đất đai đã đòi hỏi sự di động và thay đổi chỗ
ở, phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc, làm mất đi điều kiện tiên quyết cho sự
tồn tại của chế độ thị tộc (đó là các thành viên của một thị tộc hoặc một bộ lạc
phải cùng chung sống trên cùng một lãnh thổ, mà chỉ mình họ cư trú mà thôi).
Chế độ thị tộc tan rã, một xã hội mới ra đời mà toàn bộ những điều kiện kinh tế
của sự tồn tại của nó đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, luôn
mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Xã
hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt các cuộc xung đột công
khai giữa các giai cấp ấy, và cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp ấy diễn
ra trong vòng “trật tự”. Tổ chức đó là nhà nước.
Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một
xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định - đó là xã hội có sự tư hữu tài
sản và phân chia giai cấp mà giữa các giai cấp đó có lợi ích cơ bản đối kháng
nhau đến mức không thể điều hòa được.
Nhà nước xuất hiện ở Việt Nam khá sớm. Vào khoảng thiên niên kỷ thứ II
trước Công nguyên, lực lượng sản xuất xã hội phát triển, chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất ra đời, với ruộng đất đã manh nha hình thành chế độ sở hữu nhà
nước, sự phân hóa diễn ra chậm chạp. Đến đầu thiên niên kỷ thứ I trước Công
nguyên, ở xã hội Việt cổ xuất hiện các tầng lớp dân cư nhưng sự khác nhau về
lợi ích không rõ rệt và mâu thuẫn giữa các tầng lớp đó chưa gay gắt. Nhu cầu
thường trực đặt ra là xây dựng và quản lý các công trình trị thủy, thủy nông,
chống thiên tai và chống ngoại xâm đòi hỏi cả cộng đồng phải hợp lực và thống
nhất bộ máy quản lý để thực hiện các chức năng xã hội. Khi xã hội diễn ra sự
phân hóa rõ rệt, bộ máy quản lý ấy đã tách khỏi xã hội và đóng vai trò là công
cụ thống trị xã hội. Nhà nước Việt Nam đầu tiên là nhà nước Văn Lang của các
Vua Hùng ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên.
Câu 3: Trình bày những phương thức hình thành nhà nước điển hình trong lịch 3 sử Ở phương Tây
Nghiên cứu quá trình xuất hiện nhà nước trong lịch sử, Ph.Ăngghen đã nêu
ra 3 phương thức điển hình của sự ra đời nhà nước ở châu Âu.
- Nhà nước Aten ra đời là kết quả vận động của những nguyên nhân nội tại
trong xã hội. Do sự chiếm hữu tài sản và sự phân hóa giai cấp trong xã hội, tổ
chức thị tộc không còn thích hợp cần thay thế bằng bộ máy quản lý mới nhằm
đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích của những người giàu có. Vì vậy, sự xuất hiện
nhà nước Aten là phương thức xuất hiện nhà nước mang tính thuần túy và điển hình nhất.
- Nhà nước Rôma ra đời là do sự thúc đẩy của cuộc đấu tranh giữa những
người bình dân sống ngoài các thị tộc Rôma chống lại giới quý tộc của các thị tộc Rôma.
- Nhà nước Giécmanh ra đời trực tiếp từ việc chinh phục đất đai của người
khác chứ không phải do yêu cầu đấu tranh giai cấp trong xã hội Giécmanh. Sau
khi nhà nước Giécmanh ra đời và bước vào củng cố, hoàn thiện bộ máy nhà
nước, sự phân hóa giai cấp trong xã hội Giécmanh mới rõ rệt. Ở phương Đông
- Nhà nước ra đời không phải do đòi hỏi bức thiết của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội mà chủ yếu và trực tiếp là do nhu cầu tự vệ và yêu cầu khai
khẩn đất đai, trị thủy, chống thiên tai đòi hỏi con người phải tập hợp nhau lại
trong một cộng đồng có sự liên kết cao hơn gia đình và thị tộc, với một bộ máy
có quyền lực tập trung, thống nhất hơn để điều hành và quản lý các công việc
chung của cộng đồng - đó là nhà nước.
- Nhà nước ra đời trước khi xã hội có sự phân hóa giai cấp. Khi giai cấp
phân hóa rõ rệt và mâu thuẫn trở nên gay gắt thì sự tồn tại của nhà nước đã đáp
ứng được yêu cầu xã hội và lúc đó, nhà nước có cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại và phát triển. 4
Câu 6: Nêu mối liên hệ giữa nhà nước với kinh tế, chính trị, đạo đức và pháp luật?
Nhà nước với kinh tế: Nhà nước ra đời do yêu cầu phát triển của kinh tế.
Bản chất của các quan hệ kinh tế quyết định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, nhà nước cũng có tác động rất mạnh mẽ trở lại các quan hệ
kinh tế: nếu các chính sách của nhà nước phù hợp với các quy luật tất yếu của
kinh tế, nhà nước sẽ dẫn dắt nền kinh tế phát triển; ngược lại, nếu các chính sách
của nhà nước lạc hậu, lỗi thời hay bảo thủ trì trệ thì nhà nước sẽ cản trở sự phát
triển kinh tế, làm suy thoái nền kinh tế.
Nhà nước với chính trị: Nhà nước đóng vai trò là trung tâm của hệ thống
chính trị, có ảnh hưởng rất mạnh mẽ, quyết định nội dung chủ đạo của đời sống
chính trị đất nước. Tuy nhiên nhà nước tồn tại trên cơ sở hệ thống chính trị,
được sự hậu thuẫn đắc lực của hệ thống chính trị. Nhà nước không tồn tại vững
bền được nếu không phát huy đầy đủ vai trò của cả hệ thống chính trị.
Nhà nước với đạo đức: Đạo đức là hệ thống các quy phạm xã hội, các tiêu
chuẩn ứng xử được xã hội thừa nhận và tự giác tuân theo. Trong xã hội có giai
cấp, đạo đức cũng có tính giai cấp. Điều đó có nghĩa là mỗi giai cấp có các tiêu
chuẩn đạo đức khác nhau ngoài các tiêu chuẩn chung đối với con người. Nhà
nước là bộ máy của giai cấp thống trị nên nhà nước phải bảo vệ các tiêu chuẩn
đạo đức phù hợp với giai cấp đó.
Nhà nước với pháp luật: Pháp luật là loại quy phạm xã hội do nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện để tổ chức, quản lý xã hội. Không có nhà nước
thì cũng không có pháp luật hay pháp luật được ban hành mà không được nhà
nước bảo đảm thực hiện thì pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa. Có thể nói, nhà nước
và pháp luật là hai hiện tượng song hành thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, có
mối liên hệ hữu cơ, gắn bó với nhau và không thể tồn tại thiếu nhau. 5
Câu 7: Phân tích chức năng cơ bản của nhà nước
Chức năng cơ bản của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu
của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của nó.
Chức năng nhà nước được xác nhận xuất phát từ bản chất của nhà nước do
cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
Chức năng nhà nước bao gồm: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Chức năng đối nội là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà
nước trong nội bộ đất nước như bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử
chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế, văn hóa...
- Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và các quốc gia khác, như phòng thủ đất nước, thiết lập các quan hệ
ngoại giao, hợp tác phát triển...
Hai chức năng trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau. Việc xác định và thực hiện chức năng đối ngoại luôn xuất phát
từ tình hình thực hiện chức năng đối nội. Đồng thời kết quả của chức năng đối
ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành chức năng đối nội.
Để thực hiện các chức năng trên, nhà nước cần sử dụng nhiều hình thức và
phương pháp hoạt động khác nhau. Trong đó có ba hình thức hoạt động chính là:
xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong mỗi
nhà nước việc sử dụng ba hình thức hoạt động này cũng có những đặc điểm
khác nhau, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước. Các phương pháp hoạt
động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng, nhưng nhìn
chung các nhà nước đều sử dụng hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế.
Câu 8: Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công
khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm
soát quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà 6
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo,
công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng con người.
Đặc trưng nhà nước pháp quyền:
- Nhà nước pháp quyền (NNPQ) có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm
bảo quản lý xã hội bằng pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo đức tiến bộ nhân loại.
- Có cơ chế hữu hiệu bảo đảm tính tối cao của luật trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
- Pháp luật mang tính pháp lý cao, khách quan, công bằng, nhân đạo, vì con người.
- Mối quan hệ nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm.
- Quyền tự do, dân chủ, lợi ích chính đáng của con người được nhà nước
bảo đảm bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử
lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
- Quyền lực nhà nước được tổ chức khoa học, quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp được phân định rõ ràng, hợp lý cho ba hệ thống cơ quan nhà nước trong
mối quan hệ cân bằng, kiểm soát lẫn nhau.
- NNPQ tồn tại trên cơ sở một xã hội công dân phát triển lành mạnh, đảm
bảo tự do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
- NNPQ là nhà nước có quan hệ hòa đồng với cộng đồng thế giới, thực
hiện các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết hay công nhận 7
Câu 9: Trình bày các kiểu nhà nước trong lịch sử. Tại sao nói sự thay thế kiểu
nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác trong lịch sử là tất yếu khách quan?
Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại 4 hình thái kinh tế xã hội:
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với
4 hình thái kinh tế xã hội đó đã có 4 kiểu Nhà nước.
Mỗi kiểu Nhà nước có những đặc điểm riêng biệt về bản chất, chức năng,
nhưng ba kiểu Nhà nước Chủ nô; Phong kiến; Tư sản đều có đặc điểm chung là
kiểu Nhà nước bóc lột, chúng xuất hiện và tồn tại trên cơ sở chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, là công cụ duy trì và bảo vệ nền thống trị và lợi ích của các giai
cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và tư sản. Riêng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
Nhà nước kiểu mới, được xây dựng trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, là tổ
chức quyền lực của nhân dân lao động, sứ mệnh lịch sử của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Theo quan điểm của Mác – Lênin: Sự thay thế kiểu Nhà nước này bằng
kiểu Nhà nước khác là một quá trình lịch sử được thể hiện qua các đặc điểm:
- Tính tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người khi điều kiện cần thiết xảy ra sẽ làm thay thế Nhà nước này bằng nhà nước khác.
- Việc thay thế kiểu Nhà nước được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội.
- Kiểu Nhà nước sau tiến bộ, hoàn thiện hơn kiểu Nhà nước trước.
Sự thay thế kiểu Nhà nước diễn ra thông qua cách mạng xã hội mà kết quả
là kiểu Nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước
trước. Đó là quy luật phát triển của lịch sử. Do sự phát triển không ngừng, tính
năng động và cách mạng của lực lượng sản xuất xã hội đã mâu thuẫn ngày càng
gay gắt với quan hệ sản xuất trì trệ, lỗi thời, đòi hỏi phải phá bỏ quan hệ sản
xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, giải phóng lực lượng sản xuất phát triển. 8
“Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng”.
Câu 10: Trình bày về bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến
địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống
nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Khái niệm bộ máy nhà nước liên quan chặt chẽ tới khái niệm cơ quan nhà
nước là bộ phận cơ bản tạo thành bộ máy nhà nước. Đó là một tổ chức có tính
độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, bao gồm những cán bộ, công chức, viên
chức được nhà nước giao cho những quyền hạn và nhiệm vụ nhất định.
Thông thường trong bộ máy nhà nước bao gồm các hệ thống cơ quan
quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát, nguyên thủ quốc gia.
Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng
của nhà nước, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Một bộ máy nhà nước
có nhiều cơ quan, mỗi cơ quan cũng có những chức năng và nhiệm vụ riêng phù
hợp với phạm vi quyền hạn được giao.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của nhà nước thuộc
mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và do đó việc tổ chức bộ máy để thực hiện
chức năng cũng có những đặc điểm riêng.
Câu 11: Trình bày hình thức nhà nước
Nhà nước được nhận diện từ các biểu hiện ra bên ngoài bằng ba phương
diện: chính thể, cấu trúc và chế độ chính trị. Cụ thể như sau:
a. Chính thể: là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu,
trình tự thành lập, mối liên hệ giữa các cơ quan đó, mức độ tham gia của nhân dân vào
việc thiết lập các cơ quan này.
- Chính thể gồm 2 dạng cơ bản: quân chủ; cộng hoà. 9
Hình thức chính thể quân chủ có đặc điểm: Quyền lực tối cao của nhà nước
tập trung toàn bộ hay một phần trong tay một người đứng đầu nhà nước (vua,
hoàng đế) và quyền lực tối cao đó được thừa kế.
Chính thể quân chủ gồm 2 loại: quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế.
Chính thể quân chủ tuyệt đối có đặc điểm: quyền lực của nhà vua, hoàng đế là
vô hạn. Chính thể quân chủ hạn chế có đặc điểm: quyền lực tối cao được trao
cho người đứng đầu nhà nước và một cơ quan cấp cao khác như nghị viện ở nhà
nước tư sản, hội nghị đại diện đẳng cấp ở nhà nước phong kiến.
Chính thể cộng hoà có đặc điểm: Quyền lực nhà nước được thực hiện bởi
cơ quan đại diện; Cơ quan này được bầu ra trong một thời hạn nhất định.
Chính thể cộng hoà có 2 hình thức: cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc.
Cộng hoà dân chủ có đặc điểm là: pháp luật quy định quyền công dân tham gia
bầu cử để thành lập cơ quan quyền lực. Cộng hoà quý tộc (nô lệ, phong kiến) có
đặc điểm là: quyền tham gia bầu cử để thành lập cơ quan đại diện của nhà nước
chỉ giành riêng cho giới quý tộc. Ngoài ra, hiện nay có nhiều dạng chính thể
cộng hoà: cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị, cộng hoà hỗn hợp.
Chính thể quân chủ hoặc cộng hoà tuỳ thuộc vào kiểu, bản chất nhà nước ở
giai đoạn lịch sử nhất định, phụ thuộc vào kinh tế, chính trị, văn hoá, truyền
thống dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có chính thể cộng hoà dân chủ.
b. Cấu trúc nhà nước
Cấu trúc nhà nước là sự tổ chức nhà nước theo đơn vị hành chính - lãnh
thổ và tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, giữa các cơ quan
nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương. Có 2 loại cấu trúc
nhà nước là đơn nhất và liên bang.
- Nhà nước đơn nhất là nhà nước có lãnh thổ toàn vẹn, thống nhất các đơn
vị hành chính hợp thành, có cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Mỗi đơn vị hành chính không có chủ quyền quốc gia.
- Nhà nước liên bang có đặc điểm: là do nhiều nhà nước hợp lại, không chỉ
riêng liên bang có chủ quyền nhà nước mà mỗi nhà nước thành viên cũng có chủ 10
quyền nhà nước. Trong nhà nước liên bang có 2 hệ thống cơ quan nhà nước, 2
hệ thống pháp luật, đó là pháp luật của toàn liên bang và pháp luật của từng nhà nước thành viên.
c. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là toàn bộ phương pháp, cách thức mà nhà nước sử dụng
để thực hiện quyền lực nhà nước. Chế độ chính trị thể hiện tính chất của nhà
nước dân chủ hay phi dân chủ. Chế độ chính trị là phương pháp cai trị, quản lý
xã hội của giai cấp cầm quyền. Chế độ chính trị ở các nước đa dạng nhưng biểu hiện thành 2 loại chính:
+ Chế độ phi dân chủ như sự chuyên chế của chủ nô, phong kiến, phát xít.
+ Chế độ dân chủ như dân chủ quý tộc, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Câu 12. Chế độ chính trị là gì? Các dạng chế độ chính trị có trong lịch sử?
Chế độ chính trị là toàn bộ phương pháp, cách thức mà nhà nước sử dụng
để thực hiện quyền lực nhà nước. Chế độ chính trị thể hiện tính chất của nhà
nước dân chủ hay phi dân chủ. Chế độ chính trị là phương pháp cai trị, quản lý
xã hội của giai cấp cầm quyền. Chế độ chính trị ở các nước đa dạng nhưng biểu
hiện thành 2 loại chính: Chế độ phi dân chủ và chế độ dân chủ. Cụ thể như sau:
- Chế độ phi dân chủ: Đây là một dạng thể chế Nhà nước kiểu cũ tồn tại
trong lịch sử các kiểu nhà nước Chủ nô, Phong kiến và thể hiện cao độ ở một số
nhà nước độc tài phát xít.
- Nhà nước Chủ nô: quyền lực nhà nước tập trung trong tay Vua, Lãnh chúa;
- Nhà nước Phong kiến: quyền lực tập trung trong tay một người. Vua
hay Hoàng đế có quyền lực vô hạn; quyền lực ấy không do bầu cử theo những
nguyên tắc bảo đảm dân chủ mà theo chế độ nối ngôi (kế vị).
- Nhà nước phát xít, độc tài: quyền lực tối cao và các quyền lực khác được
tập trung cao độ trong tay người đứng đầu: Thống chế, Quốc trưởng; chính sách
của Nhà nước ấy được ban bố, thi hành theo ý chí độc đoán của người cầm quyền 11
- Quyền lực nhà nước là thống thất, nhưng có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lực là quyền
lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực tư pháp. Đối với nhà nước
XHCN Việt Nam, cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở
trung ương và ở địa phương có nhiều ưu điểm, như phát huy được trách nhiệm
của mỗi cơ quan nhà nước khi thực thi quyền lực theo thẩm quyền luật định,
phối kết hợp được nhịp nhàng, chặt chẽ khi cùng giải quyết những vấn đề chung
vì mục tiêu chung. Ở đây, chúng ta thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa "phân
công" và "phối hợp" giữa các cơ quan nhà nước. Nếu chỉ có phân công thôi mà
không phối hợp với nhau thì sẽ dẫn đến tình trạng là công việc của ai người ấy
làm, không cần sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía các cơ quan khác, nhất là khi cần hợp
sức để giải quyết những công việc chung của quốc gia và địa phương, và như
vậy không bảo đảm được thống nhất cao về ý chí và hành động trong bộ máy
nhà nước. Ngược lại, nếu chỉ có phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước mà
không có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, cụ thể giữa các cơ quan đó thì sẽ
dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm, công việc bị ngưng trệ và không biết quy trách
nhiệm cho ai khi gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội. Như vậy, phân công phân
nhiệm nhất thiết phải kèm theo phối kết hợp và phối kết hợp không thể thiếu
phân công phân nhiệm. Tuy nhiên, cơ chế phân công và phối hợp cũng có hạn
chế, như trông chờ, dựa dẫm, ỷ lại nhau khi phối hợp giải quyết công việc
chung; không biết quy trách nhiệm cho cơ quan nào khi phối hợp giải quyết
công việc chung gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà nước và xã hội. Do đó, cần
có sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước để tránh những tồn tại nêu trên.
- Có hệ thống pháp pháp luật tương đối toàn diện, đồng bộ, khoa học,
thực tiễn. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ: có đầy đủ các
ngành luật để điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội chủ yếu mà xã hội đang
yêu cầu; Hệ thống pháp luật có tính đồng bộ là hệ thống pháp luật mà trong đó
không có mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp nhau. Tính khoa học của hệ thống
pháp luật thể hiện ở chỗ: cả hệ thống pháp luật được xây dụng trên cơ sở lý luận 28
và thực tiễn chắc chắn, đúng đắn với kỹ thuật xây dựng pháp luật cao, luôn luôn
bảo đảm cho nội dung pháp luật chứa đựng được những quan điểm, nhận thức
khoa học mới về thực tiễn, còn hình thức pháp luật thì rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn,
dễ hiểu, có tính lô gíc cao. Tính thực tiễn của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ:
cả hệ thống pháp luật được xây dựng xuất phát từ nhu cầu khách quan của xã
hội, phù hợp với khả năng và điều kiện của xã hội và có khả năng giải quyết
được những vấn đề trước mắt cũng như tương đối lâu dài của xã hội.
- Giữa nhà nước và cá nhân có mối quan hệ bình đẳng về quyền, nghĩa vụ
và hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm quyền của
nhau. Quan hệ giữa nhà nước với cá nhân được xây dựng, củng cố, phát triển
trên các nguyên tắc: hai bên đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, đều phải chịu
trách nhiệm pháp lý như nhau khi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của nhau;
nhà nước coi quyền của cá nhân là nghĩa vụ của mình, cá nhân coi nghĩa vụ của
nhà nước cũng là quyền của mình. Mối quan hệ này được pháp luật ghi nhận,
bảo đảm thực hiện và thể hiện bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Mọi chính sách, pháp luật của nhà nước đều luôn luôn xuất phát từ con
người, cho con người, vì con người. Nhờ có sự quản lý xã hội một cách khoa
học và đúng đắn của nhà nước mà con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, được hưởng
đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp. Nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng, ghi nhận,
bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân của cá nhân.
- Nhà nước luôn luôn tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống
nhất các điều ước quốc tế mà mình đã ký kết hoặc tham gia. Đặc điểm này phản
ánh xu thế hội nhập quốc tế về mọi mặt đang ngày càng tăng của nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là một trong những điều kiện quốc tế quan trọng
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 29
- Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện, từ tổ
chức bộ máy, công tác cán bộ, chính trị tư tưởng đến toàn bộ hoạt động xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Câu 22: Trình bày phương hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước một cách toàn diện,
triệt để và sâu sắc theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung
đổi mới gồm: đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp nhằm bảo đảm cho các cơ quan này có thực quyền, thực hiện có hiệu
quả chức năng của mình; đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước nhằm bảo đảm cho các cơ quan này thực hiện ngày càng có hiệu
quả hơn các chức năng quản lý hành chính đối với các lĩnh vực của đời sống xã
hội; đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp (cơ
quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, luật sư, công chứng, hộ tịch, giám
định pháp y,…) nhằm bảo đảm cho các cơ quan và các tổ chức này hoạt động
ngày càng có hiệu quả và hiệu lực hơn trong việc bảo vệ chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, chế độ văn hoá, giáo dục, khoa học - công nghệ, các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đạt được các yêu cầu toàn diện,
đồng bộ, khoa học, thực tiễn. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phải theo
hướng đáp ứng tốt yêu cầu về hoàn thiện bộ máy nhà nước, phát triển kinh tế,
văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ hiện đại, củng cố quốc phòng, an ninh,
hội nhập toàn diện với quốc tế, giải quyết các vấn đề xã hội…
- Đẩy mạnh công tác phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật. Coi đây
là một trong những phương hướng hoạt động trọng tâm trong toàn bộ công tác
chính trị tư tưởng, đạo đức; thường xuyên cải tiến nội dung, hình thức, phương
pháp phổ biến pháp luật; kết hợp hài hoà và chặt chẽ giải thích pháp luật chính thức
với giải thích pháp luật không chính thức; luôn luôn đổi mới chương trình, nội 30
dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật trong các trường học và trên phạm vi toàn xã hội.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Kết
hợp chặt chẽ và hài hoà bốn loại kiểm tra: kiểm tra của đảng cộng sản, kiểm tra
của nhà nước, kiểm tra của các tổ chức xã hội và kiểm tra của nhân dân; đề cao
vai trò giám sát của quốc hội và các cơ quan dân cử trực tiếp ở địa phương;
thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước.
- Xử lý mọi vi phạm pháp luật một cách kịp thời, nghiêm minh, nhanh
chóng. Tình trạng vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm đang diễn ra hết sức phức
tạp, cho nên thái độ của nhà nước là xử lý vi phạm pháp luật phải kịp thời,
nghiêm minh, nhanh chóng, đúng pháp luật. Đặc biệt giữa nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và các quốc gia khác phải có sự phối kết hợp chặt chẽ trong
việc phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là các tội rửa tiền, buôn bán
ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em, v.v.
- Tăng cường hội nhập pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn chủ động và tích cực ký kết hoặc gia
nhập các điều ước quốc tế về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, dân sự, lao động,
quyền con người, văn hoá, giáo dục, khoa học - công nghệ, quyền của phụ nữ và
trẻ em, chống phân biệt chủng tộc,…
Câu 23: Phân tích nội dung chức năng kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Nhà nước tổ chức quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Mục tiêu của chức năng này là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
nâng cao hiệu qủa và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, tạo nền
tảng để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
- Nội dung gồm: giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát 31
huy mọi tiềm năng và nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, hình thành đồng bộ và hoàn thiện
các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với đặc điểm của nước ta, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.
Câu 24: Phân tích nội dung của nguyên tắc nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
Nhà nước, nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà nước và tham gia quản lý nhà
nước, nguyên tắc này được quy định trong hiến pháp - luật cơ bản của nhà nước,
thể hiện sâu đậm tính nhân dân của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện
tốt nguyên tắc này không những đảm bảo cho nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn
luôn là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà còn là một biện
pháp hữu hiệu để ngăn ngừa và chống lại tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà nước trước hết thông qua chế độ bầu cử
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín để lựa chọn những người có đủ
đức, tài vào các cơ quan đại diện cho quyền lực nhân dân (hay các cơ quan dân
cử trực tiếp). Các cơ quan đại diện cho quyền lực nhân dân bầu, thành lập các cơ
quan chấp hành của mình và những người lãnh đạo các cơ quan đó (bầu Chủ
tịch quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao...). Cử tri có quyền kiểm tra,
giám sát sự hoạt động của đại biểu dân cử và có thể bãi miễn họ khi họ không
còn xứng đáng với cử tri nữa.
Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý nhà nước. Dưới hình
thức trực tiếp, nhân dân (mà cụ thể là cử tri) bỏ phiếu bầu người đại diện cho
mình vào các cơ quan đại diện cho quyền lực nhân dân; thảo luận, đóng góp ý
kiến vào dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng quan trọng liên 32
quan tới quốc kế dân sinh; bỏ phiếu quyết định những vấn đề trọng đại của quốc
gia (biểu quyết toàn dân); kiến nghị với cơ quan nhà nước; làm việc trong cơ
quan nhà nước; kiểm tra, giám sát sự hoạt động của bộ máy nhà nước; quản lý
một số công việc mà chính quyền giao cho,... Ngoài ra, nhân dân còn tham gia
quản lý nhà nước thông qua những cá nhân, tổ chức đại diện cho mình như đại
biểu dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng khác
Câu 25: Phân tích nội dung của nguyên tắc Đảng lãng đạo trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, đảng cộng sản là tổ chức
chính trị duy nhất có khả năng và điều kiện lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa
và toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước có tầm quan
trọng và ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đảng xác định mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, sao cho nhà nước thật
sự là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể hiện tập trung và đầy đủ nhất ý chí và
lợi ích, nguyện vọng của nhân dân; vạch ra đường lối chiến lược về đối nội, đối
ngoại để nhà nước thể chế hoá chúng thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật ấy; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho nhà nước, giới thiệu đảng viên ưu tú và
người ngoài đảng đủ năng lực, phẩm chất để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử
trực tiếp hoặc để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị
trí then chốt trong bộ máy nhà nước; giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên
và quần chúng; kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Như vậy,
Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện từ chính trị, tư tưởng, tổ
chức, cán bộ đến những lĩnh vực hoạt động cụ thể của nhà nước.
Để thực hiện thành công vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước,
Đảng Cộng sản sử dụng phương pháp chủ yếu như tuyên truyền, giáo dục, vận
động, thuyết phục và tự nêu gương của Đảng viên làm việc trong bộ máy nhà 33
nước. Mọi tổ chức của Đảng cộng sản đều hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Câu 26: Phân tích nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của nguyên tắc này là kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của cấp trên với việc phát huy dân chủ và quyền chủ động sáng tạo
của cấp dưới. Về tổ chức, tất cả các cơ quan nhà nước đều bắt nguồn từ cơ quan
đại diện cao nhất cho quyền lực của nhân dân là Quốc hội, báo cáo công tác
trước Quốc hội; Quốc hội chỉ đạo thống nhất sự hoạt động của cả bộ máy nhà
nước, còn các cơ quan nhà nước trong mỗi phân hệ chịu sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của cơ quan đứng đầu phân hệ ấy.
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ thể
hiện ở quan hệ hai chiều giữa cấp trên và cấp dưới. Đối với cấp trên, phải
thường xuyên theo dõi, chỉ đạo sát sao hoạt động của cấp dưới; kịp thời ban
hành các quyết định quản lý để cấp dưới thực hiện; kiểm tra, giám sát hoạt động
của cấp dưới; thường xuyên thông báo tình hình quản lý nhà nước cho cấp dưới
biết; kịp thời sửa chữa, khắc phục thiếu sót, nhược điểm trong công tác chỉ đạo
và trong các quyết định quản lý của mình (nếu có thiếu sót, nhược điểm do tự
mình phát hiện được hoặc do cấp dưới phát hiện được và thông báo cho cấp
trên); tôn trọng thẩm quyền luật định của cấp dưới, tạo điều kiện cho cấp dưới
thực hiện đúng đắn, đầy đủ thẩm quyền của họ; chịu trách nhiệm chính trị và
trách nhiệm pháp lý về sai phạm của mình và liên đới chịu trách nhiệm chính trị
và trách nhiệm pháp lý trong trường hợp cấp dưới sai phạm. Đối với cấp dưới,
phải phục tùng sự chỉ đạo của cấp trên; thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống
nhất các quyết định quản lý của cấp trên; chủ động và kịp thời ban hành các
quyết định quản lý nhằm giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình và tự
chịu trách nhiệm về các quyết định đó; thường xuyên thông báo tình hình quản
lý nhà nước cho cấp trên biết; kịp thời thông báo cho cấp trên biết những thiếu
sót, nhược điểm trong các quyết định của cấp trên (nếu có) và kiến nghị với cấp 34
trên những biện pháp nâng cao chất lượng các quyết định quản lý và cải tiến công
tác chỉ đạo; kịp thời và nhanh chóng sửa chữa, khắc phục thiếu sót, nhược điểm
trong quá trình thực hiện các quyết định quản lý của cấp trên và của chính mình
(nếu có thiếu sót, nhược điểm đó do cấp trên phát hiện hoặc do tự mình nhận ra); tự
chịu trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý về sai phạm của mình khi thực
hiện quản lý nhà nước (nếu có sai phạm).
Câu 27: Trình bày hệ thống cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa hệ thống cơ quan quyền lực được xác
định là hệ thống các cơ quan dân cử trực tiếp. Toàn bộ các cơ quan nhà nước
này từ trung ương xuống địa phương hợp thành một hệ thống thống nhất, đều do
nhân dân trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Việc tổ chức, hoạt
động cũng như nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan quyền lực nhà
nước đều do hiến pháp và pháp luật quy định. Hệ thống các cơ quan dân cử trực
tiếp gồm: cơ quan dân cử trực tiếp cao nhất và các cơ quan dân cử trực tiếp ở địa phương.
Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (hay cơ quan đại biểu cao nhất cho
quyền lực của nhân dân) có nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ Quốc hội (Việt Nam),
Xô Viết tối cao (Liên Xô cũ), Hội nghị đại biểu nhân dân toàn quốc (Trung
Quốc),... Trong cơ quan dân cử trực tiếp cao nhất có cơ quan thường trực và
cũng được gọi khác nhau, như Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việt Nam), Đoàn
chủ tịch Xô Viết tối cao (Liên Xô cũ), Hội đồng nhà nước (Cu Ba, Cộng Hoà Dân Chủ Đức cũ).
Cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được thành lập theo các đơn vị
hành chính - lãnh thổ và cũng có tên gọi khác nhau như Hội đồng nhân dân (Việt
Nam), Xô Viết nhân dân địa phương (Liên Xô cũ), Hội nghị đại biểu nhân dân
địa phương (Trung Quốc). 35
Câu 28: Trình bày vị trí, vai trò của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước bao gồm Chính phủ và Uỷ ban
nhân dân các cấp, do cơ quan quyền lực nhà nước bầu và thành lập ra.
Chính phủ (bao gồm có các Bộ và cơ quan ngang bộ) là cơ quan chấp
hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, chịu trách
nhiệm thống nhất quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi cả nước
về kinh tế, tài chính, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ, chính sách xã hội,
tài nguyên môi trường…thống nhất quản lý hệ thống bộ máy hành chính nhà nước.
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, có nghĩa
vụ chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân,
quản lý các công việc của địa phương.
Câu 29: Phân tích vị trí, vai trò của hệ thống cơ quan xét xử, cơ quan Viện
kiểm sát trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hệ thống các cơ quan xét xử: Các cơ quan xét xử gồm toà án nhân dân,
toà án quân sự và các toà án khác được thành lập theo luật định. Các toà án xét
xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành
chính, thương mại, v.v. Việc xét xử đó phải tuân theo các nguyên tắc luật định
như khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, công khai, dân chủ, công bằng, hợp lý, bảo đảm các quyền bào chữa, quyền
được dùng tiếng nói, chữ viết dân tộc của người tham gia tố tụng,…
- Phân hệ các cơ quan Viện kiểm sát. Các cơ quan Viện kiểm sát gồm
Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự. Việc tổ chức các cơ quan này
theo nguyên tắc thủ trưởng, tập trung thống nhất, trực thuộc theo chiều dọc.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của viện kiểm sát các 36
cấp. Ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư
pháp, các viện kiểm sát còn thực hành quyền công tố trước toà án.
Câu 30: Phân tích vị trí, vai trò của các tổ chức xã hội trong hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa
Các tổ chức xã hội là hạt nhân cơ sở của hệ thống chính trị. Ở Việt Nam,
các tổ chức xã hội bao gồm một số tổ chức như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam… Các tổ chức xã hội là
chỗ dựa của Nhà nước, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân với nhà
nước, là cầu nối giữa nhân dân với nhà nước.
Các tổ chức xã hội được thành lập theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy
định; tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc thành lập, củng cố, hoàn thiện và
bảo vệ bộ máy nhà nước; tham gia xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật và bảo vệ pháp luật; tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề quan
trọng của cả nước và địa phương; kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước; quản lý những công việc mà nhà nước giao cho; giáo dục các thành viên ý
thức sống và làm việc theo pháp luật và động viên họ tích cực tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội; tiến hành các hoạt động xã hội cần thiết trong khuôn
khổ pháp luật để thoả mãn nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành viên.
Câu 31: Phân tích hình thức, phương pháp nhân dân tham gia vào tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó,
chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động
quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước mới thực sự thành
công. Phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý
nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà nước giữ vững bản chất là nhà nước của dân, do
dân và vì dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành. 37
Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được biểu hiện ở chỗ
nhân dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân
các cấp theo quy định của pháp luật; có quyền tham gia quản lí nhà nước, tham
gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; thực hiện việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước.
Nhân dân có thể khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của tất cả các
cơ quan và nhân viên nhà nước.
Câu 32: Trình bày các loại chế tài theo quy định của pháp luật
Chế tài là những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối
với chủ thể nào không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong pháp luật.
Các biện pháp mà nhà nước tác động tới chủ thể vi phạm pháp luật rất đa
dạng. Căn cứ vào tính chất của những biện pháp đó và cơ quan có thẩm quyền
áp dụng chúng để có thể chia chế tài quy phạm pháp luật thành các loại sau:
- Chế tài hình sự (hình phạt) theo Luật Hình sự Việt Nam, gồm có: cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
Ngoài ra còn có các hình phạt bổ sung như cấm đoán việc đảm nhiệm những
chức vụ làm những nghề hoặc công việc nhất định, cấm cư trú quản chế, tước
một số quyền công dân, tịch thu tài sản...
- Chế tài hành chính gồm các biện pháp xử phạt hành chính: Cảnh cáo, phạt
tiền, tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh, tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm và trục xuất và các biện pháp xử lý hành chính (giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh)
- Chế tài kỷ luật gồm các biện pháp: trách nhiệm, vật chất, bồi thường thiệt hại...
Những biện pháp tác động mà nhà nước xã hội chủ nghĩa quy định ở chế
tài quy phạm pháp luật không chỉ nhằm mục đích trừng phạt, ngăn chặn các 38
hành vi vi phạm pháp luật mà còn mang tính giáo dục mọi người tôn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Câu 33: Nêu nội dung đổi mới đối với hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao
gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời
phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước
và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị
mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.
- Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ
thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội
dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính
của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và
các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt
động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội 39
ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực
hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Đổi mới đối với hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay: Đối với Đảng
- Trong đổi mới hệ thống chính trị, phải giữ vững vai trò lãnh đạo, vị thế
cầm quyền của Đảng - đó là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di, bất dịch.
- Phải tiếp tục xây dựng Đảng trở thành một “đảng đạo đức, văn minh”,
cách mạng và khoa học, trong sạch và vững mạnh, thật sự vì lợi ích của mỗi
người dân và lợi ích của cả dân tộc.
- Đảng phải đưa ra được những quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học,
khách quan, phù hợp, hướng vào mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân.
- Chăm lo xây dựng, củng cố, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong. Giữ
vững và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục đổi mới,
kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
- Đảng thật sự tôn trọng dân chủ, phát huy có hiệu quả trong thực tế vai
trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên mọi phương diện
thuộc chức năng của các tổ chức này, đồng thời đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của chúng; khắc phục tình trạng hành chính hóa.
- Chăm lo nâng cao trình độ dân trí, nhất là trình độ văn hóa pháp lý, văn
hóa dân chủ, văn hóa chính trị, nhằm làm cho nhân dân lao động hiểu biết và sử
dụng quyền dân chủ, thực hành dân chủ một cách đúng đắn, hiệu quả.
Đối với Nhà nước
1- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, thực hiện với hiệu quả cao chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, với nhân dân, với thị trường. 40
2- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước
hết, đối với Quốc hội, phải thực sự bảo đảm đây là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Hoàn thiện chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp và pháp luật.
Nghiên cứu làm rõ quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối
với Chủ tịch nước theo tinh thần Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI.
- Tiếp tục đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền
hành chính trong sạch, vững mạnh, quản lý thống nhất, thông suốt, tinh gọn, hợp
lý; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, khắc phục
tình trạng buông lỏng trên một số lĩnh vực.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh
và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự,
thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính
khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng
cơ quan và chức danh tư pháp.
- Đối với chính quyền địa phương, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính
quyền cấp tỉnh, cấp huyện
- Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ
năng công tác; kết hợp đào tạo, bồi dưỡng với luân chuyển để rèn luyện trong thực tiễn.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội 41
- Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không
chồng chéo. Tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động, không bị “hành chính
hóa”, để gần dân, sát dân hơn.
- Thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp, quy định về giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế để
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.
- Quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo nguyên tắc
tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật. Sửa
đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về tổ chức quản lý, và hoạt động hội
phù hợp với tình hình mới.
Câu 34: Trình bày nguồn gốc của pháp luật, liên hệ với sự ra đời pháp luật Việt Nam.
Các quan điểm phi mácxít. Có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc
của pháp luật như thuyết thần học cho rằng pháp luật do Chúa trời, Thượng đế,
Đấng tối cao đặt ra; thuyết pháp luật tự nhiên coi pháp luật là tổng thể những
quyền của con người tự nhiên sinh ra mà có; thuyết pháp luật linh cảm quan
niệm pháp luật là những linh cảm của con người về những cách xử sự hợp lý...
Những quan điểm trên có điểm chung là giải thích nguồn gốc của pháp luật một
cách duy tâm, thần bí, thiếu cơ sở khoa học.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, những nguyên nhân làm phát
sinh nhà nước cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp
luật. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ sắc bén để thực
hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Nhà nước ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện cũng
như nhà nước, pháp luật là sản phẩm của xã hội phát triển đến một trình độ nhất định.
- Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, những tập quán và những tín điều 42
tôn giáo đã là những quy phạm xã hội rất phù hợp để điều chỉnh các quan hệ xã
hội lúc đó. Chúng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội của chế độ
cộng sản nguyên thuỷ. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành
giai cấp, những tập quán đó không còn phù hợp nữa vì nó thể hiện ý chí chung
của mọi người trong xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, khi những xung đột về
lợi ích giai cấp diễn ra gay gắt và cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hòa
được thì cần thiết phải có một loại quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một
“trật tự”, một loại quy phạm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, đó là quy phạm pháp luật.
- Hệ thống pháp luật của nhà nước được hình thành dần dần từng bước và
phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước, nhưng
nói chung giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng các tập quán để phục vụ lợi
ích của giai cấp mình, dần dần thay đổi nội dung của các tập quán hoặc tiền lệ
bằng con đường nhà nước nâng chúng thành các quy phạm pháp luật (tập quán
pháp, tiền lệ pháp) nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục đích nhất định.
- Hệ thống pháp luật của nhà nước còn được hình thành từ các văn bản
pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành. Hoạt động xây dựng pháp luật của
các nhà nước đã được bắt đầu ở thời kỳ sớm nhất sau khi nhà nước ra đời. Tuy
nhiên, hoạt động này lúc đầu còn rất đơn giản và phiến diện, sau dần dần được
phát triển cùng với sự phát triển của nhà nước. 43
Câu 35: Phân tích bản chất của pháp luật
Cũng giống như nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện trước hết
ở tính giai cấp của nó. Tính giai cấp của pháp luật biểu hiện ở chỗ, pháp luật
phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị mà nội dung được quy định
bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị đã
thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung,
thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước và ý chí đó được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan
hệ xã hội của nó. Trong xã hội có giai cấp, pháp luật chính là yếu tố điều chỉnh
về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển
theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và
củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Vì vậy, pháp luật chính là công cụ thực
hiện sự thống trị giai cấp.
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội và có giá trị xã hội
to lớn. Có thể nói các quy phạm pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc tự nhiên”
trong xã hội. Xã hội thông qua nhà nước ghi nhận những cách xử sự “hợp lý”,
“khách quan”, phù hợp với lợi ích của số đông trong xã hội và được nhà nước
thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật.
Giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ, một quy phạm pháp luật
vừa là thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá
trình, các hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các
quá trình xã hội, đưa đến cho con người lượng thông tin nhất định về các giá trị
và các yêu cầu của xã hội.
Bên cạnh tính giai cấp, tính xã hội và các giá trị xã hội của pháp luật,
chúng ta không thể coi nhẹ tính dân tộc, tính mở... của pháp luật.
Tính xã hội, tính dân tộc, tính mở... của pháp luật không mâu thuẫn với
tính giai cấp mà còn hỗ trợ, bổ sung cho tính giai cấp. Các tính chất nói trên của 44
pháp luật cùng với giá trị xã hội của nó, làm cho pháp luật thực sự đóng vai trò
là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng và hiệu quả nhất.
Từ sự phân tích như trên, có thể đi đến định nghĩa: Pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã
hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội.
Câu 36: Phân tích những đặc trưng cơ bản của pháp luật
a. Pháp luật mang tính quyền lực nhà nước
Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện
nghĩa là nó chỉ được hình thành bằng con đường nhà nước. Với tư cách đặc biệt
của mình, nhà nước là tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm
toàn xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị thể hiện và hợp pháp hóa ý
chí của mình một cách chính thống trên thực tế. Việc bảo đảm cho các quy định
pháp luật được thực thi có hiệu quả chính là bảo đảm cho quyền lực nhà nước có
thể tác động đến mọi chủ thể. Chính vì vậy, pháp luật không tách rời nhà nước,
luôn mang tính quyền lực nhà nước trong quá trình tồn tại và phát huy giá trị đích thực của nó.
b. Pháp luật mang tính bắt buộc chung
Pháp luật được xây dựng nên không phải vì cá nhân hay tổ chức đơn lẻ
mà nó được sử dụng cho số đông các loại chủ thể gắn liền với những điều kiện
cụ thể. Vì lẽ đó, pháp luật ghi nhận các giá trị xã hội, các phương thức ứng xử
điển hình, phổ biến trong xã hội. Bằng những mệnh lệnh thức: cho phép, ngăn
cấm hoặc bắt buộc, pháp luật tác động đến ý thức chủ thể, đòi hỏi chủ thể xác
lập hoặc không được xác lập những hành vi nhất định. Bất cứ chủ thể nào rơi
vào hoàn cảnh đã được pháp luật xác định đều phải xử sự theo quy định, yêu cầu
của pháp luật. Như vậy, xử sự đúng với pháp luật không chỉ là yêu cầu pháp lí
đối với chủ thể mà cũng là trách nhiệm của chính chủ thể đó trước các giá trị và
phương thức ứng xử đã được xã hội tôn trọng và thừa nhận. Tính bắt buộc chung
của pháp luật trước hết đòi hỏi nó phải được thống nhất trong nhận thức và thực 45
thi trên thực tế. Tuy nhiên, do ý thức và trình độ văn hóa nói chung ở mỗi người
khác nhau nên đòi hỏi đó là điều khó có được trong đời sống thực tế.
c. Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, đó chính là khuôn mẫu, thước đo,
chuẩn mực pháp lí. Tính quy phạm của pháp luật không trừu tượng mà rất cụ thể
trong việc xác định giới hạn hành vi của mọi chủ thể mà pháp luật tác động tới.
Giới hạn đó được xác định cả về mặt nội dung và hình thức, thể hiện ở khả năng
cho phép, cấm đoán hoặc bắt buộc với chủ thể. Đây là ranh giới để các chủ thể
tự do lựa chọn cách thức xử sự cho phù hợp, vượt quá giới hạn đó là trái pháp luật.
d. Pháp luật mang tính hệ thống
Với tính cách là hiện tượng xã hội độc lập, pháp luật có tính hệ thống
trong quá trình tồn tại và phát huy giá trị. Pháp luật là hệ thống quy phạm và có
mối liên hệ hữu cơ với nhau. Mặc dù tồn tại trong nhiều loại văn bản khác nhau
nhưng các quy phạm pháp luật tạo nên chỉnh thể có sự tương tác hữu cơ với
nhau để phát huy hiệu lực của mỗi quy phạm. Tính hệ thống của pháp luật còn
thể hiện trong quá trình thực hiện pháp luật trên thực tế.
e. Tính xác định chặt chẽ về hình thức
Nội dung pháp luật luôn được thể hiện dưới những những hình thức nhất
định, nói cách khác, những quy định pháp luật phải được chứa đựng trong các
nguồn luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật... Sự xác
định chặt chẽ về hình thức là điều kiện để phân biệt giữa pháp luật với những
quy định không phải là pháp luật, đồng thời cũng tạo nên sự thống nhất, chặt
chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.
Câu 37: Phân tích mối quan hệ của pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức và nhà nước.
Trong mối quan hệ với kinh tế, một mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế,
mặt khác pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách manh mẽ đối với kinh tế.
Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở nội dung của pháp luật là do 46
các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật.
Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế, nó không thể cao
hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó, mặt khác pháp luật có tác động trở lại
đối với sự phát triển kinh tế. Khi pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là
lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì
nó có tác động tích cực làm cho kinh tế phát triển. Ngược lại, khi pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, muốn dùng pháp luật để duy trì các
quan hệ kinh tế đã lạc hậu không còn phù hợp, thì pháp luật sẽ có tác động tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội. 47
Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật vừa là biện pháp, là
phương tiện để thực hiện mục đích chính trị của giai cấp cầm quyền, vừa là
hình thức biểu hiện của chính trị, ghi nhận yêu cầu, nội dung chính trị của
giai cấp cầm quyền. Mối liên hệ giữa pháp luật và chính trị được thể hiện tập
trung trong mối liên hệ giữa đường lối, chính sách của giai cấp thống trị với
pháp luật. Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị có vai trò chỉ đạo trong
việc xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Pháp luật làm cho
đường lối, chính sách của giai cấp thống trị thành ý chí chung, thành những
quy định chung thống nhất trong toàn xã hội.
Trong mối quan hệ với đạo đức: Đạo đức được hiểu là những quan
niệm, quan điểm của con người (một cộng đồng người, một giai cấp) về cái
thiện, cái ác, về sự công bằng, nghĩa vụ, danh dự và về những phạm trù
khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Những quan niệm, quan điểm này
rất khác nhau do những điều kiện của đời sống vật chất xã hội quyết định,
cho nên các quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội cũng rất nhiều loại...
Chúng luôn có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Giai cấp thống
trị, do có ưu thế đặc biệt về kinh tế và chính trị nên thông qua nhà nước để
biến những quan niệm, quan điểm của mình thành pháp luật. Vì vậy, pháp
luật cũng luôn phản ánh đạo đức của lực lượng cầm quyền. Pháp luật chịu
sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội khác, nhưng nó cũng tác
động rất mạnh mẽ tới các hiện tượng xã hội đó, thậm chí trong một số
chừng mực nhất định pháp luật còn có khả năng cải tạo các quy phạm đạo đức và xã hội. 48
Pháp luật và nhà nước là hai thành tố của thượng tầng chính trị -
pháp lý luôn có quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Chúng cùng
phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị nhưng chỉ có thể triển khai và có hiệu lực trên cơ sở
của pháp luật. Nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu
pháp luật, ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển, có hiệu
lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, không thể nói pháp luật
đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng trên pháp luật. Pháp luật có vai trò to lớn
chính ngay đối với sự tồn tại và phát triến của nhà nước. Nhà nước đề ra pháp
luật thì chính nhà nước phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật. Pháp luật do nhà
nước ban hành và cũng chính nhà nước bằng nhiều biện pháp khác nhau đã đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.
Câu 38: Phân tích vai trò của pháp luật
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò
hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Vai trò to
lớn của pháp luật thể hiện rõ nhất ở những khía cạnh sau đây:
Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả đòi hỏi
phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan,
mỗi cơ quan phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng, phải có những
phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ, trong
quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Những điều đó chỉ có thể thực
hiện được khi dựa trên các quy định của pháp luật.
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội.
Nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, do đó nó có chức
năng quản lý toàn xã hội. Để quản lý xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện,
nhiều biện pháp, trong đó pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Pháp luật có
khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh 49
nhất. Nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực, kiểm tra, kiểm
soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò to lớn. Vì
tính chất phức tạp và phạm vi rộng lớn của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước
không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể, mà chỉ thực hiện
quản lý ở tầm vĩ mô và mang tính chất hành chính - kinh tế. Quá trình đó không
thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật.
Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ xã hội mới.
Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội với những tình huống (sự kiện) cụ
thể, điển hình tồn tại và tái diễn thường xuyên ở những thời điểm cụ thể trong xã
hội, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù hợp, mặt khác dựa
trên cơ sở của những kết quả dự báo khoa học, con người có thể dự kiến được
những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống cụ thể, cần có sự điều chỉnh
bằng pháp luật. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những
quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng, nhiệm
vụ và tổ chức thử nghiệm.
Pháp luật tạo lập môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ
bang giao giữa các quốc gia.
Sự ổn định của mỗi quốc gia luôn là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm
tin, là cơ sở để mở rộng các mối bang giao với các nước khác. Pháp luật tạo ra
môi trường ổn định và là cơ sở cho việc thiết lập và củng cố, phát triển các mối
quan hệ bang giao giữa các quốc gia.
Bởi vậy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển
của xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy
vai trò của pháp luật. Phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn
diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước,
đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung với tình hình quốc tế và khu vực. 50
Câu 39: Trình bày các kiểu pháp luật trong lịch sử.
