Lý thuyết môn tố tụng hình sự | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác khi được áp dụng có thể hạn chế không chỉ quyền tự do thân thể mà còn hạn chế một số quyền, lợi ích thiết thực khác của đối tượng bị áp dụng như quyền tự do cư trú, quyền về tài sản… thì biện pháp này chủ yếu hạn chế quyền tự do thân thể của đối tượng bị áp dụng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hình sự (ĐHQG)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46342819
Chủ đề 4: Phân tích bắt người I, Khái niệm:
- Là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc người phạm tội quả tang hoặc đang quyết
định truy nã hoặc đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nhằm kịp thời ngăn chặn tội
phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
II, Khái quát chung về bắt người trong tố tụng hình sự:
1,Về bản chất xã hội – pháp lý: bắt người trong tố tụng hình sự biện pháp tạm thời hạn
chế tự do thân thể đối với đối tượng bị áp dụng.
Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác khi được áp dụng có thể hạn chế không chỉ
quyền tự do thân thể mà còn hạn chế một số quyền, lợi ích thiết thực khác của đối tượng
bị áp dụng như quyền tự do cư trú, quyền về tài sản… thì biện pháp này chủ yếu hạn
chế quyền tự do thân thể của đối tượng bị áp dụng.
2, Căn cứ, điều kiện áp dụng tùy theo từng biện pháp bắt người mà có những căn cứ,
điều kiện tương ứng. Tuy nhiên những căn cứ bắt người phải là những tài liệu, chứng
cứ xác đáng phản ánh đối tượng có khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm, khả năng bỏ
trốn, khả năng gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. 3, Mục
đích áp dụng là để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây trở ngại
cho hoạt động điều tra, truy tố xét xử, thi hành án, nhất là hành vi tiêu hủy chứng cứ, bỏ trốn…
4, Đối tượng áp dụng là những người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm
tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người có yêu cầu dẫn độ.
5, Chủ thể có thẩm quyền áp dụng rất đa dạng bao gồm không chỉ những người có thẩm
quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, những người trong các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà còn có thể là bất kỳ ai trong
trường hợp bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã III, Các biện pháp bắt
người trong tố tụng hình sự:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS năm 2015, các biện pháp bắt người
gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt
người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
1, Bắt bị can, bị cáo để tạm giam: lOMoAR cPSD| 46342819
Bắt bị can bị cáo để tạm giam là bắt người có quyết định khởi tố với tư cách bị can
hoặc bị cáo nhằm tạo điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án hình sự.
Căn cứ Điều 113 và Điều 119 BLTTHS 2015:
a) Đối tượng áp dụng: Người bị bắt chỉ có thể là bị can, bị cáo (Điều 113 BLTTHS 2015)
b) Căn cứ áp dụng: Không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể bị bắt để tạm giam mà
chỉ những bị can, bị cáo phạm tội dặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc
tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định và có các căn cứ theo
quy định tại điều 119 BLHS 2015: 1.
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêmtrọng. 2.
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm
trọng màBộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó
thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan
đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và
người thân thích của những người này. 3.
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật
Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt
theo quyết định truy nã. 4.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là
người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam
mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan
đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc
người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm
giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
c) Thẩm quyền áp dụng: Được quy định trong khoản 1 Điều 113 BLTTHS 2015
1. Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; lOMoAR cPSD| 46342819
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viên trưởng, Phó Việ n trưởng ̣
Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự
các cấp; Hội đồng xét xử.
d) Thủ tục áp dụng:Được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 113 BLTTHS:
Trước hết, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh bắt của người có thẩm
quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ
tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ kí của người ra lệnh và
có đóng dấu cơ quan. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo yêu cầu pháp
lí nêu trên mới có giá trị thi hành. Lệnh bắt người vi phạm thủ tục như bắt người theo
lệnh miệng, lệnh bắt của người không có thẩm quyền, lệnh bắt không ghi rõ ngày,
tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh,… hay không có sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát thì không có hiệu lực thi hành.
Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt,
quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Người thi hành phải lập biên bản về việc
bắt, giao lệnh, quyết định này cho người bị bắt.
Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa
điểm bắt, nơi lập biên bản.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Ngoài ra, khi tiến hành bắt người tại nơi
người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc,
học tập chứng kiến. Nếu bắt người tại nơi khác thì phải có sự chứng kiến của đại diện
chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, vì vậy
khi tiến hành lệnh phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hay đại diện cơ
quan tổ chức nơi người bị bắt cư trú, làm việc. Đại diện chính quyền địa phương tham
gia với tư cách là người quản lí về nhân hộ khẩu của người bị bắt trong địa bàn quản lí
của mình. Gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với việc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, đồng thời sự có mặt cuat chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ
giúp sức khi cần thiết để thực hành lệnh bắt người được thuận lợi. Sự có mặt của
người láng giềng trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi cư trú có ý
nghĩa đảm bảo việc bắt người được công khai dân chủ, đồng thời tăng cường tính giáo
dục tuyên truyền pháp luật. lOMoAR cPSD| 46342819
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không mang tính chất cấp bách như bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, quả tang hay truy nã. Vì vây, để đảm bảo chính đáng
quyền lợi của người bị bắt, của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, tránh gây
căng thẳng do việc bắt người gây ra tại khoản 3 Điều 113 Bộ luật Tố tụng sunh sự quy
định: “không được bắt người vào ban đêm…”. Ban đêm được tính từ 22h tối hôm
trước tới 6h sáng hôm sau, điều đó có nghĩa là chỉ có thể bắt bị can, bị cáo để tạm
giam từ 6h sáng tới 22h đêm. Ngoài thời gian đó mà bị bắt là vi phạm thủ tục Tố tụng hình sự.
2, Bắt người phạm tội quả tang:
Bắt người phạm tội quả tang là trường hợp bắt người khi khi người đó đang thực
hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hay đuổi bắt.
a) Căn cứ áp dụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 111 BLTTHS 2015, việc bắt
người phạm tội quả tang khi có ít nhất một trong ba căn cứ sau:
Thứ nhất, hành vi phạm tội đang xảy ra. Đây là trường hợp một người đang thực
hiện hành vi nguy hiểm được quy định trong luật hình sự là tội phạm.
Thứ hai, người phạm tội vừa thực hiện xong tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt.
Đây là trường hợp khi hành vi phạm tội xảy ra không bị phát hiện và bắt giữ nhưng
ngay sau đó thì bị phát hiện và bị bắt. Từ khi thực hiện tội phạm đến khi bị bắt không
có sự gián đoạn về mặt thời gian, nếu có sự gián đoạn thì không thể bắt theo trường hợp
phạm tội quả tang. Khi bắt người phạm tội quả tang trong trường hợp này cần có chứng
cứ chứng minh người đó vừa thực hiện xong hành vi phạm tội, chưa kịp cất giấu công
cụ, phương tiện hoặc những vật là đối tượng tác động của tội phạm.
Thứ ba, người vừa thực hiện xong tội phạm hoặc đang thực hiện tội phạm thì bị
phát hiện và bỏ chạy, bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm đã đuổi bắt.
Người phạm tội không bị bắt ngay khi đamg thực hiện hành vi phạm tội hoặc bị bắt
ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội mà có một khoảng thời gian nhát định khi
người phạm tội bị đuổi bắt. Mặc dù bị đuổi bắt nhưng cũng không có sự gián đoạn về
thời gian từ khi thực hiện hành vi phạm tội đến khi bắt được người phạm tội mà các
hành vi xảy ra liên tục kế tiếp nhau, nếu có sự gián đoạn thì không thể bắt theo trường
hợp phạm tội quả tang. lOMoAR cPSD| 46342819
b) Thẩm quyền áp dụng: Khoản 1 Điều 111 BLTTHS 2015 quy định bất kỳ ai cũng
có quyền bắt trong trường hợp phạm tội quả tang. c) Thủ tục áp dụng:
Khi tiến hành bắt giữ người phạm tội quả tang, công dân có quyền khám người
để tước vũ khí, hung khí của người bị bắt nhằm đảm bảo an toàn cho người bắt giữ
người phạm tội, đề phòng người bị bắt bất ngờ sử dụng vũ khí tấn công, tiếp tục phạm
tội hoặc trốn tránh pháp luật.
