Lý thuyết bản chất của lợi nhuận

Lý thuyết bản chất của lợi nhuận

lOMoARcPSD|36149638
\
BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bàn
không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng
giá trị thăng dư. số chênh lệch này C.Mác gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu lơi nhuận là p.
Khi đó giá trị hàng hóa schuyển từ G= k +m thành: G = k + p
Người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch giữa giá trị hàng hóa bán được với chi
phí phải bỏ ra không quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó
chính giá trị thặng dư chuyển hóa thành. Với nhà tư bản, lợi nhuận còn được quan
niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C.Mác khái quát: giá trị thặng dư là con đcủa toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình
thái chuyển hóa là lợi nhuận. Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái
biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị trường. Nhà tư bản cá biệt
chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản xuất đã có lợi nhuận. Nếu bán
đúng bằng chi phí sản xuất là không có lợi nhuận. Bán hàng hóa thấp hơn giá trị và
cao hơn chi phí sản xuất cũng thể đã lợi nhuận. Trong trường hợp này, lợi
nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư. Lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực cùa
hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, lợi nhuận
khi được đo bằng stuyệt đối chỉ phản ánh quy của hiệu quà kinh doanh
chưa phản ánh rõ mức độ hiệu quả của kinh doanh, do đó cần được bố sung bằng số
đo tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Quan niệm của P.Samuelson về lợi nhuận:
- Lợi nhuận là phần thu thập thặng dư tính bằng hiệu quả giữa giá trị tổng doanhthu
trừ đi giá trị tổng chi phí.
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới.
lOMoARcPSD|36149638
\
Vấn đề đặt ra là p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì m = p, m p giống nhau chỗ
chúng đều chung nguồn gốc là kết quả không công của công nhân làm thuê. Về
mặt chất: m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p được xem như toàn bộ bản
ứng trước đề ra. Do đó, p đã che dấu mối quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn
gốc thực sự của nó.
Mặc m p đều chung một nguồn gốc kết quả lao động không công của
công nhân làm thuê nhưng bản chất của m p hoàn toàn khác nhau, m phản ánh
nguồn gốc sinh ra từ v còn p thì được xem như toàn bộ bản ứng trước đẻ ra, do
đó p đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Điều đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự hình thành chi phí sản xuất bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau
giữa c v. Chúng ta biết rằng v tạo ra m nhưng khi chi phí sản xuất bản chủ
nghĩa hình thành thì sự khác nhau giữa c v biến mất nên việc p được sinh ra trong
quá trình sản xuất nhờ bộ phận v bây giờ trở thành con đẻ của toàn bộ bản ứng
trước. Lao động nguồn gốc của giá trị thì biến mất giờ đây hình như toàn bộ
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra p.
Hai , do chi phí sản xuất bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi psản xuất thực tế
cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá với giá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa là đã có lợi nhuận.
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá cao hơn giá trị thì m<p
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá thấp hơn giá trị thì m>p
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá bằng giá trị thì m = p
Chính sự không nhất trí giữa m và p che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Đồng thời nó tạo ra ảo giác rằng lợi nhuận là do lưu thông tạo ra do tài kinh doanh
của nhà tư bản mà có.
| 1/2

Preview text:

lOMoARcPSD| 36149638
BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bàn
không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng
giá trị thăng dư. số chênh lệch này C.Mác gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu lơi nhuận là p.
Khi đó giá trị hàng hóa sẽ chuyển từ G= k +m thành: G = k + p
Người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch giữa giá trị hàng hóa bán được với chi
phí phải bỏ ra mà không quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó
chính là giá trị thặng dư chuyển hóa thành. Với nhà tư bản, lợi nhuận còn được quan
niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C.Mác khái quát: giá trị thặng dư là con đỏ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình
thái chuyển hóa là lợi nhuận. Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái
biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị trường. Nhà tư bản cá biệt
chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận. Nếu bán
đúng bằng chi phí sản xuất là không có lợi nhuận. Bán hàng hóa thấp hơn giá trị và
cao hơn chi phí sản xuất cũng có thể đã có lợi nhuận. Trong trường hợp này, lợi
nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư. Lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực cùa
hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, lợi nhuận
khi được đo bằng số tuyệt đối chỉ phản ánh quy mô của hiệu quà kinh doanh mà
chưa phản ánh rõ mức độ hiệu quả của kinh doanh, do đó cần được bố sung bằng số
đo tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Quan niệm của P.Samuelson về lợi nhuận:
- Lợi nhuận là phần thu thập thặng dư tính bằng hiệu quả giữa giá trị tổng doanhthu
trừ đi giá trị tổng chi phí.
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới. \ lOMoARcPSD| 36149638
Vấn đề đặt ra là p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì m = p, m và p giống nhau ở chỗ
chúng đều có chung nguồn gốc là kết quả không công của công nhân làm thuê. Về
mặt chất: m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p được xem như toàn bộ tư bản
ứng trước đề ra. Do đó, p đã che dấu mối quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn
gốc thực sự của nó.
Mặc dù m và p đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của
công nhân làm thuê nhưng bản chất của m và p hoàn toàn khác nhau, m phản ánh
nguồn gốc sinh ra từ v còn p thì được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra, do
đó p đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Điều đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau
giữa c và v. Chúng ta biết rằng v tạo ra m nhưng khi chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa hình thành thì sự khác nhau giữa c và v biến mất nên việc p được sinh ra trong
quá trình sản xuất nhờ bộ phận v bây giờ trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước. Lao động là nguồn gốc của giá trị thì biến mất và giờ đây hình như toàn bộ
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra p.
Hai là, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế
cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá với giá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa là đã có lợi nhuận.
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá cao hơn giá trị thì m

Nếu nhà tư bản bán hàng với giá thấp hơn giá trị thì m>p
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá bằng giá trị thì m = p
Chính sự không nhất trí giữa m và p che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Đồng thời nó tạo ra ảo giác rằng lợi nhuận là do lưu thông tạo ra do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. \