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của pháp
luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của pháp
luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Kiểu hình thái kinh tế - xã hội, kiểu phương thức sản xuất (các đặc điểm,
bản chất của chế độ kinh tế - xã hội) quyết định kiểu nhà nước và pháp luật,
quyết định những dấu hiệu, đặc điểm cơ bản của nhà nước và pháp luật. Phù hợp
với điều đó, trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật: kiểu pháp luật chủ nô,
kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản là các kiểu pháp luật bóc lột,
được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên, mặc
dù mỗi kiểu pháp luật đó có bản chất và cách thể hiện riêng của mình, nhưng
chúng đều có một đặc điểm chung là: Thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong
xã hội, củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm về pháp lý
sự áp bức bóc lột của giai cấp bóc lột đối với nhân dân lao động, duy trì tình
trạng bất bình đẳng trong xã hội; còn kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp
luật kiểu mới, được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể
hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là đa số dân cư trong xã
hội, mục đích là thủ tiêu mọi hình thức áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới.
Mọi người đều ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và tự do.
Sự thay thế kiểu pháp luật cũ bằng kiểu pháp luật mới tiến bộ hơn là một
quy luật tất yếu, gắn liền với sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội tương ứng
và được thực hiện thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở khách quan của
sự thay thế đó là sự vận động của các quan hệ kinh tế, các phương thức sản xuất,
trong đó quy luật cơ bản là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, ở những xã hội khác nhau, sự thay thế các kiểu pháp luật cũng
diễn ra không giống nhau. Không phải bất cứ nước nào cũng trải qua bốn kiểu pháp
luật như đã nêu trên. Kiểu pháp luật sau bao giờ cũng kế thừa kiểu pháp luật trước. 51
Câu 40: Phân tích các hình thức của pháp luật
Hình thức của pháp luật là sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, là
phương thức, dạng tồn tại thực tế của pháp luật.
Hình thức của pháp luật có hai dạng: hình thức bên trong của pháp luật và
hình thức bên ngoài của pháp luật.
• Hình thức bên trong của pháp luật bao gồm các nguyên tắc của pháp
luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật.
- Các nguyên tắc của pháp luật là những tư tưởng cơ bản chỉ đạo toàn bộ
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật của nhà nước và công dân.
- Nói đến hình thức bên trong của pháp luật là nói đến cấu trúc của pháp
luật. Cũng như mọi hiện tượng xã hội, pháp luật có cấu trúc của mình. Trong
phạm vi một quốc gia có một hệ thống pháp luật. Trong hệ thống pháp luật ấy có
các ngành luật, trong các ngành luật có các chế định pháp luật, trong các chế
định luật có các quy phạm pháp luật.
- Ngành luật là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh
vực quan hệ xã hội nhất định với những phương pháp điều chỉnh nhất định.
- Chế định pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội cùng loại trong cùng một ngành luật.
- Quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành nhỏ nhất của toàn bộ hệ thống
pháp luật của một quốc gia. Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự bắt buộc
chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận. Quy phạm pháp luật bao gồm ba bộ
phận: giả định, quy định và chế tài.
• Hình thức bên ngoài của pháp luật (hay còn được gọi là nguồn của pháp
luật) là những cái chứa đựng các quy phạm pháp luật, là sự thể hiện ra bên
ngoài, dạng tồn tại trong thực tế của các quy phạm pháp luật.
Có ba loại nguồn phổ biến nhất của pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ
pháp, văn bản quy phạm pháp luật.
- Tập quán pháp là những tập quán lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi
ích của giai cấp thống trị đã được nhà nước thừa nhận, làm cho chúng trở thành 52
những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện. - Tiền lệ
pháp là các quyết định của các cơ quan hành chính hoặc của cơ
quan xét xử trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ
việc tương tự được nhà nước thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những vụ việc tương tự.
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành, trong đó quy định những quy tắc xử sự chung (đối với mọi tổ
chức, cá nhân) được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội.
Có nhiều loại văn bản pháp luật: Ở mỗi nước, trong điều kiện cụ thể có thể
có những quy định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lý của các loại văn bản pháp
luật. Nhìn chung các loại văn bản pháp luật đều được ban hành theo một trình tự
nhất định và chứa đựng quy định cụ thể (các quy phạm pháp luật).
Câu 41: Nêu khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, mang tính bắt buộc chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Trong các quy phạm xã hội thì quy phạm pháp luật đóng vai trò trung tâm,
điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Bản thân định nghĩa về quy phạm pháp
luật cũng chứa đựng những đặc điểm riêng cơ bản mà các loại quy phạm xã hội thông thường không có:
- Quy phạm pháp luật là quy tắc chỉ do nhà nước đặt ra (hoặc thừa nhận).
Các loại quy phạm xã hội khác do các chủ thể khác tạo ra không có sự tham gia
của nhà nước: quy phạm đạo đức và quy phạm phong tục tập quán do một nhóm
cư dân hay một cộng đồng dân cư hoặc cộng đồng dân tộc đặt ra dựa trên những
quan niệm riêng của họ về đạo đức, lối sống, cách ứng xử, phương thức làm ăn,
…; quy phạm tôn giáo do tổ chức tôn giáo đặt ra xuất phát từ các quan niệm
riêng và niềm tin riêng của họ về tự nhiên, vũ trụ, xã hội, con người; quy phạm
của tổ chức xã hội do tổ chức đó đặt ra dựa trên sự đồng thuận về ý chí và hành
động của tất cả các thành viên. 53
- Quy phạm pháp luật mang tính chất bắt buộc chung. Cụm từ "bắt buộc
chung" cần được hiểu là bất cứ cá nhân và tổ chức nào, bất kể trong phạm vi
không gian và thời gian nào, nếu ở trong điều kiện, hoàn cảnh, tình huống nào
mà quy phạm pháp luật dự liệu từ trước thì hoặc đều được làm tất cả những gì
mà quy phạm pháp luật cho phép, hoặc đều không được lầm tất cả những gì mà
quy phạm pháp luật cấm, hoặc đều phải làm tất cả những gì mà quy phạm pháp
luật bắt buộc phải làm; nếu làm điều được làm vượt qua giới hạn cho phép của
quy phạm pháp luật, hoặc làm điều mà quy phạm pháp luật cấm, hoặc không
làm hay làm không đầy đủ điều mà quy phạm pháp luật bắt buộc phải làm, thì
họ đều phải chịu trách nhiệm pháp lý (đều chịu sự tác động của nhà nước) như
nhau, không có ngoại lệ. Các loại quy phạm xã hội khác cũng có tính bắt buộc
nhưng không có tính bắt buộc chung theo nghĩa pháp lý như đã giải thích ở trên,
bởi vì chủ thể sáng tạo ra chúng không phải là nhà nước và đối tượng tác động,
phạm vi tác động của chúng cũng hẹp hơn so với quy phạm pháp luật.
- Quy phạm pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng biện pháp
cưỡng chế. Trong điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà quy phạm pháp luật dự
liệu từ trước, nếu có cá nhân, tổ chức nào sử dụng quyền không đúng đắn, hoặc
thực hiện hành vi mà quy phạm pháp luật cấm, hoặc trốn tránh nghĩa vụ hay
thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ thì nhà nước sẽ sử dụng sức mạnh bạo lực để
bắt buộc họ phải thực hiện theo đúng yêu cầu của quy phạm pháp luật. Các loại
quy phạm xã hội khác không mang tính cưỡng chế nhà nước: quy phạm đạo đức
và quy phạm phong tục tập quán chủ yếu được bảo đảm thực hiện bằng dư luận
xã hội, sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng và các biện pháp giáo dục xã hội
khác; quy phạm tôn giáo trước hết được bảo đảm thực hiện bằng niềm tin nội
tâm của các thành viên theo tôn giáo đó và trong một số trường hợp nhất định nó
cũng được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế, nhưng đó không phải
là biện pháp cưỡng chế nhà nước mà là biện pháp cưỡng chế của tổ chức tôn
giáo; quy phạm của tổ chức xã hội được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
tác động xã hội và bằng biện pháp kỷ luật nội bộ (về thực chất đây cũng là biện 54
pháp cưỡng chế những là biện pháp cưỡng chế mang tính chất xã hội chứ không
có tính chất nhà nước).
- Quy phạm pháp luật là chuẩn mực để đánh giá tính hợp pháp đối với
hành vi của con người. Trong xã hội có nhiều loại chuẩn mực khác nhau như tập
quán, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực tôn giáo… để đánh giá hành vi của con
người. Mỗi loại chuẩn mực đó đánh giá hành vi của con người ở các góc độ
khác nhau. Trong đó, quy phạm pháp luật là loại chuẩn mực đánh giá hành vi
của con người ở khía cạnh pháp luật. Dựa vào quy phạm pháp luật người ta có
thể xác định được hành vi nào là hợp pháp và hành vi nào là bất hợp pháp.
- Quy phạm pháp luật mang tính xác định, tính hệ thống, và tính hình thức.
Tính xác định của quy phạm pháp luật thể hiện: quy phạm pháp luật xác định
một cách rõ ràng, chính xác những gì các chủ thể được làm, phải làm và không
được làm tức là mức độ phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cũng như
cách thức thực hiện, xác định chặt chẽ các nguyên tắc chung của pháp luật, các
thuật ngữ pháp lý biểu đạt các quy định của pháp luật... Tính hệ thống của quy
phạm pháp luật thể hiện: các quy phạm pháp luật được ban hành phải bảo đảm
tính nhất quán, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung. Các quy phạm
pháp luật được ban hành có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau một cách
hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tính hình thức biểu hiện trong
việc diễn đạt chính thức nội dung của quy phạm pháp luật trong những hình thức
pháp lý xác định theo quy định của pháp luật.
Câu 42: Trình bày vấn đề hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Để quy phạm pháp luật được ban hành đi vào cuộc sống phát huy tác dụng
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo đúng mục đích đặt ra phải xác định được giới
hạn hiệu lực của chúng.
Quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành theo thời gian, không gian và
nhóm đối tượng nhất định
- Hiệu lực theo thời gian 55
Theo thời gian, hiệu lực quy phạm pháp luật được tính từ thời điểm bắt đầu
có hiệu lực đến khi chấm dứt hiệu lực. Theo quy định ở nước ta hiện nay có 2
cách tính thời điểm bắt đầu có hiệu lực của quy phạm pháp luật
+ Tính từ thời điểm quy phạm pháp luật được công bố hay thông qua;
+ Sau khi được công bố một thời gian nhất định; trường hợp này thời điểm
có hiệu lực thường được quy định ngay trong quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật hết hiệu lực khi: có văn bản mới thay thế; hết hiệu lực
ghi ngay trong văn bản quy phạm pháp luật.
- Hiệu lực theo không gian
Giới hạn tác động theo không gian của quy phạm pháp luật được xác định
theo lãnh thổ quốc gia hay một vùng, một địa phương nhất định.
+ Quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành thông
thường có hiệu lực thi hành trên toàn quốc.
+ Quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành có
hiệu lực thi hành ở địa phương mình.
- Hiệu lực về đối tượng áp dụng
Đối tượng áp dụng của quy phạm pháp luật bao gồm cá nhân, tổ chức và
những mối quan hệ mà quy phạm đó cần phát huy hiệu lực.
Thông thường các quy phạm có hiệu lực đối với tất cả các đối tượng trong
phạm vi lãnh thổ mà quy phạm đó có hiệu lực về không gian.
Câu 43: Phân tích cấu trúc của quy phạm pháp luật
Thông thường quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận: giả định, quy định, chế tài. - Giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên điều kiện, hoàn cảnh
thực tế xảy ra mà chủ thể gặp phải thì họ được hoặc phải thực hiện hành vi theo
mệnh lệnh ở phần quy định.
Giả định được chia thành giả định chính xác và giả định tương đối. Giả
định chính xác là giả định nêu lên trường hợp, hoàn cảnh rõ ràng mà trong điều 56
kiện hoàn cảnh đó chủ thể phải thực hiện hành vi. Ví dụ giả định độ tuổi, giả
định điều kiện kết hôn.
Giả định tương đối là giả định nêu lên hoàn cảnh, điều kiện cho chủ thể khả
năng giải quyết vấn đề trong điều kiện, hoàn cảnh đó, còn có thể gọi là giả định
cho phép chủ thể lựa chọn phương pháp xử sự hành vi cụ thể.
Ngoài ra còn có thể phân loại giả định theo một số căn cứ khác như dựa
vào tính chất để chia giả định thành loại đơn giản và phức tạp.
Yêu cầu đối với giả định: phải rõ ràng, phù hợp với thực tế - Quy định
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên quy tắc xử sự buộc
chủ thể phải thực hiện hành vi nhất định khi gặp hoàn cảnh, trường hợp nêu ở phần giả định.
Có thể phân loại quy định thành quy định xác định, quy định tuỳ nghi (lựa chọn) và quy định mẫu.
Quy định xác định là quy định là quy định chỉ ra một cách chính xác, đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
Quy định tuỳ nghi (cho phép lựa chọn) là quy định các hành vi mà chủ thể
có quyền lựa chọn phương án thực hiện.
Quy định mẫu là quy định là quy định xác định quy tắc hành vi một cách
chung, tổng quát nhất mà cần phải được cụ thể hoá ở văn bản pháp luật khác
như quy định nguyên tắc chung hoặc định nghĩa.
Ngoài ra có thể phân loại quy định thành quy định đơn giản, quy định chi tiết. - Chế tài
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác
động mà nhà nước dự kiến áp dụng với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh
đã nêu ở phần quy định. 57
Chế tài là biện pháp bảo đảm thực hiện quy định của quy phạm pháp luật,
là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Theo mức độ xác định chế tài được phân loại thành: chế tài xác định (dứt
khoát); chế tài tương đối; chế tài lựa chọn.
Theo tính chất phản ứng của nhà nước chế tài được chia thành: chế tài hình
phạt; chế tài khôi phục pháp luật; chế tài phủ định pháp luật.
Chế tài hình phạt là sự cưỡng chế của nhà nước (phạt) người vi phạm nhằm cải tạo, giáo dục họ.
Chế tài khôi phục pháp luật: là sự phản ứng với hành vi chống đối pháp
luật nhằm phục hồi lại trật tự pháp luật như buộc bồi thường thiệt hại.
Chế tài phủ định pháp luật là sự phản ứng đối với người không thực hiện
đúng mệnh lệnh kỹ thuật pháp lý; là sự không thừa nhận tính pháp lý quan hệ
mới xuất hiện như: tiêu hôn trong luật hôn nhân và gia đình; buộc huỷ hợp đồng kinh tế; dân sự.
Câu 44: Phân loại các quy phạm pháp luật
Thông thường quy phạm pháp luật được phân loại theo 3 cách phổ biến:
theo vai trò điều chỉnh; theo phạm vi điều chỉnh; theo nội dung và hình thức.
- Theo vai trò điều chỉnh quan hệ xã hội thì quy phạm pháp luật được chia thành:
+ Quy phạm điều chỉnh: là quy phạm thiết lập quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các chủ thể trong quan hệ xã hội, hướng tới hình thành hành vi hợp pháp .
Quy phạm điều chỉnh được chia thành quy phạm trao quyền; quy phạm xác
định nghĩa vụ; quy phạm cấm.
+ Quy phạm bảo vệ: là quy phạm xác định trước các biện pháp tác động
mang tính chất cưỡng chế của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật (chế tài)
+ Quy phạm chuyên môn: là quy phạm có nội dung nhằm bảo đảm hiệu lực
của quy phạm điều chỉnh và quy phạm bảo vệ (quy phạm định nghĩa hoặc quy phạm nguyên tắc). 58
Quy phạm chuyên môn được chia thành quy phạm tổng quan (khái quát);
quy phạm định nghĩa; quy phạm tuyên bố; quy phạm xung đột.
Quy phạm tổng quan: là quy phạm xác định khái quát quan hệ xã hội ví dụ
Điều 2 Hiến pháp 1992 “ Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”
Quy phạm định nghĩa: là quy phạm nêu lên khái niệm như khái niệm tội
phạm, khái niệm hình phạt.
Quy phạm tuyên bố: là quy phạm có nội dung tuyên bố về nhiệm vụ như:
nhiệm vụ của Bộ Luật hình sự; của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Quy phạm xung đột: là quy phạm thiết lập trật tự lựa chọn và áp dụng pháp
luật từ một số quy phạm. Ví dụ “ Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ tư
pháp và pháp lý giữa Việt Nam và nước ngoài thì tuân theo các quy định của hiệp định đó”
- Theo phạm vi, tính chất điều chỉnh quy phạm pháp luật chia thành quy
phạm chung; quy phạm chuyên biệt; quy phạm đặc biệt.
+ Quy phạm chung là quy phạm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội.
+ Quy phạm chuyên biệt (Quy phạm cụ thể): là quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội cụ thể.
+ Quy phạm đặc biệt: là loại quy phạm điều chỉnh vấn đề đặc biệt được
tách ra từ quy phạm chung và quy phạm cụ thể. Ví dụ: Ưu tiên tuyển dụng với
người thuộc đồng bào thiểu số, thương binh, anh hùng lao động .vv.
- Căn cứ vào nội dung, hình thức quy phạm pháp luật được chia thành:
+ Quy phạm nội dung: là quy phạm xác định quyền và nghĩa vụ
+ Quy phạm hình thức (thủ tục) là quy phạm xác định trình tự, thủ tục, thời
hạn thực hiện quyền, nghĩa vụ.
Câu 45: Phân tích khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật. Cho ví dụ minh hoạ.
Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội, xuất hiện dưới
tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau đây: 59
- Quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí vì: Quan hệ phát sinh trên
cơ sở quy phạm pháp luật, nội dung quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà nước.
Phần lớn quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi, chấm dứt do ý chí của các bên tham gia.
- Quan hệ pháp luật là một loại quan hệ tư tưởng; quan hệ thuộc kiến trúc
thượng tầng: Vì quan hệ pháp luật phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật,
được quy định bởi tính chất của quan hệ sản xuất; quan hệ pháp luật thay đổi
phù hợp với thay đổi của cơ sở kinh tế nhưng tác động trở lại với cơ sở kinh tế.
- Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật
Quan hệ pháp luật là phương tiện thực hiện quy phạm pháp luật vì quy
phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống thông qua quan hệ pháp luật. Quy
phạm pháp luật xác định điều kiện để quan hệ pháp luật xuất hiện, quy định rõ
chủ thể quan hệ đó, xác định nội dung và trình tự thực hiện quyền, nghĩa vụ và
bảo vệ quyền, nghĩa vụ đó.
- Quan hệ pháp luật là quan hệ mà những bên tham gia trong quan hệ có
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể do quy phạm pháp luật quy định
tạo thành nội dung quan hệ pháp luật.
- Quan hệ pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế.
Quy phạm pháp luật xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm
pháp luật theo chế tài của quy phạm, quy định quyền, nghĩa vụ của cơ quan bảo
vệ pháp luật xử lý vi phạm pháp luật và giám sát thi hành pháp luật.
- Quan hệ pháp luật luôn có tính xác định
Vì quan hệ pháp luật được quy phạm pháp luật điều chỉnh và chỉ xuất hiện,
thay đổi chấm dứt khi có sự kiện pháp lý nhất định.
Câu 46: Trình bày cấu trúc của quan hệ pháp luật.
Quan hệ pháp luật gồm có 3 bộ phận: chủ thể; nội dung; khách thể. a. Chủ thể 60
Để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật trước hết phải là chủ thể pháp luật.
Chủ thể pháp luật là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham
gia quan hệ pháp luật, có quyền, nghĩa vụ pháp lý. Chủ thể quan hệ pháp luật là
những bên tham gia trong quan hệ pháp luật do nhà nước quy định, có quyền và
nghĩa vụ pháp lý đối với nhau.
Chủ thể của quan hệ pháp luật phải có đủ năng lực gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng chủ thể có được các quyền và chịu được
trách nhiệm pháp lý. Năng lực hành vi là: khả năng được nhà nước thừa nhận
bằng chính hành vi của mình chủ thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ
Các loại chủ thể pháp luật gồm:
- Công dân: có năng lực chủ thể từ khi sinh ra và năng lực hành vi khi đạt
độ tuổi do pháp luật quy định. Điều kiện xác định năng lực hành vi gồm: điều
kiện y học; điều kiện tâm lý (pháp lý). Công dân có đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ tạo thành quy chế pháp lý của họ.
- Người nước ngoài, người không quốc tịch có thể trở thành chủ thể quan
hệ pháp luật, tuy nhiên quyền, nghĩa vụ của họ có hạn chế nhất định.
- Các tổ chức: tổ chức nhà nước (cơ quan); tổ chức xã hội; đơn vị kinh tế
Trong số các tổ chức nhà nước là chủ thể đặc biệt của pháp luật và là chủ thể
trong quan hệ quốc tế, là chủ sở hữu tối cao đối với đất đai, rừng núi, tài nguyên
thiên nhiên v.v . Các tổ chức là chủ thể có đặc điểm sau đây:
+ Có cơ cấu thống nhất, có điều lệ hoạt động;
+ Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi;
+ Có cơ quan lãnh đạo, ban đại diện;
+ Có lĩnh vực hoạt động nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, dân sự tổ chức phải có tư cách pháp nhân với đòi hỏi sau đây:
+ Có cơ cấu thống nhất, hoàn chỉnh ;
+ Có tài sản riêng, thực hiện quyền, nghĩa vụ bằng tài sản riêng của mình; 61
+ Có danh nghĩa (tên, trụ sở, quốc tịch)
+ Được tham gia vào các quan hệ xã hội một cách độc lập.
Chủ thể có quyền của mình – quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật là khả
năng xử sự của chủ thể được quy phạm pháp luật quy định trước và được nhà
nước bảo vệ bằng biện pháp cưỡng chế. Đặc điểm quyền chủ thể:
+ Khả năng được hành động do pháp luật quy định trước;
+ Khả năng yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ;
+ Khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế đối
với bên kia buộc họ thực hiện nghĩa vụ nhất định.
Chủ thể có nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật – là cách xử sự bắt
buộc được quan hệ pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm
đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể bên kia. Nghĩa vụ pháp lý được bảo
đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
b. Khách thể quan hệ pháp luật
Khách thể quan hệ pháp luật là cái mà quan hệ pháp luật đó tác động tới
bao gồm trật tự của các hành vi của công dân, tổ chức khi tham gia quan hệ pháp luật.
c. Nội dung quan hệ pháp luật
Nội dung quan hệ pháp luật là các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong
quan hệ pháp luật do nhà nước quy định. Quyền, nghĩa vụ chủ thể quan hệ pháp
luật tuỳ thuộc vào vị trí chủ thể nên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật khác
nhau có quyền, nghĩa vụ khác nhau như: chủ thể là công dân có các quyền,
nghĩa vụ cơ bản của công dân, chủ thể là cán bộ công chức ngoài quyền, nghĩa
vụ cơ bản còn có quyền, nghĩa vụ cán bộ công chức, chủ thể là điều tra viên,
kiểm sát viên hay thẩm phán... còn có quyền, nghĩa vụ pháp lý riêng biệt của họ.
Câu 47: Phân tích điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.
Trong quan hệ pháp luật, chỉ những chủ thể thoả mãn những điều kiện pháp
luật quy định mới được tham gia quan hệ pháp luật. Có như vậy thì mới đảm bảo
các chủ thể khi thực hiện mối quan hệ vừa có thể thoả mãn được mong muốn 62
của bản thân, đồng thời không ảnh hưởng tới lợi ích của nhà nước và xã hội nói
chung. Đối với từng loại quan hệ pháp luật khác nhau, nhà nước xác định các
điều kiện cụ thể khác nhau. Những điều kiện này được gọi chung là năng lực
chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Năng lực pháp luật là khả năng có quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lí do nhà
nước quy định cho các cá nhân, tổ chức nhất định. Năng lực pháp luật có thể coi
là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể. Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ
tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật hoặc được pháp luật bảo vệ trong
các quan hệ nhất định. Tính thụ động được thể hiện là chủ thể không tự tạo ra
được cho mình các quyền và nghĩa vụ pháp lí, mà đó là do ý chí của nhà nước.
Ví dụ: đứa trẻ được thừa kế khi bố mẹ chết.
- Năng lực hành vi là khả năng nhà nước thừa nhận cho các cá nhân, tổ
chức bằng hành vi của mình có thể xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lí. Có năng lực hành vi, chủ thể của quan hệ pháp luật có thể chủ động
tham gia vào các quan hệ pháp luật và tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế.
Một vấn đề cần lưu ý khi nghiên cứu năng lực chủ thể, pháp luật có những
quy định khác nhau về năng lực pháp luật và năng lực hành vi đối với từng loại
chủ thể là cá nhân và tổ chức, ở từng ngành luật cũng khác nhau.
- Cá nhân là chủ thể quan hệ pháp luật gồm công dân nước sở tại, công dân
nước ngoài và người không có quốc tịch đang công tác, làm ăn, sinh sống tại
nước sở tại. Trong số các cá nhân là chủ thể quan hệ pháp luật thì công dân nước
sở tại chiếm đa số. Để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật thì cá nhân phải có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật của cá nhân xuất
hiện từ lúc người đó sinh ra và mất đi khi chết. Còn năng lực hành vi của cá
nhân chỉ có được đầy đủ và hoàn thiện khi người đó đến độ tuổi nhất định và
phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, có khả năng nhận thức trước được
hậu quả trong hành vi của mình và điều khiển được hành vi ấy. Pháp luật của
nhiều nước trên thế giới đều coi độ tuổi 18 là điều kiện để công nhận năng lực 63
hành vi đầy đủ của chủ thể đa số quan hệ pháp luật. Song, do sự khác nhau về
tính chất và nội dung giữa các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, cho
nên pháp luật cũng quy định độ tuổi khác nhau cho phù hợp. Ví dụ: theo pháp
luật Việt Nam, trong quan hệ hôn nhân thì nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18
tuổi trở lên; đối với quan hệ bầu cử thì tuổi đi bầu đối với cả nam và nữ là đủ 18,
tuổi được tự ứng cử là đủ 21.
- Tổ chức là chủ thể quan hệ pháp luật gồm pháp nhân và tổ chức không
có tư cách pháp nhân. Khác với năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá
nhân là chủ thể quan hệ pháp luật, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của tổ
chức là chủ thể quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời ở thời điểm tổ chức đó
được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận là hợp pháp và mất đi khi tổ chức đó bị giải thể.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật vì nó là tổ chức quyền
lực chính trị của toàn thể nhân dân lao động, mang chủ quyền quốc gia và đại
diện cho cả xã hội. Nhà nước chỉ tham gia những quan hệ pháp luật cơ bản nhất
và quan trọng nhất liên quan tới lợi ích của cả quốc gia, như quan hệ sở hữu đất
đai và các tài nguyên thiên nhiên khác, quan hệ ngoại thương…
Câu 48: Trình bày khái niệm và phân loại sự kiện pháp lý
Quan hệ pháp luật cụ thể được hình thành, thay đổi, chấm dứt khi có đủ ba
điều kiện: quy phạm pháp luật, chủ thể có năng lực chủ thể và sự kiện pháp lý.
Ở đây, sự kiện pháp lý có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định thời
điểm biến đổi, vận động của một quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý là những sự kiện thực tế mà khi xuất hiện hay mất đi của chúng
được pháp luật gắn với việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý hết sức đa dạng, phức tạp và người ta phân chia nó căn cứ
vào nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Tuy nhiên, tiêu chuẩn ý chí được coi là căn cứ
quan trọng nhất, theo đó, các sự kiện pháp lý được chia thành sự biến và hành
vi. Sự biến là sự kiện xảy ra trong đời sống không lệ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người, như sự sinh, sự tử, ốm đau, bệnh tật của con người, bão lụt, hạn 64
hán,… Còn hành vi là sự kiện xảy ra lệ thuộc vào ý chí chủ quan của con người,
như: đăng ký kết hôn, ký kết hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, trộm cắp tài
sản của nhà nước, đưa hối lộ, nhận hối lộ,… Hành vi thể hiện dưới dạng hành
động (như cướp tài sản của người khác, giết người, chống người thi hành công
vụ, đăng ký kết hôn,…) hoặc không hành động (như không cứu giúp người đang
ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, không tố giác tội phạm,…). Hành
vi còn được chia thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.
Câu 49: Phân tích khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật và các giai đoạn
của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một hệ thống thống nhất các phương tiện,
quy trình pháp lý, thông qua đó thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan
hệ xã hội nhằm thực hiện những nghĩa vụ và mục đích mà Nhà nước đã đặt ra.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một quá trình thực hiện sự tác động của
pháp luật lên các quan hệ xã hội gồm 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: là giai đoạn định ra các quy phạm pháp luật.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật bắt đầu"hoạt động" bằng sự kiện đề ra các quy
phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luật buộc các chủ thể phải hành động
phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội mà khuôn mẫu của hành động đó do chính quy phạm đưa ra.
+ Giai đoạn 2: là giai đoạn áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn cơ quan có
thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật để ban hành các quyết định áp
dụng pháp luật. (có trường hợp không có giai đoạn này).
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn xuất hiện các quan hệ pháp luật mà nội dung
của nó là xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể (cá nhân, tổ chức).
+ Giai đoạn 4: là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
Các chủ thể bằng hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong thực tiễn đời sống. 65
Câu 50: Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
- Thực hiện pháp luật trước hết là một trong những hình thức để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Các văn bản quy phạm pháp luật do NN ban
hành chỉ có thể đạt được mục đích của nó khi chúng được các tổ chức và cá
nhân trong xã hội thực hiện chính xác và đầy đủ. Do vậy, đối với các Nhà nước
vấn đề quan trọng không chỉ là ban hành đầy đủ các quy phạm pháp luật mà còn
phải tổ chức thật tốt để chúng được thực hiện trong thực tế.
- Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật: Hành
vi thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, nó không trái pháp luật, không vượt
quá phạm vi các quy định của pháp luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt động nào
của cá nhân, các tổ chức mà được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp
luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực hiện các quy phạm pháp luật.
- Thực hiện pháp luật là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng
của cơ chế điều chỉnh pháp luật: Thực hiện pháp luật nhằm đạt được những mục
đích xã hội mà vì chúng Nhà nước đã phải ban hành pháp luật, đồng thời cũng
làm rõ những hạn chế bất cập của hệ thống pháp luật thực định để bổ sung hoàn
thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào cuộc sống. Thực
hiện pháp luật nghiêm minh sẽ tạo ra trật tự cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
của các quan hệ xã hội theo những định hướng có lợi cho xã hội, NN và cá nhân.
- Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách
thức khác nhau: pháp luật mang tính bắt buộc chung đối với mọi thành viên trong xã
hội. Vì vậy, thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng có thể là
hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Thực hiện pháp luật được tiến
hành với nhiều cách thức khác nhau, có thể là xử sự chủ động nhằm đạt được một lợi
ích nào đó; có thể là xử sự thụ động kiềm chế không làm những điều pháp luật cấm. 66
Thực hiện pháp luật là quá trình có mục đích của các chủ thể. Nhà nước
thông qua việc thực hiện pháp luật để thực hiện việc quản lý xã hội của mình;
nhân dân thực hiện pháp luật: là thực hiện những quyền lợi, lợi ích mà pháp luật
cho phép và thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội.
Thực hiện pháp luật là yêu cầu khách quan; là điều kiện tiên quyết của trật
tự pháp luật và để xã hội có tổ chức, thông qua thực hiện pháp luật - pháp luật
phát huy vai trò điều chỉnh xã hội; thực hiện nền dân chủ; thông qua thực hiện
pháp luật là yêu cầu khách quan của quản lý Nhà nước, quản lý nền kinh tế, quản lý xã hội.
Thông qua thực hiện pháp luật các chủ thể không phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi.
Hình thức thực hiện pháp luật:
Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên cách thức thực hiện chúng cũng
rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật,
khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau đây:
- Tuân thủ pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn
cấm. ở dạng thực hiện pháp luật này chủ thể thực hiện xử sự một cách thụ động
trong hành vi bằng cách kiềm chế bản thân để không làm những điều pháp luật
cấm. Những quy phạm pháp luật cấm đoán được thực hiện ở hình thức này.
- Chấp hành pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Đây
là việc thực hiện pháp luật của các chủ thể đối với các quy phạm pháp luật có
tính bắt buộc. Nó được thực hiện khi chủ thể thực hiện bằng những hành vi
mang tính tích cực đáp ứng yêu cầu của pháp luật
Ví dụ: người kinh doanh đến nộp thuế tại các cơ quan thuế
- Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật,trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền mà pháp luật cho phép. Trong hệ thống các quy phạm
pháp luật có các quy phạm ghi nhận quyền của các chủ thể. Trên cơ sở quy định 67
của pháp luật, các cơ quan, tổ chức và công dân có quyền sử dụng để bảo đảm
lợi ích của mình, của xã hội và của người khác. Tuy nhiên, vì quyền và tự do
pháp lý là những hành vi mà pháp luật cho phép củ thể thực hiện nên chủ thể
pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền tự do đó tùy theo ý
chí của mình chứ không bắt buộc phải thực hiện.
Ví dụ: Hiến pháp năm 1992 quy định, công dân có quyền tự do kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
- Áp dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ
thể. Trong trường hợp này các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của
pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt, theo
quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
Câu 51: Trình bày những trường hợp cần áp dụng pháp luật.
Cần phải tiến hành áp dụng pháp luật trong các trường hợp sau:
- Truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với những chủ thể vi phạm pháp luật.
Khi trong thực tế xảy ra hành vi vi phạm pháp luật thì nhà nước phải tiến hành
áp dụng pháp luật để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể đã thực hiện
hành vi vi phạm đó. Chẳng hạn, công dân A đã thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật (không chấp hành tín hiệu khi tham gia giao thông), vì vậy, cần có hoạt
động của lực lượng cảnh sát giao thông truy cứu trách nhiệm hành chính (ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong quyết định ghi rõ biện pháp và
mức xử phạt đối với A và buộc A phải chấp hành quyết định xử phạt đó).
- Áp dụng các biện pháp tác động nhà nước nhưng không liên quan đến
trách nhiệm pháp lí. Khi cần áp dụng các biện pháp tác động nhà nước nhưng
không liên quan đến trách nhiệm pháp lí thì nhà nước cũng tiến hành áp dụng 68
pháp luật. Chẳng hạn, áp dụng biện pháp cưỡng chế để cách li và chữa trị đối
với người mắc bệnh truyền nhiễm để tránh lây lan trong cộng đồng.
- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lí của các tổ chức, cá nhân không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Trường hợp này pháp luật đã quy định cho tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ
pháp lí nhất định nhưng các quyền và nghĩa vụ đó không mặc nhiên phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của cơ quan hay nhà chức trách có
thẩm quyền. Chẳng hạn, quyền và nghĩa vụ lao động của công dân Y đối với cơ
quan X chi phát sinh khi có quyết định của thủ trưởng cơ quan X tuyển dụng
công dân Y đó vào làm việc tại cơ quan X.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa các bên tham
gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Trong trường
hợp này, quan hệ pháp luật đã xuất hiện nhưng do có sự tranh chấp giữa các bên
về các quyền và nghĩa vụ pháp lí đó nên các bên không thể thực hiện được các
quyền, nghĩa vụ pháp lí của mình. Chẳng hạn, tranh chấp giữa các bên tham gia
hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự cụ thể nào đó.
- Nhà nước thấy cần phải xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một
số sự việc, sự kiện thực tế nào đó. Chẳng hạn, nhà nước chứng thực hợp đồng
mua bán nhà giữa công dân A và công dân B; xác nhận tính hợp pháp đối với di
chúc của người nào đó; chứng nhận sự kiện sinh hay chứng nhận sự kiện chết của người nào đó...
Câu 52: Phân tích đặc điểm của áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn
cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chì hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Ở hình thức này
các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can thiệp
của cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền. Trong một số trường 69
hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, một số tổ chức xã hội cũng có thể
được thực hiện hoạt động này. Áp dụng pháp luật có một số đặc điểm sau:
a. Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
- Hoạt động áp dụng pháp luật do những chủ thể có thẩm quyền tiến
hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của họ. Phù hợp với thẩm quyền của
mình, mỗi chủ thể chỉ được phép tiến hành một số hoạt động áp dụng pháp luật
nhất định. Trong quá trình áp dụng pháp luật, mọi khía cạnh, mọi tình tiết của vụ
việc đều phải được xem xét thận trọng và dựa trên cơ sở các quy định, yêu cầu
của quy phạm pháp luật đã được xác định để ra các quyết định cụ thể. Có thể nói
pháp luật là cơ sở để các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền
áp dụng pháp luật nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong một số
trường hợp, khi được nhà nước ủy quyền, một số tổ chức xã hội cũng có thể tiến hành áp dụng pháp luật.
- Áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước
trong quá trình điều chỉnh pháp luật, vì vậy, ở chừng mực nhất định, áp dụng
pháp luật phục vụ cho những mục đích chính trị. Do vậy, việc áp dụng pháp luật
không những phải phù hợp với pháp luật thực định mà còn phải phù hợp với chủ
trương, chính sách của nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
- Đối với một số trường hợp, hoạt động áp dụng pháp luật có thể được
tiến hành theo ý chí đơn phương của các chủ thể có thẩm quyền, không phụ
thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật. Pháp luật cũng quy định đối
với một số trường hợp việc áp dụng pháp luật chỉ được tiến hành khi có yêu cầu
của tổ chức hay cá nhân nhất định theo quy định của pháp luật.
- Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
các chủ thể có liên quan. Điều này thể hiện ở chỗ dù việc áp dụng pháp luật
được tiến hành theo ý chí nhà nước hay ý chí của chủ thể bị áp dụng thì quyết
định áp dụng pháp luật cũng do các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật
ban hành (trong một số trường hợp có tính đến ý chí của các chủ thể bị áp dụng);
quyết định áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những 70
chủ thể có liên quan; trong, những trường hợp cần thiết, nhà nước có thể cưỡng
chế thi hành quyết định áp dụng pháp luật đã có hiệu lực.
b. Áp dụng pháp luật là hoại động phải tuân theo những hình thức và thủ
tục chặt chẽ do pháp luật quy định
Do tính chất quan trọng và phức tạp của áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp
dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải
chịu những hậu quả bất lợi rất nghiêm trọng nên trong pháp luật luôn có sự xác
định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong, quá trình áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, để giải quyết vụ án phải tiến
hành theo những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hoặc việc xử phạt hành
chính được điều chỉnh bởi những quy phạm liên quan đến thủ tục xử phạt hành
chính. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá
trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó
để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng, không chính xác.
c. Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể
đối với những quan hệ xã hội nhất định
Mục đích của áp dụng pháp luật là cá biệt hóa các quy phạm pháp luật
trong những điều kiện cụ thể. Quy tắc xử sự chung trong pháp luật thông qua
hoạt động áp dụng pháp luật sẽ được cá biệt hóa một cách chính xác thành quy
tắc xử sự cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể. Đương nhiên, quy tắc xử sự cụ thể
có được do việc áp dụng pháp luật không được trái với quy tắc xử sự chung đã
nêu trong pháp luật. Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính
cá biệt, cụ thể đối với quan hệ xã hội xác định, những quan hệ xã hội cần đến sự
điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những quy tắc chung trong pháp luật.
d. Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo
trong phạm vi quy định của pháp luật)
Khi áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền phải nghiên cứu thật
kĩ vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lí của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra 71
quyết định áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật
chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo việc áp dụng
tập quán hoặc áp dụng pháp luật tượng tự để giải quyết vụ việc. Để thực hiện
được điều đó đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức
tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức và có tay nghề cao.
Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước,
được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc
các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua những trình tự thủ tục
chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào
các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Câu 53: Phân tích các giai đoạn áp dụng pháp luật, theo đồng chí cần làm
gì để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật?
Do tồn tại nhiều quy phạm pháp luật khác nhau thuộc các lĩnh vực, các
ngành luật khác nhau nên việc áp dụng chúng cũng có những trình tự, thủ tục
khác nhau. Có những quy phạm được áp dụng với quy trình đơn giản nhưng cũng
có những quy phạm việc áp dụng chúng là cả quá trình phức tạp với sự tham gia,
phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông thường, để có thể áp dụng
pháp luật một cách chính xác và đạt hiệu quả cao cần tiến hành theo những giai đoạn sau:
a. Phân tích đánh giá đúng, chính xác các tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện
của sự việc thực tế đã xảy ra
Khi có sự đề xuất của các tổ chức, cá nhân hay tự mình nhận thấy sự
việc nào đó cần phải áp dụng pháp luật thì các chủ thể có thẩm quyền áp dụng
pháp luật phải tiến hành các hoạt động cần thiết như nghiên cứu, xác định xem
sự việc đó có ý nghĩa pháp lí hay không (pháp luật không thể được áp dụng đối
với những vụ việc không có ý nghĩa pháp lí), có cần áp dụng pháp luật đối với
trường hợp đó hay không. Nếu thấy cần áp dụng pháp luật thì tiến hành xem xét,
phân tích, đánh giá đúng, chính xác tất cả các tình tiết của sự việc, làm sáng tỏ
những hoàn cảnh, điều kiện và những sự kiện có liên quan. Trong những trường 72
hợp cần thiết, phải sử dụng những biện pháp chuyên môn đặc biệt như giám
định, làm thực nghiệm... để xác định đúng tính chất của sự việc. Khi tiến hành
xem xét cần bảo đảm sự khách quan, chính xác, công bằng đối với tất cả các tổ
chức và cá nhân có liên quan đến vụ việc. Như vậy, giai đoạn đầu của quá trình
áp dụng pháp luật cần phải:
- Xác định đặc trưng pháp lí của sự việc;
- Xác định chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó;
- Nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết,
hoàn cảnh, điều kiện của sự việc;
- Tuân thủ tất cả các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
Các chủ thể áp dụng pháp luật phải quan tâm không chỉ kết quả việc xem
xét đánh giá sự việc đúng sự thật mà cà con đường dẫn đến kết quả đó cũng phải
mang tính chân lí, đúng pháp luật.
Kết thúc giai đoạn một phải giải quyết vấn đề là có cần tiếp tục áp dụng
pháp luật đối với trường hợp cụ thể đó nữa hay không? Nếu thấy không cần thì
ra quyết định chấm dứt việc áp dụng pháp luật, nếu thấy cần tiếp tục áp dụng và
đủ căn cứ để áp dụng pháp luật thì chuyển sang giai đoạn hai.
b. Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm sáng rõ nội
dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng
Sau khi xác định xong đặc trưng pháp lí của vụ việc được xem xét, phải
lựa chọn quy phạm pháp luật để giải quyết nó. Trước hết, phải xác định quy
phạm thuộc ngành luật nào điều chỉnh vụ việc này, sau đó lựa chọn quy phạm
pháp luật cụ thể thích ứng với vụ việc. Khi lựa chọn quy phạm pháp luật phải
chú ý đến tính chính xác về nội dung của nó. Quy phạm được lựa chọn phải là
quy phạm đang có hiệu lực áp dụng (các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp
luật cần nắm vững những quy định về hiệu lực pháp luật của quy phạm pháp
luật, kể cả hiệu lực trở về trước nếu có và các nguyên tắc áp dụng quy phạm 73
pháp luật đó theo quy định của pháp luật hiện hành). Chẳng hạn, nếu gặp trường
hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề
thì lựa chọn quy phạm áp dụng trong văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn hoặc
trong văn bản được ban hành sau nếu các văn bản đó do cùng cơ quan ban hành.
Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm
pháp lí hoặc quy định trách nhiệm pháp lí nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước
ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng quy phạm của văn bản mới...
Tiếp theo, phải làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật
được lựa chọn đồng thời tìm hiểu chủ trương, chính sách của nhà nước ở thời
điểm hiện tại về vấn đề đó để áp dụng cho phù hợp. Điều này đòi hỏi các chủ thể
có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải có những tri thức pháp lí cần thiết, thấy rõ
mối liên hệ giữa những quy phạm pháp luật và những hiện tượng xã hội, quan hệ
giữa các quy phạm trong hệ thống pháp luật cũng như quan hệ giữa nội dung tư
tưởng và hình thức ngôn ngữ của bản thân mỗi quy phạm pháp luật.
Như vậy, giai đoạn hai của quá trình áp dụng pháp luật cần phải:
- Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp cần áp dụng;
- Xác định quy phạm được lựa chọn là đang có hiệu lực để có thể áp
dụng đối với trường hợp đó và không mâu thuẫn với các quy phạm pháp luật khác;
- Xác định tính chính xác của quy phạm pháp luật đã lựa chọn;
- Nhận thức đúng, chính xác nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật
và chủ trương, chính sách của nhà nước về vấn đề đó.
c. Ban hành quyết định áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật, ở giai
đoạn này, những quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những
biện pháp trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi phạm pháp luật được ấn định. 74
Sau khi xem xét, đối chiếu các tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc
thấy phù hợp với những điều nêu trong quy phạm pháp luật đã lựa chọn thì chủ
thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó ban hành quyết định
áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc. Đối với các vụ việc quan trọng quyết
định áp dụng pháp luật nhất thiết phải được ban hành dưới hình thức văn bản.
Quyết định áp dụng pháp luật là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật luôn thể
hiện rõ trình độ và tính sáng tạo của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật,
bởi vì qua quyết định áp dụng pháp luật, những tình tiết của vụ việc được đánh
giá chính thức mang tính pháp lí, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Mặt khác, bằng
quyết định áp dụng pháp luật, những quyền và nghĩa vụ hoặc trách nhiệm chung
chứa đựng trong các quy phạm pháp luật được cá biệt hóa, cụ thể hóa đối với
các chủ thể nhất định.
Hoạt động và kết quả áp dụng pháp luật luôn được biểu hiện thông qua
quyết định áp dụng pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật là văn kiện chính
thức, công khai và có giá trị pháp lí trong việc giải quyết vụ việc. Quyết định áp
dụng pháp luật có các đặc điểm sau:
- Do những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc tổ
chức xã hội được ủy quyền áp dụng pháp luật ban hành vả đảm bảo thực hiện;
- Có tính chất cá biệt, một lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong
những trường hợp cụ thể;
- Phải được ban hành trên cơ sở các quy phạm pháp luật cụ thể và cần
phải phù hợp với các quy phạm đó. Nếu việc ban hành không phù hợp với các
quy định pháp luật thì quyết định áp dụng pháp luật sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ.
Như vậy, quyết định áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực tế.
Nếu nội dung quyết định không phù hợp với điều kiện thực tế thì nó sẽ khó được
thi hành hoặc được thi hành nhưng hiệu quả không cao;
- Phải được thể hiện trong những hình thức pháp lí nhất định;
- Là yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật, quyết định áp dụng pháp
luật luôn là yếu tố mang tính chất bổ sung trong những sự kiện pháp lí phức tạp, 75
thiếu nó, nhiều quy phạm pháp luật cụ thể không thể thực hiện được. Quyết định
áp dụng pháp luật củng cố các yếu tố khác trong cơ cấu pháp lí thống nhất, cho
chúng độ tin cậy và đưa đến sự xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể
được nhà nước bảo đảm thực hiện. Chẳng hạn, để quan hệ pháp luật hôn nhân cụ
thể giữa công dân A và công dân B theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xuất
hiện thì phải có đầy đủ các yếu tố của sự kiện pháp lí phức tạp như họ đã đủ độ tuổi
kết hôn, có năng lực hành vi, có sự cam kết tự nguyện... và điều quan trọng nhất là
có quyết định công nhận hôn nhân đó là hợp pháp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quyết định áp dụng pháp luật rất đa dạng và chúng có thể tham gia vào
từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật và ở mỗi
giai đoạn khác nhau chúng có vai trò, tác dụng khác nhau. Do vậy, có thể phân
loại quyết định áp dụng pháp luật theo các tiêu chí cơ bản như: Theo ngành luật
(lĩnh vực áp dụng pháp luật); theo chủ thể ban hành (cơ quan quản lí nhà nước,
tòa án; do tổ chức hay cá nhân ban hành); theo tên gọi (quyết định, bản án, lệnh...) v.v...
Hình thức thể hiện của quyết định áp dụng pháp luật có thể bằng lời nói
hoặc bằng văn bản. Hiện nay, hình thức thể hiện chủ yếu của quyết định áp dụng
pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lí cá biệt, mang tính quyền
lực do các chủ thể có thẩm quyền (cơ quan nhà nước, nhà chức trách hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước ủy quyền) ban hành trên cơ sở pháp luật, theo trình
tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh cá biệt đối với các tổ chức, cá nhân cụ thể
trong những trường hợp cụ thể.
Văn bản áp dụng pháp luật rất đa dạng: Có văn bản dùng để cá biệt hóa
bộ phận quy định của quy phạm pháp luật nhằm để xác định các quyền và nghĩa
vụ pháp lí cho các chủ thể cụ thể; có văn bản dùng để cá biệt hóa bộ phận chế tài
của quy phạm pháp luật nhằm xác định trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi 76
phạm pháp luật; có văn bản dùng để xác định biện pháp tác động nhà nước đối
với một chủ thể nào đó...
Khi ra quyết định giải quyết vụ việc, các chủ thể có thẩm quyền không
thể xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc quan hệ riêng tư. Quyết định áp dụng
pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mục đích mà nhà nước đã đề ra trong các quy phạm pháp luật.
Quyết định áp dụng pháp luật cần phải được ban hành với các yêu cầu cơ bản sau:
- Hợp pháp, nghĩa là nó phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên
gọi, đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung của quyết định áp
dụng pháp luật phải rõ ràng, chính xác, đầy đủ, chứa đựng tất cả những thông tin
cần thiết như tên chủ thể ban hành, số và kí hiệu văn bản, địa điểm, thời gian
ban hành, chữ kí, con dấu hay quốc hiệu, quốc huy, tên chủ thể bị áp dụng, nội
dung sự việc, căn cứ pháp lí...
- Có cơ sở pháp lí, nghĩa là trong quyết định phải chỉ rõ là căn cứ vào
quy định nào của pháp luật cho thấy chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật
trong trường hợp này. Và chủ thể có thẩm quyền giải quyết trường hợp này là
trên cơ sở quy định (điều, khoản) nào của pháp luật. Cơ sở pháp lí này phải chỉ
rõ chi tiết cụ thể tới mục, khoản, điều của nguồn luật. Nếu quyết định áp dụng
pháp luật được ban hành trong trường hợp áp dụng pháp luật tương tự thì phải
có sự lý giải kĩ càng về tính hợp pháp, hợp lí của việc áp dụng pháp luật tương
tự đó đồng thời cũng phải ghi rõ đã áp dụng tương tự quy phạm pháp luật nào
hoặc nguyên tắc, tư tưởng pháp luật nào.
- Có cơ sở thực tế, nghĩa là việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật
phải căn cứ vào những sự kiện, những nhu cầu, đòi hỏi thực tế có thật (đáng tin
cậy). Nếu ra quyết định áp dụng pháp luật mà không căn cứ vào những cơ sở
thực tế đáng tin cậy hoặc không có thật thì sẽ có thể áp dụng pháp luật nhầm, sai
hoặc không có tính thuyết phục. 77
- Phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của cuộc sống, nghĩa là nội
dung của quyết định áp dụng pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong
thực tế. Sự phù hợp với các điều kiện thực tế, các điều kiện cụ thể về vật chất, kĩ
thuật, tổ chức... là những bảo đảm cho quyết định áp dụng pháp luật được thực
hiện trong thực tế. Nếu quyết định áp dụng pháp luật không phù hợp với điều
kiện thực tế thì nó sẽ khó được thi hành nghiêm chỉnh trong thực tế hoặc được
thi hành nhưng kém hiệu quả. Ngoài ra, quyết định áp dụng pháp luật được ban
hành phải bảo đảm tính tối ưu, nghĩa là phải có lợi nhất về tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, tinh thần và xã hội cho nhà nước, xã hội hoặc các chủ thể pháp luật.
d. Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật
Việc tổ chức thực hiện trên thực tế quyết định áp dụng pháp luật là giai
đoạn quan trọng của hoạt động áp dụng pháp luật, ở giai đoạn này, cần tiến hành
những hoạt động có tính chất tổ chức, kĩ thuật nhằm bảo đảm về mặt vật chất, kĩ
thuật cho việc thực hiện đúng đắn quyết định áp dụng pháp luật đã được ban
hành và có hiệu lực thi hành. Chẳng hạn, chuyển văn bản áp dụng pháp luật đã
có hiệu lực thi hành đến những tổ chức, cá nhân có liên quan trong những thời
hạn quy định của pháp luật tiến hành tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật đó.
Cũng ở giai đoạn này, cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát
việc thi hành quyết định áp dụng pháp luật. Đó là một trong những đảm bảo
quan trọng để quyết định đó được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.
Câu 54: Trình bày khái niệm và phân loại giải thích pháp luật
Quá trình hoạt động pháp luật từ việc xây dựng, thực hiện và áp dụng
pháp luật cho đến các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học pháp lí luôn có
nhiệm vụ quan trọng là phải nhận thức đúng, chính xác, thống nhất nội dung,
tinh thần các quy định pháp luật, có như vậy thì việc xây dựng và thực hiện pháp
luật mới chặt chẽ, chính xác. Muốn làm được điều đó thì phải tiến hành giải
thích pháp luật, nghĩa là làm sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của
các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh, 78
thống nhất pháp luật. Giải thích pháp luật là việc làm cần thiết, là nhu cầu cần
được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng pháp luật, quá trình thực
hiện và áp dụng pháp luật, trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy pháp luật,
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Song cần thiết và quan trọng hơn cả
là quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Bởi lẽ pháp luật là những quy tắc xử
sự chung mang tính phổ biến. Trường hợp cần phải giải quyết trên cơ sở luật
pháp thì có tính chất đơn nhất. Muốn quy cái đơn nhất vào cái phổ biến cần phải
có sự phán đoán. Vì thế các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện và áp
dụng pháp luật phải có trách nhiệm giải thích pháp luật trong việc vận dụng vào
từng trường hợp cá biệt cụ thể.
Giải thích pháp luật về cơ bản là nhằm làm rõ nội dung, bản chất thật sự
của pháp luật, làm cho mọi người hiểu và thực hiện pháp luật thống nhất theo
đúng các yêu cầu của pháp chế. Nếu không giải thích đầy đủ, chính xác các quy
định của pháp luật thì sẽ rất khó khăn trong hoạt động giám sát việc thi hành
chúng và cũng khó có thể kết luận được văn bản hay quy định pháp luật nào đó
trái với hiến pháp, luật... để đình chỉ thi hành hoặc huỷ bỏ. Trong một số trường
hợp nhạy cảm, việc giải thích pháp luật có thể chứa đựng ở mức độ nào đó yếu
tố chính trị thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể giải thích quy định pháp
luật sao cho có lợi nhất đối với lực lượng cầm quyền ở thời điểm đó.
Giải thích pháp luật là hoạt động đa dạng, nó được tiến hành ở mọi lúc,
mọi nơi, dưới nhiều hình thức phong phú như thơ ca, hò vè, những bài thuyết
trình, bài viết, có thể bằng văn bản cũng có thể bằng truyền miệng, trong mỗi cơ
quan nhà nước, mỗi tổ chức xã hội, trong từng gia đình, mỗi cộng đồng, giữa
những người xung quanh, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoặc
do bất kì tổ chức hay cá nhân nào. Phụ thuộc vào chủ thể tiến hành giải thích và
đặc trưng của sự giải thích, có thể chia giải thích pháp luật ra hai loại (hình thức)
là giải thích không chính thức (giải thích không có giá trị pháp lí) và giải thích
chính thức (giải thích có giá trị pháp lí). 79
- Giải thích pháp luật không chính thức: Là giải thích của tổ chức hay cá
nhân không có thẩm quyền giải thích pháp luật. Như vậy, lời giải thích không
chính thức không có giá trị pháp lí, không mang tính chất bắt buộc phải thực
hiện đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà chỉ có tác dụng giúp mọi người
nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về các quy định của pháp luật. Giải thích pháp luật
không chính thức là loại giải thích phổ biến nhất, đa dạng nhất, mang tính quần
chúng nhân dân vì ai cũng có thể giải thích được. Tuy nhiên, loại giải thích này
thường mang tính chủ quan, tùy tiện nên có nhiều hạn chế như không chính xác,
không thống nhất. Mặc dù vậy, giải thích pháp luật không chính thức, đặc biệt ỉà
giải thích của những tổ chức, cá nhân có uy tín, của các nhà khoa học pháp lí,
các luật gia cũng có tác dụng quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới ý thức pháp luật,
hành vi pháp lí của các chủ thể pháp luật và thông qua đó ảnh hưởng tới hoạt
động thực hiện và áp dụng pháp luật của họ. Chúng ta thường gặp giải thích
pháp luật không chính thức của các nhà chính trị, các nhà khoa học, nhà hoạt
động xã hội... trên đài, báo, trong các sách chuyên khảo hoặc bình luận về quy
định, văn bản pháp luật nào đó. Chẳng hạn, những bình luận khoa học về hiến
pháp, về bộ luật hình sự của các nhà khoa học...
- Giải thích pháp luật chính thức: Là giải thích của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo luật định được giải thích quy định hay văn bản quy phạm
pháp luật đó. Nội dung lời giải thích pháp luật chính thức có giá trị pháp lí, nó
thường được ghi nhận trong văn bản giải thích pháp luật và mang tính bắt buộc
các tổ chức và cá nhân khác phải nhận thức và thực hiện đúng như nội dung lời
giải thích chính thức. Giải thích pháp luật chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng vì vậy nó chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo
những trình tự và thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định. Tất cả các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân đều buộc phải nhận thức và thực hiện
đúng với nội dung, tinh thần các quy định pháp luật mà văn bản giải thích pháp
luật chính thức đã đưa ra. Giải thích chính thức được chia ra hai loại đó là giải
thích mang tính quy phạm và giải thích cho những vụ việc cụ thể: Giải thích 80
chính thức mang tính quy phạm thường là giải thích các quy định pháp luật bằng
các văn bản giải thích có chứa các quy tắc xử sự chung và được áp dụng nhiều
lần của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo đảm việc thực hiện, áp
dụng thống nhất luật pháp; giải thích chính thức cho những vụ việc cụ thể chỉ có
hiệu lực đối với vụ việc pháp lí cụ thể đó, còn đối với vụ việc khác, nó không có giá trị.
Câu 55: Trình bày các phương pháp giải thích pháp luật
Để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng và ý nghĩa của các quy phạm pháp
luật, khoa học pháp lí đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau:
- Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm là làm sáng tỏ nội dung tư
tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu và xác
định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của nội dung quy phạm đó.
Đây là phương pháp giải thích pháp luật phổ biến nhất và quan trọng nhất.
- Phương pháp logic là phương pháp sử dụng những suy đoán logic để làm
sáng rõ nội dung quy phạm pháp luật. Phương pháp này thường được sử dụng
trong trường hợp lời văn của quy phạm không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của nhà nước.
- Phương pháp giải thích chính trị-lịch sử là phương pháp tìm hiểu nội
dung tư tưởng quy phạm thông qua việc nghiên cứu hoàn cảnh chính trị-lịch sử
đã dẫn đến việc ban hành quy phạm hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó hoặc
nhiệm vụ chính trị mà nhà nước mong muốn đạt được khi ban hành quy định pháp luật đó.
- Phương pháp giải thích hệ thống là làm rõ nội dung, tư tưởng quy phạm
pháp luật thông qua việc đối chiếu nó với các quy phạm khác; xác định vị trí của
quy phạm đó trong chế định pháp luật, ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn. Giải
thích nguyên văn là cách giải thích nội dung lời văn của quy phạm pháp luật
được hiểu theo đúng từng câu, từng chữ của nó, không thêm, không bớt. Đây là 81
cách giải thích phổ biến nhất trong thực tế. Tuy nhiên, có những trường hợp cần
giải thích theo cách phát triển mở rộng hoặc hạn chế thì mới chính xác nội dung
đích thực mà quy phạm pháp luật mong muốn thể hiện. Giải thích mở rộng là
cách giải thích nội dung văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ văn
bản, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà - nhà làm luật muốn thể hiện trong
quy phạm (nội dung lời giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy
phạm pháp luật mà nó giải thích). Giải thích hạn chế là cách giải thích nội dung
văn bản pháp luật hẹp hơn so với nghĩa của từ ngữ trong văn bản (tức là so với
nội dung mà ngôn ngữ trong văn bàn đã thể hiện) sao cho đúng với ý nghĩa đích
thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm (nội dung lời giải thích hẹp
hơn so với nội dung lời văn của quy phạm pháp luật mà nó giải thích).
Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế là những trường hợp ngoại lệ.
Các cách giải thích này không mâu thuẫn với pháp chế mà ngược lại là một
trong những điều kiện để tăng cường pháp chế bởi vì đây không phải là giải
thích mở rộng hoặc hạn chế nội dung quy phạm một cách tuỳ tiện mà nhằm bổ
khuyết những thiếu sót của kĩ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể thực hiện hiểu
đúng nội dung thực sự của quy phạm, ý chí nhà nước đích thực được thể hiện trong
đó. Do vậy, chỉ khi nào nhận thấy lời văn của quy phạm pháp luật thật sự rộng hơn
hoặc hẹp hơn so với nội dung đích thực của nó thì mới được giải thích mở rộng hoặc
hạn chế, bằng không việc giải thích mở rộng hoặc hạn chế đều là sự vi phạm pháp chế.
Cần lưu ý là các phương pháp, hình thức giải thích pháp luật trên không
loại trừ lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp để giải thích quy phạm pháp luật
chúng ta phải tiến hành đồng thời các phương pháp giải thích khác nhau để khắc
phục, loại trừ sự nhận thức không đúng pháp luật.
Câu 56: Phân tích khái niệm vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. 82
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, là hành vi của con người: Như đã biết, pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự chung (là quy tắc, chuẩn mực cho hành vi con người) được
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích, hạnh phúc của con người,
về vấn đề này, C. Mác đã nhấn mạnh: "Ngoài hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn
không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó.
Những hành vi của tôi - đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm với pháp
luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đỏi quyền tồn tại, quyền hiện
thực và như vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành"(1).
Từ đó cho thấy vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi của con người hoặc
là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội... (các chủ thể pháp
luật). Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vị là không thể thiếu
được, nói cách khác, không có hành vi nguy hiểm của con người thì không có vi
phạm pháp luật. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành
động của các chủ thể pháp luật. Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể thực
hiện bàng những thao tác nhất định. Chẳng hạn, trộm cắp tài sản của người khác,
hành vi giao thông vào đường cấm... Hành vi không hành động là hành vi mà
chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến hành những thao tác nhất định.
Chẳng hạn, không tố giác người phạm tội, không cứu giúp những người đang
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng...
Pháp luật không điều chỉnh những suy nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân
khác của con người nếu như chúng không biểu hiện thành các hành vi cụ thể của
họ. Vì thế, suy nghĩ, những đặc tính cá nhân khác của con người và cả sự biến
cho dù có nguy hiểm cho xã hội cũng không liên quan đến vi phạm pháp luật.
Thứ hai, trái pháp luật: Vi phạm pháp luật không những là hành vi nguy
hiểm cho xã hội của các chủ thể pháp luật mà hành vi đó còn phải trái với pháp
luật. Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện không đúng với những quy
định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những
(1) Xem: C. Mác - Ph. Ănghen tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 19. 83
việc mà pháp luật cấm hoặc tiến hành hoạt động vượt quá giới hạn, phạm vi cho
phép của pháp luật... Những hành vi hợp pháp hay hành vi trái với các quy định
của các tổ chức xã hội, trái với tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo... mà không
trái pháp luật thì không liên quan đến vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật
ở những mức độ khác nhau đều xâm hại tới những quan hệ xã hội mà mỗi nhà
nước xác lập và bảo vệ. Một cách khái quát, những gì mà pháp luật không cấm,
không xác lập và bảo vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng không bị coi là vi
phạm pháp luật. Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của
hành vi bị coi là vi phạm pháp luật.
Thứ ba, có lỗi của chủ thể: Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở
nhận thức và kiểm soát của chủ thể, nghĩa là chủ thể nhận thức và điều khiển
được hành vi của mình. Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài
của hành vi, để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan
của nó, nghĩa là, xác định lỗi của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó. Lỗi
là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của
mình. Nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn
cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý thực hiện
hoặc không thể ý thức (nhận thức) được, từ đó không thể lựa chọn hoặc điều
khiển được hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể hành vi đó
không bị coi là có lỗi và hành vi đó không liên quan đến vi phạm pháp luật. Kể
cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong điều
kiện bất khả kháng cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy,
những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể
thực hiện hành vi đó thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Từ đây có thể khẳng
định là mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật nhưng
ngược lại, không phải mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật.
Chi những hành vi trái pháp luật nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật. 84
Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật có năng lực trách nhiệm
pháp lí: Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện. Năng lực trách nhiệm pháp lí là khả
năng phải chịu trách nhiệm pháp lí của chủ thể đối với hành vi của mình. Năng
lực trách nhiệm pháp lí của các chủ thể do nhà nước quy định trong pháp luật.
Các nhà nước thường quy định sự độc lập phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành
vi của mình đối với những người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự cho
mình và có tự do ý chí, nghĩa là người đó phải có khả năng nhận thức, điều
khiển được hành vi của mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định cách xử sự
cho mình và khả năng tự chịu trách nhiệm độc lập về hành vi của mình. Năng
lực trách nhiệm pháp lí của mỗi cá nhân thường được xác định dựa vào hai yếu
tố là độ tuổi và khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của chủ thể ở thời điểm
hành vi được thực hiện. Đối với trẻ em ít tuổi có thể nhận thức và điêu khiên
được hành vi của mình nhưng do các em chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí
lực và tâm sinh lí nên chúng chưa có khả năng nhận thức và đánh giá được hết
những hậu quả do hành vi của chúng gây ra cho xã hội nên nhà nước không quy
định năng lực phải chịu trách nhiệm pháp lí đối với chúng (không bắt chúng
phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình). Độ tuổi phải chịu trách
nhiệm pháp lí của cá nhân được pháp luật quy định khác nhau đối với mỗi loại
quan hệ xã hội khác nhau hoặc phụ thuộc vào tầm quan trọng, tính chất của quan
hệ xã hội đó. Đối với những người do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng tự
lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện hành vi đó thì
pháp luật cũng quy định họ không có năng lực trách nhiệm pháp lí, do vậy họ
không phải chịu trách nhiệm pháp lí đối với trường hợp đó. Chẳng hạn, Điều 12
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự". Các nhà nước khác nhau có quy định về năng lực trách nhiệm pháp
lí của cá nhân, tổ chức khác nhau. Như vậy, những hành vi trái pháp luật nhưng khi 85
thực hiện chúng các chủ thể không có hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lí
theo quy định của pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Câu 57: Phân tích các loại vi phạm pháp luật.
Hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng, do vậy cũng có
rất nhiều cách để phân loại chúng. Tuy nhiên cách phân loại phổ biến nhất là căn
cứ vào tính chất, đặc điểm của chủ thể, khách thể vi phạm pháp luật và sự thiệt
hại của xã hội vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn nhóm cơ bản sau:
+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự quy
định, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh,
trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật.
+ Vi phạm hành chính là hành vi do các chủ thể có năng lực trách nhiệm
hành chính thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí
nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
+ Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi do các chủ thể
có năng lực trách nhiệm dân sự thực hiện, xâm hại tới những quan hệ tài sản,
quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài sản...
+ Vi phạm kỉ luật nhà nước là những hành vi có lỗi của những chủ thể có
năng lực trách nhiệm kỉ luật trái với những quy định pháp luật xác lập trật tự
trong cơ quan, tổ chức của nhà nước, nghĩa là, chủ thể đã không thực hiện đúng
kỉ luật lao động, phục vụ được đề ra trong cơ quan, tổ chức đó... cần chú ý là
chủ thể vi phạm kỉ luật chỉ có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công chức...) có
quan hệ phụ thuộc với cơ quan, tổ chức đó của nhà nước.
Trong mỗi loại vi phạm pháp luật nói trên còn có thể phân chia thành
từng nhóm nhỏ hơn. Chẳng hạn, trong Bộ luật hình sự Việt Nam tội phạm còn 86
được chia thành các nhóm nhỏ như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu...
- Ngoài ra còn có thể căn cứ vào đối tượng (các loại quan hệ xã hội mà
pháp luật xác lập và bảo vệ) bị xâm hại có thể phân chia vi phạm pháp luật thành
vi phạm pháp luật về tài chính, vi phạm pháp luật về lao động, vi phạm pháp
luật về đất đai... Hoặc căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm
pháp luật có thể phân chia vi phạm pháp luật thành tội phạm và các vi phạm
pháp luật khác. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cao độ cho xã hội (về nội dung
thể hiện ở tính chất của các quan hệ xã hội mà nỏ xâm hại, tính chất và mức độ
thiệt hại mà nó gây ra cho xã hội...; về hình thức thể hiện ở chỗ chúng được quy
định trong luật hình sự). Các vi phạm pháp luật khác không phải là tội phạm thì
mức độ nguy hiểm không cao bằng tội phạm và được quy định trong các ngành luật khác.
Câu 58: Phân tích yếu tố lỗi trong cấu thành vi phạm pháp luật.
Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của
chủ thể, nghĩa là chủ thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Lỗi là
yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của
mình. Nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn
cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý thực hiện
hoặc không thể ý thức (nhận thức) được, từ đó không thể lựa chọn hoặc điều
khiển được hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể hành vi đó
không bị coi là có lỗi và hành vi đó không liên quan đến vi phạm pháp luật. Kể
cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong điều
kiện bất khả kháng cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy,
những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể
thực hiện hành vi đó thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Từ đây có thể khẳng
định là mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật nhưng
ngược lại, không phải mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. 87
Chỉ những hành vi trái pháp luật nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
Lỗi là trạng thái tâm lí của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và
hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với
xã hội. Phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể khoa học pháp
lí chia lỗi ra thành hai loại: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp
hoặc cố ý gián tiếp, lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra nhưng hi vọng, tin tưởng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
+ Lỗi vô ý vì cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể hoặc
cần phải nhận thấy trước hậu quả đó.
Câu 59: Phân tích khái niệm và phân loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lí là sự bắt buộc chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh
chịu những hậu quả pháp lí bất lợi, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước
với chủ thể vi phạm pháp luật, được pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ
thể vi phạm pháp luật bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định.
Sở dĩ nhà nước quy định trách nhiệm pháp lí, thực hiện sự trừng phạt đối
với những chủ thể vi phạm pháp luật là vì: Thứ nhất, trong quy phạm pháp luật
nhà nước đã đưa ra trước những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được 88
phép hoặc buộc phải lựa chọn khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự
liệu. Và chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện (tình huống) đã được pháp luật
dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp
từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã dự tính cho trường hợp đó;
thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt động có lí
trí (họ ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ có khả năng nhận thức, điều
khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây ra cho xã hội) và có tự do ý
chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể tự lựa chọn cho mình cách xử sự có
thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì vậy, họ có đủ khả năng và phải
chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa chọn của mình. Nếu chủ thể
chọn cách xử sự trái với ý chí của nhà nước đã thể hiện trong quy phạm pháp
luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho phép hoặc buộc phải thực
hiện trong trường hợp đó) thì chủ thể phải chịu trách nhiệm về việc làm của
mình, phải chịu trách nhiệm pháp lí. Như vậy, trách nhiệm pháp lí chỉ đặt ra đối
với những chủ thể có lí trí và có tự do ý chí.
Cơ sở của trách nhiệm pháp lí là vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lí
chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật, là hậu quả của hành vi
vi phạm pháp luật. Nên trong thực tế không xảy ra vi phạm pháp luật thì cũng
không tồn tại trách nhiệm pháp lí. Trách nhiệm pháp lí chỉ được phép áp dụng
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lí luôn gắn liền với các quy định pháp luật, trong pháp
luật luôn có sự quy định chặt chẽ về chủ thể có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm
pháp lí, về trình tự, thủ tục tiến hành xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lí,
về các biện pháp cưỡng chế được phép áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp
luật... Pháp luật cũng quy định cho chủ thể vi phạm pháp luật ngoài việc phải
gánh chịu hậu quả bất lợi nhất định còn có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước,
nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể được pháp luật trao quyền truy
cứu trách nhiệm pháp lí phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật, phải
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. 89
Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lí không phải là sự cưỡng chế mà
chỉ là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định.
Phân loại trách nhiệm pháp lý:
Trách nhiệm pháp lí có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành:
Trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm dân
sự và trách nhiệm vật chất.
- Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do tòa
án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội.
- Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan nhà
nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm hành chính.
- Trách nhiệm kỉ luật là loại trách nhiệm pháp lí do thủ trưởng các cơ
quan, tổ chức của nhà nước áp dụng đối với cán bộ, công chức... của cơ quan, tổ
chức của mình khi họ vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lí do tòa án hoặc các chủ
thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự.
- Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan, xí
nghiệp... áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân... của cơ quan, xí nghiệp
trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp.
Để bảo đảm sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách
nhiệm pháp lí đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng
một hoặc đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lí.
Câu 60: Phân tích các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi: Mặt khách quan, mặt chủ quan,
chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật 90
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài
của vi phạm pháp luật, bao gồm những yếu tố sau:
- Hành vi trái pháp luật: Bất kì vi phạm pháp luật nào cũng được cấu
thành bời hành vi trái pháp luật, nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái pháp
luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức cụ thể nào đó thì
không có vi phạm pháp luật xảy ra.
- Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội: Hành
vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã
hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có
nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác
cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật được xác định phụ
thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội
mà hành vi trái pháp luật đó gây ra.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó
gây ra cho xã hội: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả
mà nó gây ra cho xã hội thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do chính hành
vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nghĩa là, sự thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu
quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt
hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quà thì sự thiệt hại của xã hội không
phải do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.
Ngoài ra, trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố
khác như thời gian, địa điểm, phương tiện và cách thức vi phạm...
b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lí bên trong
của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:
- Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật: Lỗi là trạng thái tâm lí của chủ thể
đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện
thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong 91
thái độ của chủ thể khoa học pháp lí chia lỗi ra thành hai loại: Lỗi cố ý và lỗi vô
ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, lỗi vô ý có thể là vô ý vì
quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra nhưng hi vọng, tin tưởng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
+ Lỗi vô ý vì cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể hoặc
cần phải nhận thấy trước hậu quả đó.
- Động cơ vi phạm: Động cơ vi phạm được hiểu là cái (động lực) thúc
đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật chủ thể được thúc đẩy bởi động cơ nhất định nào đó
như vụ lợi, trả thù, đê hèn...
- Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi.
Tuy nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được
trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt
được. Chẳng hạn, A chỉ muốn làm B đau (mục đích gây thương tích) nhưng kết
quả thực tế B chết (cái chết của B nằm ngoài mong muốn của A). Hoặc M muốn
giết chết N (mục đích giết người) nhưng kết quả thực tế N không chết (việc N
không chết là nằm ngoài mong muốn của M). 92
c. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lí, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách
nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đỏ. Nếu chủ thể
vi phạm pháp luật là cá nhân thì họ phải là người đã đạt được độ tuổi nhất định
theo quy định của pháp luật, có khả năng nhận thức, xác lập, kiểm soát được
hoạt động của bản thân. Những người không có khả năng nhận thức hay điều
khiển được hoạt động của bản thân thì không được coi là chủ thể vi phạm pháp
luật. Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân, nhà chức trách, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và các chủ thể pháp luật khác.
d. Khách thể vi phạm pháp luật
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội khác
nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan
trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của
hành vi vi phạm pháp luật.
Những vấn đề về mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể của
vi phạm pháp luật sẽ được làm rõ khi xem xét từng loại vi phạm pháp luật cụ
thể. Vì vậy, ở đây chỉ nêu những vấn đề chung nhất của cấu thành vi phạm pháp luật. 93
Câu 61: Nêu các nguyên nhân vi phạm pháp luật và các biện pháp phòng
chống vi phạm pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay
Cuộc sống của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhận thức của một bộ phận nhân
dân lạc hậu, trong khi đó các thế lực thù địch vẫn luôn tìm mọi cách chống
phá, âm mưu phá hoại công cuộc đổi mới của nhân dân ta.
Về mặt chủ quan đó là sự yếu kém trong công tác quản lý, nhất là
trong quản lý kinh tế, dẫn đến việc quản lý trong các lĩnh vực còn nhiều sơ
hở, thiếu sót, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa thực sự đầy đủ và
đồng bộ, nhiều quy định của pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu của đòi hỏi trong công cuộc đổi mới kinh tế, văn hóa,
giáo dục... trên phạm vi nhà nước. Bên cạnh đó công tác giáo dục hướng
dẫn tuyên truyền kiểm tra, giám sát việc nắm hiểu và vận dụng pháp luật
chưa chặt chẽ và hiệu quả.
Các biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa.Tiến hành quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan pháp luật phối hợp đấu tranh có hiệu quả, xử lý nghiêm, công bằng vi phạm pháp luật.
Kết hợp sức mạnh của các tổ chức xã hội và mọi công dân, huy động mọi
phương tiện có thể, áp dụng giữa cưỡng chế và thuyết phục để loại trừ tội phạm
và hiện tượng tiêu cực ra khỏi đời sống xã hội.
Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, pháp luật, kỷ luật, đạo đức... cho nhân dân.
Tạo ra những hoàn cảnh và điều kiện tốt để mọi người phát huy được 94
những cái tốt, cái tích cực, loại trừ tiêu cực, cái xấu xa ra khỏi đời sống xã hội,
tiến tới xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ và con người sống trong tình thân ái,
giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
Câu 62: Phân tích ý thức pháp luật và các biện pháp nâng cao ý thức pháp
luật ở nước ta hiện nay
a. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm thịnh
hành trong xã hội thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật và sự
đánh giá về tỉnh hợp pháp hay không hợp pháp đối với các hành vi pháp lí thực tiễn.
Trong xã hội có giai cấp, sự tồn tại của ý thức pháp luật chịu sự tác động đa
chiều của nhiều yếu tố cơ bản như nền tảng kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan
so sánh lực lượng, giới hạn của giai cấp cầm quyền, cơ chế đảng trị, động lực xã
hội, xu thế thời đại...
Ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội chịu ảnh hưởng
sâu sắc của các hệ tư tưởng, thế giới quan giai cấp cũng như quan niệm xã hội.
Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội
quy định. Trong xã hội có giai cấp, sự khác nhau về điều kiện sinh hoạt vật chất,
tinh thần của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội đã đem lại sự khác nhau nhất định về ý thức pháp luật.
b. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là dạng cụ thể của ý thức xã hội, do đó ý thức pháp luật
mang đầy đủ những đặc điểm của ý thức xã hội. Đồng thời, ý thức pháp luật
cũng thể hiện tính đặc thù, riêng biệt của mình so với ý thức xã hội khác trong
quá trình hình thành, tồn tại và phát triển. Đó là:
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc
Trong đời sống xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm phương thức sản xuất
vật chất thì quyết định sự tồn tại xã hội và tất yếu dẫn đến sự thống trị về mặt 95
tinh thần đối với cả xã hội. Là sản phẩm trực tiếp của giai cấp cầm quyền, ý thức
pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của ý thức pháp luật nói
chung được phản ánh rõ nét ở đời sống pháp lí của xã hội và ở ý thức sinh hoạt
đời thường của các cá nhân trong xã hội. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản:
- Ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền là tiền đề để xây dựng các giá trị,
chuẩn mực pháp lí đối với xã hội.
- Ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền là cơ sở để hình thành thế giới
quan pháp lí chính thống trong xã hội.
- Sự chọn lọc của giai cấp cầm quyền về kế thừa đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật cũ.
Ý thức pháp luật mang tính độc lập tương đối
Mặc dù là hiện tượng chịu sự chi phối bởi các yếu tố của điều kiện tồn tại
xã hội nhưng ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối của nó. Tính độc lập
tương đối của ý thức pháp luật thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội: Là một trong
các nhân tố phản ánh điều kiện tồn tại xã hội, ghi nhận sự biến đổi của các quan
hệ xã hội nhưng nhìn chung ý thức pháp luật thường bộc lộ sự lạc hậu của nó so
với tồn tại xã hội. Sự lạc hậu đó diễn ra dưới hai khả năng:
Một là khi điều kiện tồn tại có những nhân tố mới xuất hiện nhưng ý thức
pháp luật lại chưa phản ánh, ghi nhận kịp thời sự biến đổi đó. Lí do cơ bản đem
lại thực trạng này là không phải sự biến đổi nào của điều kiện tồn tại cũng được
phản ánh tức thời lên ý thức chủ quan của con người và cũng không phải sự biến
đổi nào diễn ra con người cũng có khả năng nhận biết được một cách kịp thời, đầy đủ.
Hai là khi điều kiện tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức pháp luật tương
ứng với nó vẫn tồn tại dai dẳng trong thời gian nhất định. Điều này dễ nhận thấy
trong lĩnh vực tình cảm pháp luật bởi sự thay đổi của nó diễn ra càng chậm chạp
do ảnh hưởng của thói quen, tập quán và truyền thống. Chẳng hạn, ở nước ta 96
điều kiện tồn tại của thời kì tập trung, quan liêu, bao cấp đã bị từ bỏ nhưng thực
tế quan niệm, tư duy của cơ chế quản lí cũ đó vẫn chi phối, cản trở nhất định đối
với các chủ thể trong các hoạt động pháp lí thực tiễn.
- Ý thức pháp luật mang tính kế thừa: Sự kế thừa trong ý thức pháp luật
cũng là biểu hiện về tính độc lập và sự đan xen trong quá trình tồn tại của hiện
tượng này. Sự kế thừa trong ý thức pháp luật diễn ra có thể theo cả chiều hướng
tích cực, tiến bộ hoặc ngược lại. Chẳng hạn, sự kế thừa của giai cấp vô sản về
các quan điểm tiến bộ đối với quyền con người, giá trị xã hội công dân hoặc
pháp quyền trong ý thức pháp luật tư sản là sự kế thừa mang tính tích cực xét cả
về phương diện nội dung và quan điểm tiếp cận. Như vậy, cần phải có thái độ
biện chứng khi xem xét ý thức pháp luật, bời nó là hiện tượng phức tạp vừa phụ
thuộc vào tồn tại xã hội vừa có tính độc lập tương đối.
- Ý thức pháp luật tác động qua lại với tồn tại xã hội, các hình thái ý thức
xã hội khác và các hiện tượng của kiến trúc thượng tầng pháp lí: Trong sự phát
triển của các hình thái ý thức xã hội thì mỗi loại hình ý thức phản ánh một số đối
tượng nhất định, phạm vi nhất định của tồn tại xã hội, vì vậy giữa chúng có mối
quan hệ và tác động lẫn nhau. Nhìn chung sự tác động của ý thức pháp luật đối
với tồn tại xã hội, đối với các phạm trù ý thức xã hội và các hiện tượng xã hội
khác diễn ra theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Ở đây cần nhận thấy
sự khác biệt nhất định từ các phương diện cơ bản:
+ Sự tác động của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội không diễn ra một
cách trực tiếp mà thông qua hành vi pháp luật.
+ Sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý
thức tôn giáo... luôn thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình tồn
tại và vận động. Sẽ là sự tác động tích cực nếu có sự phù hợp giữa ý thức pháp
luật với các loại hình ý thức đó và ngược lại, đó sẽ là nhân tố cản trở lẫn nhau
nếu giữa các phạm trù ý thức đó thiếu đi sự tương đồng cần thiết.
+ Sự tác động qua lại giữa ý thức pháp luật đối với các bộ phận khác của
kiến trúc thượng tầng pháp lí như nhà nước, pháp luật luôn là sự tương tác cơ 97
bản và có ý nghĩa quan trọng nhất. Ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc hình
thành hệ thống cơ quan nhà nước yà quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Ý
thức pháp luật là nhân tố tiền đề cho việc xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật và bảo vệ pháp luật.
- Tính vượt lên trước của tư tưởng khoa học về pháp luật: Đối với hệ tư
tưởng pháp luật thì tri thức khoa học là yếu tố cơ bản bởi nó có thể đem lại sự
nhìn nhận khách quan đối với tồn tại xã hội. Trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng khoa học có tính dẫn đường, đi trước đối với tồn tại xã hội. Điều này
không đơn thuần khẳng định sự độc lập tương đối của ý thức pháp luật so với
tồn tại xã hội mà nó là tiền đề tư tưởng-pháp lí trực tiếp góp phần phục vụ cho
quá trình điều chỉnh pháp luật và công cuộc cải tạo xã hội trên thực tế.
c. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Xem xét cấu trúc của ý thức pháp luật tức là xem xét các bộ phận hợp thành
ý thức pháp luật. Căn cứ vào nội dung và tính chất, cấu trúc của ý thức pháp luật
cần phải được nhìn nhận dưới góc độ cụ thể và góc độ chung.
Ở góc độ cụ thể (tức là gắn với từng cá nhân con người), ý thức pháp luật
thể hiện ở hai mặt của phương diện chủ quan là sự hiểu biết pháp luật và thái độ,
tình cảm đối với pháp luật của chính con người đó.
Ở góc độ chung, ý thức pháp luật với tính cách là hiện tượng xã hội có hai
bộ phận lớn hợp thành là: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, học thuyết,
trường phái lí luận về pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật là bộ phận ở cấp độ lí
luận có tính khái quát, tính hệ thống cao được hình thành một cách tự giác. Hệ
tư tưởng pháp luật soi sáng cho tâm lí pháp luật, định hướng các hành vi pháp
luật đối với các chủ thể pháp luật. Hệ tư tưởng pháp lí phản ánh sâu sắc những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, đó là sự nhận thức lí luận về tồn tại xã
hội. về mặt nội dung, hệ tư tưởng pháp lí có thể có những nhân tố mang tính
khoa học hoặc cũng có thể là phản khoa học. Hệ tư tưởng pháp lí khoa học phản 98
ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội và quy luật phát triển khách
quan của xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng pháp lí phản khoa học cũng phản ánh
các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng đó là sự phản ánh sai lầm, xuyên tạc
và thiếu tính khách quan. Giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật có mối
liên hệ, tác động lẫn nhau vì chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, cùng
phản ánh tồn tại xã hội.
Hệ tư tưởng pháp luật không đơn thuần là sản phẩm của giai cấp cầm quyền
sáng tạo nên mà nó còn hàm chứa các giá trị khoa học được đúc kết, kế thừa từ
thực tế của nền văn minh pháp lí nhân loại. Tâm lí pháp luật
Tâm lí pháp luật được hình thành trên cơ sở nhận thức, biểu hiện tâm trạng,
xúc cảm, thái độ của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lí khác.
Tâm lí pháp luật là yếu tố chủ quan nên quá trình nhận thức, tư duy diễn ra chịu
sự chi phối của các đặc điểm về nhân thân của chính con người đó. Tâm lí pháp
luật có tính bền vững là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng
pháp luật. Cũng như hệ tư tưởng pháp luật, tâm lí pháp luật có thể mang tính
tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên, do tâm lí là yếu tố chủ quan nên việc nhận
diện những đặc tính của nó đòi hỏi phải có quá trình lâu dài và cần phải thông
qua các hành vi pháp luật thực tiễn. Mặt khác, tâm lí pháp luật mặc dù có tính ổn
định tương đối nhưng nó cũng có thể biến đổi khi môi trường kinh tế, chính trị
và pháp lí có những thay đổi không phù hợp với xu thế của sự vận động mà nó
đã có tính ổn định tương đối. Vì vậy, coi trọng yếu tố tâm lí pháp luật đòi hỏi
phải quan tâm nhân tố con người trong các hoạt động thực tiễn và điều kiện tồn
tại xã hội ở mỗi giai đoạn.
d. Các biện pháp nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay
Sự hình thành, phát triển của ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là quá trình
phụ thuộc nhiều yếu tố: điều kiện kinh tế, chính trị tư tưởng, văn hóa... Do đó để
nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa cho công dân, bên cạnh việc xây
dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế 99
xã hội, còn phải có biện pháp để tạo điều kiện phát triển toàn diện ý thức pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Đó là không ngừng giáo dục pháp luật.
Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và
thường xuyên kiến thức pháp lý tới nhận thức của con người; từ đó giúp họ có ý
thức pháp luật đúng đắn tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu pháp luật.
Tùy theo tình hình cụ thể trong mỗi giai đoạn, các phương pháp giáo dục
pháp luật được áp dụng khác nhau. Đó là những phương pháp cơ bản sau:
-Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật làm cho
nhân dân nắm được đầy đủ, hiểu được nội dung các văn bản pháp luật. Công tác
này cần phải có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và
đoàn thể quần chúng để tìm ra những biện pháp và hình thức thích hợp.
- Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường học của Đảng,
Nhà nước (kể cả các trường phổ thông và đại học), của các đoàn thể.
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ năng lực, trình
độ, có phẩm chất chính trị và phong cách tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác
pháp luật, pháp chế, vì họ là những người nâng cao vai trò pháp luật, giáo dục pháp luật.
- Mở rộng dân chủ công khai, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào
việc biên soạn, thảo luận, đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật, qua đó nhân
dân sẽ nâng cao được ý thức pháp luật.
- Thực hiện tốt việc kết hợp công tác chống vi phạm pháp luật với giáo
dục đạo đức, văn hóa. Đạo đức và văn hóa là những yếu tố quan trọng để tạo ra
ý thức pháp luật đúng đắn.
Câu 63: Phân tích mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
- Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau, nhưng
có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ đó được biểu hiện ở những điểm sau:
+ Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. 100
+ Pháp luật là sự biểu hiện ý thức pháp luật của giai cấp thống trị. Một hệ
thống pháp luật bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở một chế độ kinh tế xã
hội nhất định, thể hiện ý chí và lợi ích của lực lượng cầm quyền đã được ý thức
đầy đủ. Những thay đổi khách quan trong đời sống xã hội trước hết được phản
ánh trong ý thức pháp luật, sau đó mới thể hiện thành pháp luật. Do đó ý thức
pháp luật là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Ý thức pháp luật là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ của họ đối
với quy định pháp luật. Do đó, ý thức pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần
tôn trọng pháp luật, việc tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật càng được bảo
đảm. Như vậy, để pháp luật thực hiện được nghiêm chỉnh đòi hỏi phải có những
biện pháp để bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho công dân, phải kết hợp giáo dục
ý thức pháp luật với giáo dục đạo đức xã hội.
- Ý thức pháp luật là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật
+ Để áp dụng đúng đắn một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự hiểu biết
chính xác nội dung, yêu cầu của quy phạm pháp luật. Từ đó, ta mới có thể đánh
giá đúng đắn diễn biến hành vi trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Tất cả
những điều này chỉ có thể thực hiện trong điều kiện ý thức pháp luật đã phát triển đầy đủ.
+ Ý thức pháp luật đối với những cán bộ làm công tác xét xử là rất quan trọng,
vì những quyết định của cơ quan xét xử là quyết định cuối cùng khi đánh giá hành
vi. Vì vậy họ phải được đào tạo và không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật.
+ Ý thức pháp luật không mâu thuẫn với pháp luật. Ý thức pháp luật là
điều kiện cần thiết để áp dụng đúng pháp luật. Người áp dụng pháp luật không
được tuỳ tiện giải thích pháp luật. Ý thức pháp luật tỏ rõ khả năng áp dụng pháp
luật đối với mỗi trường hợp cụ thể. 101
- Pháp luật là cơ sở đế củng cố, phát triến và nâng cao ý thức pháp
Trong xã hội quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức đều phản ánh lợi
ích của một giai cấp nhất định. Sự tương quan giữa pháp luật và đạo đức thể
hiện trong Hiến pháp các nước. Nhiều điều khoản vừa là quy phạm đạo đức vừa
là quy phạm pháp luật. Những điều khoản này thể hiện đồng thời quan điểm
pháp luật và đạo đức của nhân dân. Ví dụ: Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nghĩa vụ lao động... Do đó pháp luật là cơ sở
để nâng cao ý thức pháp luật và đạo đức xã hội.
Ý thức pháp luật đều dựa trên nguyên tắc đạo đức xã hội. Trong mối quan
hệ này, ý thức pháp luật thúc đẩy sự hình thành phát triển và hoàn thiện của
pháp luật. Ngược lại, pháp luật củng cố ý thức pháp luật. Qua thực tiễn áp dụng
quy phạm pháp luật đúng đắn, góp phần nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao ý
thức tôn trọng pháp luật của nhân dân.
Câu 64: Trình bày khái niệm và quá trình xây dựng pháp luật
a. Khái niệm xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất
của nhà nước. Việc tạo ra những văn bản quy phạm pháp luật, phản ánh được
những nhu cầu phát triển khách quan của xã hội sẽ có ý nghĩa quyết định đối với
chất lượng và hiệu quả của quản lý nhà nước.
Xây dựng pháp luật là hoạt động soạn thảo và ban hành các đạo luật, các
văn bản quy phạm pháp luật khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của cơ
quan các tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền.
Xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo, là quá trình nhận thức
các quy luật xã hội, đặc biệt là quy luật lợi ích, xác định tầm quan trọng của các
quan hệ xã hội, từ đó xác định phạm vi và phương pháp điều chỉnh.
b. Quá trình xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật được coi là một quá trình, vì nó bao gồm hàng loạt các
động tác, thủ tục cần thiết diễn ra trong một độ dài thời gian nhất định để tạo ra
các văn bản pháp luật mới. Hoạt động xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật 102
chủ yếu qua bốn giai đoạn, theo quy trình như sau:
- Giai đoạn 1: Đề xuất yêu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới
hay sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Ở giai đoạn này, các chủ thể có thẩm quyền trình sáng kiến pháp luật tiến hành
chuẩn bị dự thảo các văn bản trình cơ quan có thẩm quyền ban hành loại văn bản đó.
- Giai đoạn 2: Quá trình soạn thảo dự án luật, bao gồm: soạn thảo văn bản, thảo
luận sơ bộ, lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, cá nhân liên quan đến văn bản đó.
- Giai đoạn 3: Thảo luận và thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
ở Quốc hội. Đây là giai đoạn trung tâm của quá trình xây dựng pháp luật.
- Giai đoạn 4: Công bố văn bản quy phạm pháp luật.
Câu 65: Phân tích các nguyên tắc xây dựng pháp luật
Quá trình xây dựng pháp luật phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Đó là các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Hoạt động này là công cụ quan trọng đê thông qua đó chủ trương và chính
sách của Đảng được Nhà nước đưa vào cuộc sống. - Nguyên tắc khách quan
Hoạt động xây dựng pháp luật chỉ mang tính khách quan khi văn bản quy
phạm pháp luật phản ánh được nhu cầu và điều kiện khách quan của sự phát
triển xã hội. Bởi vậy cần quan tâm thu hút các nhà khoa học vào hoạt động xây
dựng pháp luật, nâng cao trách nhiệm của các luật gia trước chất lượng, hiệu quả
của văn bản quy phạm pháp luật khi nó được thông qua.
- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này thể hiện ở sự tham gia của nhân dân lao động và các tổ
chức xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, đồng thời phải đề cao vai trò của
họ trong hoạt động xây dựng pháp luật.
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 103
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan xây dựng pháp luật không được ban
hành văn bản pháp luật không đúng thẩm quyền của mình. Khi xây dựng pháp
luật phải tuân thủ thủ tục do pháp luật quy định. Văn bản của cơ quan nhà nước
cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản dưới
luật phải phù hợp với Hiến pháp và các văn bản luật.
Câu 66: Phân tích khái niệm, đặc điểm hệ thống hoá và pháp điển hoá pháp luật
a. Hệ thống hóa pháp luật
Hệ thống hóa pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm sắp xếp
các quy phạm pháp luật, các văn bản pháp luật hiện hành theo một trật tự nhất định.
Mục tiêu của hệ thống hóa pháp luật:
- Hệ thống hóa pháp luật tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
cân đối, họàn chỉnh, thống nhất. Trong đó, vai trò của pháp luật ngày càng quan
trọng đối với sự điều chỉnh các quan hệ xã hội.
-Hệ thống hóa pháp luật khắc phục tính lỗi thời, mâu thuẫn, những lỗ hổng
của hệ thống pháp luật.
- Hệ thống hóa pháp luật làm cho nội dung pháp luật phù hợp với những
yêu cầu của đời sống, có hình thức rõ ràng, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.
Các hình thức hệ thống hóa pháp luật: - Tập hợp hóa
Tập hợp hóa là sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật hoặc các quy phạm
pháp luật riêng biệt theo một trình tự nhất định; hoặc theo cơ quan ban hành,
hoặc theo hoạt động của Nhà nước, ngành, cấp độ hiệu lực pháp lý...
Tập hợp hóa không làm thay đổi nội dung văn bản, không bổ sung những
quy định mới mà chỉ loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực hoặc mâu thuẫn
với văn bản của cấp trên.
- Hình thức pháp điển hóa
Pháp điển hóa là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó
nó không những tập hợp các văn bản đã có theo một trình tự nhất định, loại bỏ 104
những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm những quy phạm
mới để thay thế cho các quy phạm đã bị loại bỏ, khắc phục những chỗ không
được phát hiện trong quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi các quy phạm hiện
hành, nâng cấp hiệu lực pháp lý của chúng.
Kết quả của công tác pháp điển hóa là sự ra đời của một văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn. Đó là một văn bản tương ứng với một ngành
luật, hay một bản điều lệ tập hợp quy phạm cho một lĩnh vực nhất định. Trong đó
các quy phạm pháp luật được sắp xếp lôgíc, chặt chẽ và nhất quán. Các văn bản
mới này có hiệu lực pháp lý cao hơn, tổng quát hơn về phạm vi điều chỉnh, hoàn
chỉnh hơn về kỹ thuật lập pháp. Do vậy pháp điển hóa là công việc sáng tạo pháp luật.
b. Pháp điển hóa pháp luật Khái niệm (xem ở trên) Đặc điểm:
- Việc pháp điển hóa có thể làm thay đổi nội dung và hình thức của các quy
phạm pháp luật, các chế định pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được
tập hợp, có thể làm xuất hiện thêm các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật
và các khái niệm pháp lý mới.
- Việc pháp điển hóa chỉ được tiến hành theo đối tượng điều chỉnh của các
quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật
theo từng chủ để nhất định.
- Các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật và các văn bản quy phạm
pháp luật được tập hợp trong quá trình pháp điển hóa phải đang còn hiệu lực pháp lý.
- Kết quả cuối cùng của pháp điển hóa là làm hình thành nên một bộ luật
mới hoặc một bộ pháp điển trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy phạm pháp
luật, các chế định pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật cũ nhằm làm cho
pháp luật thống nhất, hợp lý và phát triển hơn nên chủ thể tiến hành pháp điển 105
hóa chỉ có thể là cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, chẳng hạn
quốc hội, nghị viện hoặc một cơ quan chuyên trách về lĩnh vực này.
Câu 67: Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện và áp dụng pháp luật
a. Tác động của ý thức pháp luật đối với việc nhận thức và thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích nhằm làm cho các
quy định của pháp luật đi vào cuộc sống thông qua hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật một cách chủ động, đúng đắn trước hết phụ thuộc
vào sự hiểu biết pháp luật và thái độ pháp lí của chủ thể. Khi chủ thể hiểu được
nội dung của các quy phạm pháp luật tức là thấy được những điều mà pháp luật
ngăn cấm, cho phép hoặc bắt buộc gắn liền với những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định. Tham gia các quan hệ pháp luật cụ thể, chủ thể nhận thức được quyền,
nghĩa vụ pháp lí và trách nhiệm của mình để từ đó lựa chọn cách ứng xử cho
phù hợp. Như vậy, muốn thực hiện pháp luật tốt cần phải hiểu biết pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật khi kém hiểu biết pháp luật, thụ động sẽ rất khó khăn
và trên thực tế, khả năng đảm bảo tính hợp pháp của hành vi thấp, hiệu quả pháp
luật không cao. Mặt khác, tình cảm, thái độ pháp lí của chủ thể cũng rất quan
trọng. Nó là yếu tố tạo ra sự gắn bó đối với pháp luật, công việc và làm tăng
thêm khả năng thực thi quyền, nghĩa vụ của chủ thể.
Như vậy, quá trình thực hiện pháp luật đòi hỏi các chủ thể phải tự mình tạo
lập được tiền đề, nền tảng ý thức pháp luật để chủ động xác lập những hành vi
trong giới hạn được pháp luật quy định.
b. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính cá biệt của
các cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Muốn áp dụng đúng đắn các
quy phạm pháp luật đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần
phải hiểu nội dung của quy phạm, xác định rõ các đặc trưng pháp lí của sự vụ có 106
liên quan để ban hành văn bản áp dụng pháp luật chính xác, hợp pháp. Mọi sai
sót trong quá trình cụ thể hóa quyển, nghĩa vụ hoặc cá biệt hóa chế tài pháp luật
đều có nguy cơ phá vỡ tính đúng đắn của quá trình áp dụng pháp luật. Vì vậy,
chỉ có thể đem lại hiệu quả tốt nhất cho hoạt động áp dụng pháp luật khi ý thức
pháp luật của các cá nhân có thẩm quyền được đảm bảo. Nâng cao trình độ văn
hóa pháp lí, ý thức pháp luật, hình thành bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng... là
những đòi hỏi căn bản đối với những người áp dụng pháp luật trên thực tế.
Câu 68: So sánh pháp luật với phong tục tập quán và phân tích mối quan hệ giữa chúng
a. So sánh pháp luật với phong tục tập quán
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và thừa nhận,
được bảo dảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp hay lực lượng cầm quyền
trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Phong tục tập quán là hệ thống các quy tắc xử sự do những người sống
trong xã hội tự đặt ra được áp dụng vào đời sống và phục vụ cho nhu cầu tự quản của cộng đồng. Giống nhau
Phong tục tập quán và pháp luật đều là những quy tắc xử sự chung của cộng
đồng hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội, và vì chúng đều là
những quy phạm xã hội nên chúng có những đặc điểm giống nhau.
Chúng là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người
xem hành vi đó của chủ thể là đúng hay là sai. Từ đó trở thành những
khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội, để
trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì đều phải xử sự theo những cách đã nêu ra, giúp
chủ thể biết mình phải làm gì trong những hoàn cảnh nhất định. Hơn nữa, phong
tục tập quán và pháp luật đều tham gia điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm
thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội.
Ngoài ra cả pháp luật và phong tục tập quán được đặt ra không phải để cho
một chủ thể cụ thể hay một tổ chức mà là cho nhiều chủ thể tham gia vào quan 107
hệ xã hội mà chúng điều chỉnh. Vì vậy, cả 2 quy phạm này đều có tính xã hội
thể hiện ý chí chung của một cộng đồng dân cư nhất định và có sự thay đổi theo
điều kiện và tình hình phát triển của xã hội. Khác nhau
Thứ nhất là về sự hình thành ra đời và phát triển. Phong tục tập quán ra đời
gần như gắn liền và phát triển với sự ra đời của con người, chúng được coi như
“luật dân gian” hay “luật tự nhiên”. Trong khi đó, pháp luật ra đời gắn liền với
sự ra đời của nhà nước bắt đầu từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, có nghĩa là sự ra đời
của pháp luật cũng gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã hội, nó chỉ có thể
hình thành theo con đường nhà nước. Như vậy, có thể thấy phong tục tập quán
ra đời sớm hơn so với pháp luật.
Thứ hai, sự khác biệt giữa pháp luật và phong tục tập quán còn được thể
hiện ở hình thức. Nếu pháp luật có nhiều hình thức và được thể hiện dưới hình
thức cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Còn
phong tục tập quán không có tính xác định về hình thức bởi vì nó tồn tại dưới
dạng bất thành văn, được lưu truyền bằng miệng. Phong tục tập quán vì lưu
truyền bằng miệng nên thiếu tính chính xác dẫn tới việc áp dụng một cách tuỳ
tiện, không thống nhất. Ngược lại, pháp luật được ban hành dưới dạng các văn
bản nên có tính chính xác cao được sử dụng rộng rãi và có tính thống nhất.
Thứ ba sự khác biệt được thể hiện ở phạm vi tác động. Trong khi pháp luật
có tác động tới mọi tổ chức cá nhân có liên quan trong xã hội thì phong tục tập
quán chỉ tác động trong một cộng dân cư ở một địa phương nhất định. Nói tóm
lại, pháp luật thể hiện tính quy phạm phổ biến trong khi phong tục tập quán chỉ là những quy phạm.
Thứ tư về chủ thể ban hành, phong tục tập quán do một nhóm người, một
cộng đồng dân cư đặt ra, còn pháp luật là do nhà nước đặt ra. Vì vậy pháp luật
luôn thể hiện ý chí nhà nước trong khi phong tục tập quán thường thể hiện ý chí
của một cộng đồng dân cư nhất định. 108
Thứ năm về biện pháp bảo đảm thực hiện: Pháp luật đảm bảo thực hiện
bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước từ tuyên truyền, phổ biến
giáo dục, thuyết phục cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Nó có một bộ máy chuyên nghiệp chuyên thực thi pháp luật: toà án, nhà tù, quân
đội, cảnh sát... Còn phong tục tập quán được bảo đảm thực hiện bằng dư luận xã
hội, bằng sức thuyết phục và bằng các biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Ngoài ra, pháp luật còn có tính hệ thống bởi vì pháp luật là một hệ thống
các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội phát sinh trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống dân cư, kinh tế, lao động… nhưng các quy
phạm đó lại tồn tại một cách thống nhất, giữa chúng có mối quan hệ nội tại để
tạo nên chỉnh thể hệ thống pháp luật. Ngược lại phong tục tập quán không có
tính hệ thống, nó tản mạn và cục bộ, ví dụ phong tục tập quán về ma chay và về
cưới xin là hoàn toàn khác biệt, không liên quan gì tới nhau.
c. Mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán
Tác động của phong tục tập quán với pháp luật
Sự tác động của phong tục tập quán đến các hoạt động pháp lí thực tiễn
biểu hiện ở hai mặt: tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực, phong tục tập quán tác động đến quá trình hình thành các
qui định của pháp luật. Nó được coi là một nguồn luật quan trọng đối với một số
hình thức nhà nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngoài ra, phong tục tập
quán còn góp phần hình thành nhân cách pháp lý của con người trong đời sống
xã hội. Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp đã được nâng lên trở thành pháp luật
phù hợp với ý chí nguyện vọng của nhà nước và của nhân dân. Chính vì thế
những qui định đó sẽ rất gần gũi với đối tượng mà nó điều chỉnh, các chủ thể sẽ dễ
dàng chấp nhận để thực hiện. Ví dụ: vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm đất
nước ta có phong tục tập quán tổ chức lễ “Giỗ tổ Hùng Vương”. Đó là một trong
phong tục tập quán thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, ghi nhớ công
lao của tổ tiên. Năm 2007, “Giỗ tổ Hùng Vương” đã được pháp luật nước ta công 109
nhận trở thành ngày “Quốc giỗ”, tất cả người dân Việt Nam đều được nghỉ ngày 10/3 âm lịch hàng năm.
Tuy nhiên, phong tục tập quán cũng có những tác động tiêu cực. Về vấn đề
thực thi pháp luật, phong tục tập quán có một số nội dung lạc hậu gây cản trở đối
với việc thực hiện pháp luật của nhà nước. Phong tục tập quán tạo tâm lý thói quen
sống theo phong tục tập quán coi thường pháp luật ảnh hưởng đến quá trình thực
thi pháp luật, tăng cường pháp chế. Những qui định chưa phù hợp với pháp luật
hiện hành nhưng nó đã tồn tại lâu đời và ảnh hưởng nặng nề trong đời sống xã hội
nên thường xảy ra tâm lí cục bộ địa phương “phép vua thua lệ làng”. Ngoài ra, việc
thực hiện áp dụng phong tục tập quán trong xã hội còn mang tính nửa vời, không rõ
ràng. Đó có thể là những phong tục tập quán hạn chế và gây ảnh hưởng đến việc sử
dụng pháp luật như: tảo hôn, cúng ma, mê tín dị đoan, trọng nam khinh nữ.
Tác động của pháp luật với phong tục tập quán
Do được nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nên pháp luật mang tính
quyền lực nhà nước và tác động mạnh đến phong tục tập quán. Còn phong tục
tập quán lại có một đời sống thực tế đa dạng, phong phú về cả con đường hình
thành và phương thức tồn tại. Có những phong tục tập quán phù hợp với pháp
luật, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc nhưng cũng có những phong tục tập
quán trở thành hủ tục, trái pháp luật. Chính vì vậy nhà nước ghi nhận, củng cố
và bảo vệ phong tục tập quán tốt đẹp dưới nhiều hình thức và biện pháp khác
nhau là hết sức cần thiết. Ở một khía cạnh nào đó nhà nước thừa nhận các phong
tục tập quán và nâng lên thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung là
quy phạm pháp luật. Điểu này giúp cho phong tục tập quán được tôn trọng, bảo
vệ và phát huy tác dụng trong cuộc sống, góp phần bảo tồn phát huy những
phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp khi chúng phù hợp với ý chí nhà nước
và được thừa nhận trong pháp luật. Ví dụ như Điều 5 Hiến pháp Việt Nam năm
2013 quy định “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền thống văn hoá tốt
đẹp của mình”. Hay Điều 3 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp 110
pháp luật không quy định và các bên không thoả thuận thì có thể áp dụng tập
quán pháp, nếu không có tập quán pháp thì áp dụng quy định tương tự của pháp
luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không trái với những nguyên
tắc quy định trong bộ luật này”.
Cùng với việc ghi nhận, củng cố, bảo vệ và giữ gìn phong tục tập quán tốt
đẹp, pháp luật giữ vai trò quan trọng trong việc hạn chế loại, trừ những phong
tục tập quán lạc hậu, những tập tục mang tính hủ tục không phù hợp với đời
sống cộng đồng và pháp luật. Bằng những quy định cụ thể, pháp luật không cho
phép hay liệt kê những phong tục tập quán bị cấm. Pháp luật tuyên truyền ,vận
động các chủ thể trong xã hội không thực hiện các phong tục tập quán được coi là hủ tục, lạc hậu.
Mối quan hệ giữa pháp luật với phong tục tập quán trong điều chỉnh các quan hệ xã hội
Ngoài sự tác động qua lại giữa pháp luật và phong tục tập quán ra, thì còn
một quan hệ giữa pháp luật với phong tục tập quán trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội được thể hiện ở ba phương diện.
Thứ nhất, phong tục tập quán có khả năng thay thế sự điều chỉnh của pháp
luật trong những phạm vi nhất định và ở một số lĩnh vực quan hệ xã hội nhất
định. Bởi vì trong điều kiện mà trình độ phát triển của các cộng đồng tộc người
còn đang rất khác biệt nhau thì các quy phạm pháp luật ở trình độ khái quát cao
khó xâm nhập vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống cộng đồng.Ví dụ như các
quy định về chế độ sở hữu về sử dụng tài nguyên cũng rất khó đưa vào áp dụng
với một số tộc người du canh du cư. Vì vậy, phong tục tập quán ở các trường
hợp này có ý nghĩa quan trọng để thay thế pháp luật.
Thứ hai, phong tục tập quán có vai trò bổ sung cho pháp luật trong những
điều kiện nhất định. Vì trong thực tiễn luôn tồn tại những vấn đề cụ thể mà pháp
luật hoặc chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ. Trong những trường hợp
đó, các quy phạm xã hội khác có tác dụng bổ sung cho pháp luật để điều chỉnh các hành vi xã hội. 111
Ngoài ra, phong tục tập quán có tác dụng hỗ trợ cho việc thực hiện pháp
luật trong nhiều lĩnh vực thể hiện rõ nhất trong việc thực hiện áp dụng các quy
định của pháp luật, cho việc chi tiết hoá, cụ thể hoá pháp luật.
Câu 69: Nêu căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm pháp luật
Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với tổ chức, cá nhân là vi phạm
pháp luật. Để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần:
- Phải xác định được có vi phạm pháp luật xảy ra trong thực tế (dựa vào
những quy định pháp luật nào cho phép xác định hành vi đó là vi phạm pháp
luật). Xác định thời hiệu để truy cứu trách nhiệm pháp lí. Đối với các loại vi
phạm pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí được quy
định khác nhau. Pháp luật của nhiều nước không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm pháp lí đối với một số loại vi phạm pháp luật quá nguy hiểm gây
thiệt hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt Nam quy định không áp
dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh
quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
Pháp luật cũng có thể quy định miễn trách nhiệm pháp lí cho một số chủ thể
trong những trường hợp nhất định, do vậy, khi tiến,hành truy cứu trách nhiệm
pháp lí còn phải xem xét cả những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lí (nếu có).
Xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc đó, các biện pháp
mà pháp luật quy định có thể áp dụng đối với chủ thể vi phạm (cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào có thẩm quyền xem xét giải quyết vụ việc đó, những trình tự, thủ
tục mà họ buộc phải thực hiện và những biện pháp gì mà họ có thể áp dụng khi
tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với trường hợp đó).
- Xác định các yếu tố của cấu thành vi phạm pháp luật (mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể, khách thể vi phạm pháp luật). 112
+ Về mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Điều đầu tiên phải xác định là
trong thực tế đã xảy ra hành vi trái pháp luật, nếu không xác định được hành vi
trái pháp luật trong thực tế thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thông qua việc xác
định hậu quả (sự thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác...) do
hành vi đó gây ra cho xã hội. Hành vi trái pháp luật nhưng gây nguy hiểm cho
xã hội không nhiều (thiệt hại mà nó gây ra là không đáng kể hoặc nguy cơ gây
hại cho xã hội thấp) thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm pháp lí. Trong một
số trường hợp, mức độ nguy hiểm của hành vi còn là căn cứ để xác định loại
trách nhiệm pháp lí cần truy cứu. Chẳng hạn, căn cứ vào mức độ thương tích của
người bị hại mà quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính.
Xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả
(sự thiệt hại của xã hội), tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả, nghĩa là,
phải xác định một cách chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành
vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra. Không thể bắt chủ thể phải chịu trách nhiệm
về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa
hành vi trái pháp luật của họ và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả).
Để cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật có hiệu quả, khi truy cứu
trách nhiệm pháp lí trong một số trường hợp cần phải xác định cả thời gian, địa
điểm, phương tiện và cách thức... mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Khi xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn biện pháp cưỡng
chế mới chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lí và
đạt được hiệu quả cao trong việc cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Về mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Việc xác định lỗi, động cơ và
mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lí là rất
cần thiết, nó cho phép lựa chọn được biện pháp cưỡng chế thích hợp. 113
Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lí chỉ áp dụng đối với các chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lí khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi, tức là chủ
thể hành vi đó có khả năng nhận thức được những hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do hành vi của mình gây ra nhưng cố ý hoặc vô ý gây ra. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp pháp luật còn cho phép truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với cả
những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những nguyên nhân khách quan
hoặc trường hợp thiệt hại do những nguồn nguy hiểm cao độ như phương tiện
giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt
động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ... gây ra và một
số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc dù không có lỗi chủ thể vẫn phải
chịu trách nhiệm pháp lí. Chẳng hạn, cha mẹ hay người giám hộ phải bồi thường
thiệt hại do con mình (dưới mười lăm tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi dân
sự gây ra. Trong những trường hợp trên chỉ áp dụng những biện pháp tác động
mang tính chất khôi phục thiệt hại, không áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự.
+ Về chủ thể vi phạm pháp luật: Khi xác định chủ thể vi phạm pháp luật
cần chú ý tới năng lực trách nhiệm pháp lí của chủ thể trong mỗi trường hợp cụ
thể. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải xác định xem người đó đã đạt được độ tuổi
theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lí trong trường hợp đó
hay chưa và trạng thái tâm lí (thần kinh) của họ như thế nào ở thời điểm họ thực
hiện hành vi trái pháp luật đó. Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý đến tư cách
pháp nhân hoặc địa vị pháp lí của tổ chức đó.
+ Về khách thể vi phạm pháp luật: Khi xác định khách thể vi phạm pháp
luật cần chú ý tới tính chất và tầm quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ
nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật
Cần chú ý là tùy theo từng loại trách nhiệm pháp lí hoặc từng trường hợp
truy cứu trách nhiệm pháp lí cụ thể mà cần phải xác định đầy đủ hoặc có thể bỏ
qua không cần xác định về những yếu tố nào đó của cấu thành vi phạm pháp luật. 114
Trách nhiệm pháp lí sẽ chấm dứt khi xảy ra sự kiện pháp lí thích ứng như
có quyết định ân xá, thời hạn trừng phạt đã kết thúc, nộp phạt xong...
Truy cứu trách nhiệm pháp lí là quá trình hoạt động phức tạp và rất khó
khăn của các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền trong việc
xem xét, tìm hiểu sự việc bị coi là vi phạm pháp luật, ra quyết định giải quyết vụ
việc và tổ chức thực hiện quyết định đó.
Câu 70: Tiền lệ pháp là gì? Vì sao tồn tại tiền lệ pháp?
Tiền lệ pháp là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng các phán quyết của
các chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa
nhận làm khuôn mẫu cho việc giải quyết các vụ việc tương tự về sau.
Sự phát triển nhanh chóng của đời sống kinh tế xã hội luôn đòi hỏi sự
điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, không phải bao giờ nhà nước cũng kịp ban hành
các quy phạm mới để đáp ứng nhu cầu đó nên tiền lệ pháp đã hình thành. Do
được hình thành nhanh, thủ tục gọn lại có tính xác định cụ thể nên hiện nay tiền
lệ pháp được khá nhiều quốc gia sử dụng, đặc biệt là ở các nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law.
Ở Việt Nam, tiền lệ pháp không được coi là hình thức pháp luật thông
dụng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang chuyển sang cơ chế
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi mới tư duy pháp
lý, trong đó đổi mới nhận thức về hình thức pháp luật là một trong những yêu
cầu có tính cấp thiết, cần được quan tâm đúng mức Tiền lệ pháp.
Thứ nhất, do xuất phát từ đặc điểm“phải được tạo ra từ một tranh chấp
cụ thể”, tiền lệ pháp mang tính thực tiễn rất cao. Các văn bản pháp luật đơn
thuần chỉ là sản phẩm của tư duy trừu tượng nên đôi khi các quy phạm pháp luật
không dự liệu hết những hoàn cảnh của thực tiễn. Từ đó, dẫn đến việc tạo ra
những lỗ hổng pháp luật mà tiền lệ pháp vốn được tạo ra từ thực tiễn mới có khả
năng lấp các lỗ hổng này. 115
Thứ hai, tiền lệ pháp mang tính linh hoạt, uyển chuyển để phù hợp với
những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Trong khi các văn bản pháp luật thường
mang tính ổn định dẫn đến cứng nhắc.
Thứ ba, tiền lệ pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các thẩm phán trong quá
trình xét xử cũng như trong việc áp dụng pháp luật. Áp dụng tiền lệ pháp luôn gắn
liền với việc công khai bản án, tạo điều kiện cho người dân giám sát các cơ quan tư pháp.
Thứ tư, tiền lệ pháp có thể giúp các đối tượng liên quan trong vụ án tiên
liệu được kết quả của một tranh chấp vì họ biết các quyết định này không phải là
quyết định tùy tiện của Thẩm phán mà dựa vào các quyết định trước đây. Vì
vậy, trong một chừng mực nào đó thì tiền lệ pháp sẽ tạo ra sự minh bạch, có thể
dự liệu trước giải pháp, khắc phục được tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật.
Câu 71: Phân tích cơ sở của trách nhiệm pháp lý
Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với tổ chức, cá nhân là vi phạm pháp luật.
Để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần:
- Phải xác định được có vi phạm pháp luật xảy ra trong thực tế (dựa vào
những quy định pháp luật nào cho phép xác định hành vi đó là vi phạm pháp
luật). Xác định thời hiệu để truy cứu trách nhiệm pháp lí. Đối với các loại vi
phạm pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí được quy
định khác nhau. Pháp luật của nhiều nước không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm pháp lí đối với một số loại vi phạm pháp luật quá nguy hiểm gây
thiệt hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt Nam quy định không áp
dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh
quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
Pháp luật cũng có thể quy định miễn trách nhiệm pháp lí cho một số chủ
thể trong những trường hợp nhất định, do vậy, khi tiến hành truy cứu trách nhiệm 116
pháp lí còn phải xem xét cả những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lí (nếu có).
Xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc đó, các biện
pháp mà pháp luật quy định có thể áp dụng đối với chủ thể vi phạm (cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào có thẩm quyền xem xét giải quyết vụ việc đó, những trình tự,
thủ tục mà họ buộc phải thực hiện và những biện pháp gì mà họ có thể áp dụng
khi tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với trường hợp đó).
- Xác định các yếu tố của cấu thành vi phạm pháp luật (mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể, khách thể vi phạm pháp luật).
+ Về mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Điều đầu tiên phải xác định
là trong thực tế đã xảy ra hành vi trái pháp luật, nếu không xác định được hành
vi trái pháp luật trong thực tế thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thông qua việc
xác định hậu quả (sự thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác...)
do hành vi đó gây ra cho xã hội. Hành vi trái pháp luật nhưng gây nguy hiểm
cho xã hội không nhiều (thiệt hại mà nó gây ra là không đáng kể hoặc nguy cơ
gây hại cho xã hội thấp) thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm pháp lí. Trong
một số trường hợp, mức độ nguy hiểm của hành vi còn là căn cứ để xác định
loại trách nhiệm pháp lí cần truy cứu. Chẳng hạn, căn cứ vào mức độ thương
tích của người bị hại mà quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính.
Xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu
quả (sự thiệt hại của xã hội), tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả, nghĩa là,
phải xác định một cách chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành
vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra. Không thể bắt chủ thể phải chịu trách nhiệm
về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa
hành vi trái pháp luật của họ và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả). 117
Để cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật có hiệu quả, khi truy cứu
trách nhiệm pháp lí trong một số trường hợp cần phải xác định cả thời gian, địa
điểm, phương tiện và cách thức... mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Khi xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn biện pháp cưỡng
chế mới chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lí và
đạt được hiệu quả cao trong việc cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Về mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Việc xác định lỗi, động cơ và
mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lí là rất
cần thiết, nó cho phép lựa chọn được biện pháp cưỡng chế thích hợp.
Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lí chỉ áp dụng đối với các chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi, tức là
chủ thể hành vi đó có khả năng nhận thức được những hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng cố ý hoặc vô ý gây ra. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp pháp luật còn cho phép truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với
cả những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những nguyên nhân khách
quan hoặc trường hợp thiệt hại do những nguồn nguy hiểm cao độ như phương
tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang
hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ... gây ra
và một số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc dù không có lỗi chủ thể
vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lí. Chẳng hạn, cha mẹ hay người giám hộ phải
bồi thường thiệt hại do con mình (dưới mười lăm tuổi) hoặc người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra. Trong những trường hợp trên chỉ áp dụng những biện
pháp tác động mang tính chất khôi phục thiệt hại, không áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự.
+ Về chủ thể vi phạm pháp luật: Khi xác định chủ thể vi phạm pháp luật
cần chú ý tới năng lực trách nhiệm pháp lí của chủ thể trong mỗi trường hợp cụ
thể. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải xác định xem người đó đã đạt được độ tuổi
theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lí trong trường hợp đó
hay chưa và trạng thái tâm lí (thần kinh) của họ như thế nào ở thời điểm họ thực 118
hiện hành vi trái pháp luật đó. Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý đến tư cách
pháp nhân hoặc địa vị pháp lí của tổ chức đó.
+ Về khách thể vi phạm pháp luật: Khi xác định khách thể vi phạm pháp
luật cần chú ý tới tính chất và tầm quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ
nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
Cần chú ý là tùy theo từng loại trách nhiệm pháp lí hoặc từng trường hợp
truy cứu trách nhiệm pháp lí cụ thể mà cần phải xác định đầy đủ hoặc có thể bỏ
qua không cần xác định về những yếu tố nào đó của cấu thành vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lí sẽ chấm dứt khi xảy ra sự kiện pháp lí thích ứng
như có quyết định ân xá, thời hạn trừng phạt đã kết thúc, nộp phạt xong...
Truy cứu trách nhiệm pháp lí là quá trình hoạt động phức tạp và rất khó
khăn của các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền trong việc
xem xét, tìm hiểu sự việc bị coi là vi phạm pháp luật, ra quyết định giải quyết vụ
việc và tổ chức thực hiện quyết định đó.
Câu 72: Trình bày căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật phát sinh thay đổi, chấm dứt dưới tác động của 3 điều
kiện: Quy phạm pháp luật, năng lực chủ thể và sự kiện pháp lí Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do nhà nước ban hành để tác động
tới quan hệ xã hội và biến nó thành quan hệ pháp luật. Nội dung của quy phạm
bao giờ cũng xác định rõ phạm vi tác động của quy phạm pháp luật. Phạm vi tác
động của quy phạm pháp luật thể hiện ở hai khía cạnh:
Một là xác định điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế cuộc
sống hay quan hệ xã hội nào được đề cập trong quy phạm.
Hai là xác định cá nhân, tổ chức cụ thể nào phải tuân theo cách thức xử
sự của quy phạm pháp luật. Cá nhân tổ chức mà quy phạm đề cập phải có những 119
điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Nghĩa là họ phải có năng lực chủ thể.
Phạm vi tác động của các quy phạm khác nhau. Mỗi quy phạm có sự xác
định khác nhau về điều kiện, hoàn cảnh sẽ xảy ra trong thực tế cũng như loại
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Nếu không có sự tác động của quy phạm pháp luật thì quan hệ xã hội
không thể trở thành quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, nếu chỉ có quy phạm pháp
luật xác định quan hệ nào là quan hệ pháp luật thì cũng chưa thể có quan hệ
pháp luật cụ thể xảy ra trên thực tế. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hôn nhân và
gia đình vẫn tồn tại nhưng quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng không thể nảy
sinh hay chấm dứt nếu thiếu yêu cầu của các cá nhân và quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, quy phạm pháp luật mới chỉ là điều kiện tiền
đề để xác định quan hệ pháp luật.
- Năng lực chủ thể: Là khả năng pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân
tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể quan hệ đó.
Năng lực chủ thể bao gồm: Năng lực pháp luật và năng lực hành vi
- Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể có được quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà nhà nước quy định.
- Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được Nhà nước thừa nhận
bằng hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập
chịu trách nhiệm về những hành vi của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các chủ thể không phải là
một thuộc tính tự nhiên của con người mà đó là thuộc tính pháp lý vì nó chỉ phụ
thuộc vào ý chí của Nhà nước. Năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực hành
vi, nếu chủ thể chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi thì không
thể tham gia một cách tích cực vào các quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp lí 120
Sự kiện pháp lí là sự kiện thực tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng
được pháp luật gắn với việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Ví dụ: Quyết định cho đăng kí kết hôn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trên cơ sở nguyện vọng của đôi nam nữ và quy định của pháp luật đã làm
phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng của họ.
Sự kiện pháp lí là những sự kiện trong số các sự kiện xảy ra trong thực
tế, là bộ phận của chúng. Sự kiện pháp lí là sự kiện thực tế được quy định trong
pháp luật. Việc thừa nhận hay không thừa nhận sự kiện thực tế nào đó là sự kiện
pháp lí đều xuất phát từ lợi ích của xã hội và của giai cấp nắm chính quyền trong xã hội.
Sự kiện pháp lí có thể là sự xuất hiện hay không xuất hiện của sự kiện
thực tế. Tức là quan hệ pháp luật có thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt khi
xuất hiện sự kiện thực tế hoặc khi không xảy ra sự kiện thực tế nào đó theo quy định của pháp luật.
Dựa vào tiêu chuẩn ý chí, sự kiện pháp lí được chia thành sự biến và hành vi.
- Sự biến: Là những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên hoặc trong xã hội
nằm ngoài ý chí của con người. Ví dụ: Cái chết của con người do bệnh làm
chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân, cha con... Sự biến có hai loại là sự biến
tuyệt đối và sự biến tương đối.
+ Sự biến tuyệt đối: Là sự kiện xảy ra hoàn toàn không có sự tác động
của con người. Ví dụ: Hiện tượng động đất, bão lụt gây thiệt hại tính mạng, sức
khỏe, tài sản... của con người.
+ Sự biến tương đối: Là sự kiện xảy ra mà sự phát sinh của nó do tác
động của con người nhưng sự tiến triển và chấm dứt của nó thì con người không
kiềm chế được. Ví dụ: Cái chết của con người do bị tiêm nhầm thuốc.
- Hành vi: Là những sự kiện xảy ra theo ý chí của con người, biểu hiện
dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ví dụ: Hành vi giao kết hợp đồng
kinh tế, hành vi bỏ mặc không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy 121
hiểm đến tính mạng... Hành vi gồm hai loại là hành vi hợp pháp và hành vi bất
hợp pháp. Chúng ta sẽ đề cập kĩ hơn trong phần nghiên cứu về hành vi pháp luật.
Dựa vào số lượng sự kiện thực tế tạo thành sự kiện pháp lí, sự kiện pháp lí có
hai loại là sự kiện pháp lí đơn nhất và sự kiện pháp lí phức hợp.
- Sự kiện pháp lí đơn nhất: Là sự kiện chỉ bao gồm một sự kiện thực tế
mà pháp luật gắn sự xuất hiện của nó với việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
- Sự kiện pháp lí phức hợp: Là sự kiện bao gồm nhiều sự kiện thực tế mà
nếu thiếu đi một trong các sự kiện cấu thành tập hợp đó thi quan hệ pháp luật
không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt.
Câu 73: Trình bày phương thức thể hiện quy phạm pháp luật
Một trong những đặc trưng cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật là
chứa đựng các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, xét từ khía cạnh kĩ thuật lập
pháp, các nhà làm luật khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thường
trình bày các quy phạm pháp luật trong các điều luật của văn bản. Việc trình bày
các quy phạm pháp luật trong các điều khoản của văn bản quy phạm pháp luật
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật cũng như thực
hiện và áp dụng pháp luật. Cách trình bày các văn bản quy phạm pháp luật trong
các điều luật rất phong phú, đa dạng. Sự đa dạng đó xuất phát từ những đòi hỏi
về ngôn ngữ, sự phân định cơ cấu ngành luật của khoa học pháp lí cũng như việc
xác định phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời,
cách trình bày các quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật
còn phụ thuộc vào cấu trúc của văn bản quy phạm pháp luật do nhà làm luật xây
dựng. Vì vậy, không nên đồng nhất giữa điều luật với quy phạm pháp luật.
Xuất phát từ khía cạnh ngôn ngữ, để đảm bảo cho các quy phạm pháp
luật đơn giản, dễ hiểu và dễ áp dụng, nhà làm luật có thể không trình bày quy
phạm pháp luật theo trật tự là giả định - quy định - chế tài. Nói cách khác, trật tự
giữa các bộ phận của quy phạm pháp luật khi được trình bày trong các văn bản 122
quy phạm pháp luật rất mềm dẻo và linh hoạt. Nhiều trường hợp, phần quy định
và phần chế tài lại được trình bày trước phần giả định hoặc có sự đan xen giữa
các bộ phận trong điều luật. Chẳng hạn, trong khoản 2 Điều 487 Bộ luật dân sự:
"Bên thuê có thể tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê nếu được bên cho thuê
đồng ý và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lí", bộ phận
quy định được trình bày trước bộ phận giả định.
Sự phân chia các ngành luật trong hệ thống pháp luật cũng là một trong
những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đối với việc trình bày các quy phạm pháp
luật trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tế, khi xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật, nhà làm luật thường không xây dựng bộ phận chế tài
của quy phạm pháp luật ngay trong cùng điều luật có chứa đựng phần quy định.
Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật thường được xây dựng trong chương
riêng của văn bản quy phạm pháp luật đó (thường là chương có tên gọi: Khen
thưởng và kỉ luật) hoặc được đưa vào một văn bản riêng biệt, chẳng hạn như Bộ
luật hình sự hoặc các văn bản quy định về các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực. Vì vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành, các điều khoản của các văn bản này thường chi chứa đựng giả định và quy
định hoặc giả định và chế tài. Rất ít trường hợp điều luật chứa đựng đầy đủ cả
giả định, quy định và chế tài của quy phạm pháp luật.
Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật phong phú và đa dạng, cơ
cấu của văn bản quy phạm pháp luật thường được phân chia thành các chương,
các mục và các điều khác nhau. Trong điều luật có thể chứa đựng nhiều quy
phạm pháp luật nhưng cũng có thể các bộ phận của quy phạm pháp luật lại được
trình bày trong các điều luật khác nhau của cùng văn bản. Thậm chí, cùng quy
định nhưng lại được trình bày gắn với nhiều giả định khác nhau, ví dụ như cách
trình bày quy phạm pháp luật trong khoản 1 Điều 498 Bộ luật dân sự: "Bên cho
thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên
thuê cỏ một trong các hành vi sau đây: 123
a) Không trả tiền thuê nhà liên tiếp trong ba tháng trở lên mà không có lí do chính đáng;
b) Sử dụng nhà không đúng mục đích thuê;
c) Cố ý làm nhà hư hỏng nghiêm trọng;
d) Sửa chữa, đổi hoặc cho người khác thuê lại toàn bộ hoặc một phần
nhà đang thuê mà không có sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê;
đ) Làm mất trật tự công cộng nhiều lần và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sinh hoạt bình thường của những người xung quanh;
e) Làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường".
Tương tự cách trình bày như vậy, cũng có trường hợp nhiều giả định
nhưng có một chế tài, chẳng hạn trong khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự:
"Người nào có một trong các hành vi sau đây thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc khiếu nại, tổ cáo, việc xét và
giải quyết các khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lí người bị khiếu nại, tổ cáo;
b) Có trách nhiệm mà cố ý không chấp hành quyết định của cơ quan có
thẩm quyền xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo".
Như vậy, cách trình bày các quy phạm pháp luật trong các văn bản quy
phạm pháp luật rất đa dạng, phong phú để đảm bảo cho các quy phạm pháp luật
dễ hiểu, dễ áp dụng đồng thời đảm bảo được tính khoa học, logic của các quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật cũng như tính hệ thống và thống nhất
của các văn bản quy phạm pháp luật.
Câu 74: Phân tích cấu trúc ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là hiện tượng phức tạp trong đời sống pháp lí và trong
nhận thức luận. Mặc dù vậy, trong nghiên cứu các ngành khoa học như: Triết
học, lí luận về pháp luật nói chung đã có quan niệm thống nhất về cơ cấu của ý thức pháp luật. 124
Xem xét cấu trúc của ý thức pháp luật tức là xem xét các bộ phận hợp
thành ý thức pháp luật. Căn cứ vào nội dung và tính chất, cấu trúc của ý thức
pháp luật cần phải được nhìn nhận dưới góc độ cụ thể và góc độ chung.
Ở góc độ cụ thể (tức là gắn với từng cá nhân con người), ý thức pháp
luật thể hiện ở hai mặt của phương diện chủ quan là sự hiểu biết pháp luật và
thái độ, tình cảm đối với pháp luật của chính con người đó.
Ở góc độ chung, ý thức pháp luật với tính cách là hiện tượng xã hội có
hai bộ phận lớn hợp thành là: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật.
a. Hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, học thuyết,
trường phái lí luận về pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật là bộ phận ở cấp độ lí
luận có tính khái quát, tính hệ thống cao được hình thành một cách tự giác. Hệ
tư tưởng pháp luật soi sáng cho tâm lí pháp luật, định hướng các hành vi pháp
luật đối với các chủ thể pháp luật. Hệ tư tưởng pháp lí phản ánh sâu sắc những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, đó là sự nhận thức lí luận về tồn tại xã
hội. Về mặt nội dung, hệ tư tưởng pháp lí có thể có những nhân tố mang tính
khoa học hoặc cũng có thể là phản khoa học. Hệ tư tưởng pháp lí khoa học phản
ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội và quy luật phát triển khách
quan của xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng pháp lí phản khoa học cũng phản ánh
các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng đó là sự phản ánh sai lầm, xuyên tạc
và thiếu tính khách quan. Giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật có mối
liên hệ, tác động lẫn nhau vì chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, cùng
phản ánh tồn tại xã hội.
Hệ tư tưởng pháp luật không đơn thuần là sản phẩm của giai cấp cầm
quyền sáng tạo nên mà nó còn hàm chứa các giá trị khoa học được đúc kết, kế
thừa từ thực tế của nền văn minh pháp lí nhân loại.
b. Tâm lí pháp luật
Tâm lí pháp luật được hình thành trên cơ sở nhận thức, biểu hiện tâm
trạng, xúc cảm, thái độ của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp 125
lí khác. Tâm lí pháp luật là yếu tố chủ quan nên quá trình nhận thức, tư duy diễn
ra chịu sự chi phối của các đặc điểm về nhân thân của chính con người đó. Tâm
lí pháp luật có tính bền vững là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của hệ tư
tưởng pháp luật. Cũng như hệ tư tưởng pháp luật, tâm lí pháp luật có thể mang
tính tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên, do tâm lí là yếu tố chủ quan nên việc
nhận diện những đặc tính của nó đòi hỏi phải có quá trình lâu dài và cần phải
thông qua các hành vi pháp luật thực tiễn. Mặt khác, tâm lí pháp luật mặc dù có
tính ổn định tương đối nhưng nó cũng có thể biến đổi khi môi trường kinh tế,
chính trị và pháp lí có những thay đổi không phù hợp với xu thế của sự vận động
mà nó đã có tính ổn định tương đối. Vì vậy, coi trọng yếu tố tâm lí pháp luật đòi
hỏi phải quan tâm nhân tố con người trong các hoạt động thực tiễn và điều kiện
tồn tại xã hội ở mỗi giai đoạn.
Câu 75: So sánh áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật.
Khi xây dựng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn cố
gắng tới mức cao nhất dự liệu trước những tình huống có thể xảy ra trong thực tế
đời sống xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật để đặt ra quy phạm
pháp luật điều chỉnh đối với những trường hợp đó. Tuy nhiên, do đời sống xã
hội hết sức đa dạng, phức tạp, có nhiều các lĩnh vực quan hệ khác nhau và lại
thay đổi không ngừng nên có không ít những trường hợp quan hệ xã hội xảy ra
trong thực tế liên quan tới lợi ích của các cá nhân, tổ chức cần phải được giải
quyết bằng pháp luật nhưng lại không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều
chỉnh, do vậy không có căn cứ pháp lí để áp dụng. Khắc phục những vấn đề này
nếu bằng việc ban hành các quy phạm pháp luật mới đòi hỏi phải có thời gian.
Mặt khác, rất nhiều sự kiện, hiện tượng như thế chỉ xảy ra đột xuất, nhất thời
nên cũng chưa hẳn đã cần đến các quy phạm pháp luật mới. Trong khi đó nhu
cầu của đời sống xã hội đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải giải quyết các vấn đề
đó ngay để đảm bảo lợi ích của người dân, của các tổ chức, của nhà nước. Giải
pháp cho những tình huống trên là áp dụng pháp luật tương tự. 126
Áp dụng pháp luật tương tự có hai loại: Tương tự quy phạm pháp luật và tương tự pháp luật.
Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là giải quyết vụ việc thực tế cụ
thể nào đó chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trên cơ sở quy phạm pháp
luật điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy (hai sự việc có
nội dung gần giống hay tương tự nhau).
Áp dụng tương tự pháp luật là giải quyết vụ việc thực tế, cụ thể nào đó
chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trên cơ sở những nguyên tắc chung và ý
thức pháp luật (dựa vào sự công bằng và lễ phải mà giải quyết).
Các điều kiện chung để áp dụng pháp luật tương tự bao gồm:
- Vụ việc được xem xét phải có liên quan và có ảnh hưởng lớn tới quyền,
lợi ích của nhà nước, của xã hội hoặc của các cá nhân đòi hỏi nhà nước (các chủ
thể có thẩm quyền) phải xem xét giải quyết. Nếu vụ việc không có gì quan trọng
thì các chủ thể có thẩm quyền có thể từ chối không giải quyết nó.
- Phải chứng minh một cách chắc chắn rằng vụ việc cần xem xét, giải
quyết đó đã không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh.
Ngoài những điều kiện chung đối với mỗi loại áp dụng tương tự pháp
luật còn cần phải có những điều kiện riêng. Cụ thể là:
- Để áp dụng tương tự quy phạm pháp luật còn cần phải lựa chọn được
quy phạm pháp luật tương tự để áp dụng. Khi lựa chọn phải chỉ ra được quy
phạm pháp luật đã lựa chọn đang điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần
giống như trường hợp đang cần giải quyết (phải chỉ ra được những điểm cơ bản
về nội dung gần giống hay tương tự nhau giữa hai vụ việc).
- Đối với áp dụng tương tự pháp luật còn cần phải xác định: Thứ nhất,
không thể giải quyết vụ việc đó theo nguyên tắc tương tự quy phạm pháp luật
được (do không có quy phạm pháp luật tương tự). Nếu có thể giải quyết bằng
nguyên tắc áp dụng tương tự quy phạm pháp luật được thì không được áp dụng
tương tự pháp luật; thứ hai, phải chỉ ra được nguyên tắc pháp luật hay quan 127
điểm, tư tưởng pháp lí nào được áp dụng để giải quyết vụ việc cụ thể đó và phải
lí giải tại sao lại lựa chọn chúng.
Để đảm bảo tính đúng đắn của áp dụng pháp luật tương tự cần phân tích
thật kĩ nội dung cũng như tinh thần của pháp luật. Sự phân tích này cho phép lựa
chọn được quy phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp gần giống với vụ việc được
xem xét (nếu là áp dụng tương tự quy phạm pháp luật) hoặc tìm ra những nguyên
tắc, những quan điểm, tư tưởng pháp lí nhất định, từ đó giải quyết vụ việc (nếu là
áp dụng tương tự pháp luật). Ý thức pháp luật, kiến thức pháp lí của chủ thể có
thẩm quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò to lớn trong áp dụng tương tự pháp luật.
Việc áp dụng pháp luật tương tự phải hết sức hạn chế, chỉ khi nào thấy
thật sự cần thiết mới nên áp dụng. Riêng trong luật hình sự và luật hành chính
thì chỉ áp dụng tương tự khi trong pháp luật có quy định về việc áp dụng tương tự.
Việc áp dụng pháp luật tương tự phải xuất phát từ lợi ích của xã hội, của
nhà nước và của công dân đồng thời phải bảo đảm những yêu cầu của pháp chế.
Không được áp dụng tùy tiện nguyên tắc tương tự, đối với mỗi trường hợp cần
báo cáo kịp thời với những cơ quan có trách nhiệm để có những biện pháp kiểm
tra, giám sát cần thiết hoặc để kịp thời đặt ra những quy phạm pháp luật bổ sung.
Câu 76: Nêu mối quan hệ giữa đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước?
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước ban hành theo trình tự, thủ tục nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được
đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước.
Pháp luật mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, mọi cơ quan, tổ
chức nhằm mục đích ngăn ngừa, răn đe, trừng phạt những hành vi sai trái, giáo
dục, cảm hóa những người có hành vi vi phạm pháp luật, bồi dưỡng cho mọi
người tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, bảo đảm cho
xã hội phát triển lành mạnh, bền vững. 128
Chính sách là những cách thức tác động của Nhà nước vào các lĩnh vực
của đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng. Chính sách có vai trò định
hướng cho các hoạt động kinh tế, xã hội; khuyến khích các hoạt động kinh tế, xã
hội theo định hướng; phát huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn
chế những tiêu cực của nó; tạo sự cân đối trong phát triển; kiểm soát và phân
phối nguồn lực cho quá trình phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho các
hoạt động kinh tế, xã hội.
Với những đặc thù riêng, chính sách và pháp luật tác động đến đời sống
xã hội theo các mức độ khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ gắn kết, phối
hợp, hỗ trợ cho nhau cùng phát huy tác dụng với các hoạt động kinh tế, xã hội.
Vai trò của chính sách đối với pháp luật
- Chính sách luôn đi trước pháp luật, mang tính định hướng và là nền tảng
để xây dựng pháp luật. Chính sách phản ánh một cách trung thực, khách quan
điều kiện kinh tế, xã hội tại thời điểm cụ thể và dự báo xu hướng, khả năng phát
triển tương lai. Nếu chính sách làm không tốt vai trò này thì việc thể chế hóa các
chính sách thành các quy phạm pháp luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật sẽ
không có tính khả thi hoặc kìm hãm sự phát triển của mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội.
- Chính sách có tính ổn định tương đối để pháp luật có điều kiện đi vào
thực tế cuộc sống vì pháp luật luôn hướng tới mục tiêu chung thống nhất nên
trong mỗi giai đoạn nhất định pháp luật có tính đồng bộ và ổn định. Điều này có
nghĩa khi một chính sách có quá nhiều thay đổi hoặc không có những lộ trình cụ
thể sẽ gây khó khăn, phức tạp cho việc xây dựng và thực thi pháp luật.
- Chính sách là một trong các nguồn tạo ra những thể chế pháp luật mới.
Hay nói cách khác, do chính sách là công cụ thể hiện thái độ chính trị của Đảng
lãnh đạo để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra theo định hướng, nên pháp luật
được ban hành cùng các quy định cho mỗi loại quan hệ.
Vai trò của pháp luật đối với chính sách 129
- Pháp luật là căn cứ xây dựng chính sách, là công cụ để cụ thể hóa và
thực thi chính sách. Chính sách có tính linh hoạt và thích nghi với thực tế xã hội
cao hơn pháp luật nhưng không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu thiếu pháp
luật bởi hệ thống pháp luật tạo nên khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội.
- Pháp luật phản ánh các chính sách ở điểm cân bằng. Nghĩa là do đặc
trưng của pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ chủ yếu, cơ bản mang tính ổn
định và được lặp đi lặp lại, do đó, nếu không tìm ra được điểm cân bằng và
tương đối ổn định thì chính sách khó có thể cụ thể hóa thành pháp luật.
- Pháp luật được ban hành và đi vào cuộc sống sẽ giúp các quan hệ xã hội
diễn ra có trật tự theo định hướng thống nhất với các chính sách hiện hành. Quá
trình thực thi pháp luật giúp các đối tượng có ý thức chấp hành các quy định
chung, trên cơ sở đó nêu cao tinh thần chấp hành chính sách một cách tự giác.
Câu 77: Phân tích khái niệm, đặc điểm của cưỡng chế nhà nước?
Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế
làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo Lênin thì pháp luật sẽ
không còn là gì nữa "nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta
tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không".
Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân thủ, chủ yếu nhờ vào sự
tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và lên án của xã hội, còn quy phạm pháp luật
được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu không chấp hành thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Sự cưỡng chế của pháp luật không phải đơn thuần nhằm mục đích trừng trị
mà trước hết là răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục người
vi phạm. Sự cưỡng chế ở đây được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ
pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Nhà nước XHCN không
thừa nhận các hành vi bạo lực trái với pháp luật trong việc xử lý các vi phạm pháp luật. 130
Tính chất cưỡng chế của pháp luật không chỉ là răng đe, ngăn chặn, trừng
trị, mà còn là sự giáo dục sâu sắc đối với các chủ thể pháp luật. Bản thân quy
phạm pháp luật là chuẩn mực để con người rèn luyện ý thức công dân, hình
thành ý thức pháp luật, tạo ra cho mỗi công dân một khả năng tư duy pháp lý,
tránh được những ngẫu nhiên, tùy tiện, coi thường pháp luật Nhà nước.
Câu 78: Cho ví dụ về một vi phạm pháp luật trên thực tế có lỗi cố ý trực
tiếp và phân tích các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật đó.
Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình
gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Ví dụ: ngày 16/8/2015 Nguyễn Văn A (sinh năm 1986, tạm trú: Tổ 6,
phường X, quận Y, tỉnh Z, nghề nghiệp: lao động tự do) đi xe máy để về nhà.
Tuy nhiên, vì muốn tiết kiệm thời gian nên A đã đi vào đường ngược chiều vào đường một chiều.
- Mặt khách quan: Nguyễn Văn A đã thực hiện hành vi điều khiển xe đi
ngược chiều vào đường một chiều là vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị
định 171/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
- Mặt chủ quan: hành vi của Nguyễn Văn A được thực hiện với lỗi cố ý
gián tiếp. Nguyễn Văn A nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra nguy
hiểm nhưng chủ động, tích cực thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Khách thể của vi phạm pháp luật: hành vi của Nguyễn Văn A xâm
phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tính mạng, sức
khoẻ, tài sản của người khác.
- Chủ thể của vi phạm pháp luật: Nguyễn Văn A thỏa mãn điều kiện về
năng lực chủ thể nghĩa là A có năng lực trách nhiệm pháp lý và đủ độ tuổi để
chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Câu 79: Cho ví dụ về một vi phạm pháp luật trên thực tế có lỗi cố ý gián tiếp 131
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Ví dụ: Nguyễn Văn Bê sinh năm 1979 là lái xe vận tải tuyến Hà Nội –
Lào Cai. Đêm ngày 21/4/2015 khi điều khiển xe đến địa phận huyện Phù Ninh –
Phú Thọ thì phát hiện thấy có người nằm trên đường. Bê đã dừng xe và xuống
kiểm tra nhận thấy người nằm trên đường là phụ nữ, khoảng 35 tuổi, toàn thân
có nhiều máu, chân và tay đều gãy, cách khoảng 10m là chiếc máy hiệu Honda
bị đổ. Khi Bê kiểm tra thấy người phụ nữ còn thở tuy nhiên do lo sợ bị hiểu lầm
là người gây tai nạn nên Bê đã điều khiển xe đi tiếp mà không đưa nạn nhân đi
cấp cứu. Khi được đưa đến bệnh viện thì nạn nhân đã chết. 1 tháng sau, cơ quan
điều tra đã tiến hành bắt và khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Bê theo Điều 102
Bộ luật hình sự về Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Điều 102 Bộ Luật Hình Sự quy định về Tội không cứu giúp người đang
ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có quy định về tội này phải có đầy đủ 2 điều kiện:
- Hành vi không cứu giúp mặc dù có điều kiện.
- Hậu quả dẫn đến chết người từ hành vi trên.
Trong trường hợp này hành vi của Nguyễn Văn Bê đều thỏa mãn cả hai
điều trên. Mặt khác Bê nhận thức được hành vi của mình, nhìn thấy được hậu
quả của hành vi tuy nhiên lại bỏ mặc cho hậu quả xảy ra nên hành vi phạm tội
của B được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp.
Câu 80: Cho ví dụ về một vi phạm pháp luật có lỗi vô ý do quá tự tin và
phân tích các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật đó
Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật tuy thấy hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã
hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên
vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. 132
- Về lý trí: Người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thấy hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.
- Về ý chí: Người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không mong muốn
hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội; “nhưng cho rằng hậu quả
đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được”. Người thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật với lỗi vô ý vì quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và đã cho rằng hậu quả sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa
vào những căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề
nghiệp, trình độ kĩ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết khách quan bên
ngoài khác... nhưng hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra.
Ví dụ: Nguyễn Hữu K điều khiển xe máy khi đi đến ngã tư LVL- KDT,
khi thấy tín hiệu đèn đỏ nhưng tại thời điểm đó đường vắng, K cho rằng không
cần phải chấp hành tín hiệu giao thông nên vẫn điều khiển xe đi với tốc độ cao.
Cùng lúc đó Nguyễn Thị M đi bộ sang đường, hậu quả K đâm xe vào chị M
khiến chị M bị thương nặng và tử vong khi trên đường đi cấp cứu. Phân tích tình huống:
Khách thể: Hành vi của Nguyễn Hữu K xâm phạm vào tính mạng sức
khoẻ con người được pháp luật bảo vệ.
Mặt khách quan: Nguyễn Hữu K có hành vi điều khiển xe máy vượt đèn
đỏ khi có tín hiệu đèn báo dừng nhường đường đã vi phạm luật giao thông
đường bộ. Hậu quả làm chết 01 người.
Mặt chủ quan: Lỗi của K là lỗi vô ý vì quá tự tin. K nhận thức được việc
vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông là vi phạm luật an toàn giao thông song do
nghĩ đường vắng, tự tin vào tay lái của mình có thể xử lý được các tình huống bất
ngờ nên vẫn điều khiển xe đi thẳng. K không mong muốn hậu quả làm chị M tử
vong, song hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra. Trong trường hợp này lỗi của K là lỗi vô ý vì quá tự tin.
Chủ thể: Nguyễn Hữu K có đầy đủ năng lực trách nhiệm của chủ thể. 133 134