Sau khi bắt được người phạm tội quả tang, người bị bắt phải được dẫn giải đến
Uỷ ban nhân dân, cơ quan Công an, Viện kiểm sát nơi gần nhất. Các cơ quan này, sau
khi nhận người bị bắt phải lập biên bản phạm tội quả tang và phải dẫn ngay đến CQĐT có thẩm quyền.
Cơ quan điều tra có thẩm quyền khi nhận người bị bắt phải tiến hành thẩm vấn
ngay để ra quyết định tạm giữ hay trả tự do cho họ.
3, Bắt người đang bị truy nã:
Bắt người bị truy nã là bắt người có hành vi phạm tội đang trốn tránh việc điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án và đã bị các cơ quan nhà nước có thảm quyền ra quyết
định truy nã, thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết
công khai tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn và các nơi công cộng để lùng bắt.
a) Đối tượng bị truy nã bao gồm: bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu;
người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phát trục xuất bỏ trốn; người bị kết
án tù bỏ trốn; người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ án phạt
tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn; ngươi bị kết án tử hình bỏ trốn.
b) Thảm quyền áp dụng: Khoản 1 Điều 112 BLTTHS 2015 quy định bất kỳ ai cũng
có quyền bắt người đang bị truy nã
c) Thủ tục áp dụng: Khi tiến hành bắt người đang bị truy nã, công dân có quyền
khám người để tước vũ khí, hung khí của người bị bắt nhằm bảo đảm an toàn cho
người ắt giữ người phạm tội, đề phòng người bị bắt bất ngờ sử dụng vũ khí tấn
công, tiếp tục phạm tội hoặc trốn tránh pháp luật.
Sau khi ất được người bị truy nã, người bị bắt phải được dẫn giải đến Uỷ ban nhân
dân, Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nơi gần nhất. Các cơ quan này, sau khi nhận người
bị bắt phải lập biên bản và phải dẫn giải đến CQĐT đã Quyết định truy nã. lOMoAR cPSD| 46342819 VI, Ý nghĩa:
Việc bắt giữ người nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội,
bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. V, Ví dụ:
Ngày 18/3/2022, Đội điều tra hình sự Công an huyện A được tin báo tại nhà ông
Nguyễn B có khoảng 10 người đang tham gia đánh bài ăn tiền. Sau khi nhận được tin
báo, Đội điều tra hình sự Công an huyện A đột nhập vào nhà ông B phát hiện và lập
biên bản phạm tội quả tang tại sòng bạc gồm có 10 người chơi. Vật chứng thu giữ tại
chiếu bạc gồm dụng cụ dùng để đánh bạc cùng với số tiền thu giữ được tại chiếu bạc là 6 triệu đồng.
Như vậy, đội điều tra hình sự Công an huyện B lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang là đúng vì tại chiếu bạc đã thu giữ được số tiền là 6 triệu đồng.
Và theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người nào
đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá
từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Như vậy những người tham gia sới bạc có thể phải trải qua quá trình điều tra và có thể
đều bị xử lý hình sự vì số tiền vi phạm là trên 5 triệu đồng.
Không phải mọi trường hợp bắt người phạm tội quả tang đều bị xử lý hình sự bởi khi
bắt giữ người phạm tội quả tang thì chưa thể xác định ngay là người bị bắt có phạm
tội hay không mà phải qua quá trình điều tra mới chứng minh được hành vi của người
bị bắt phạm tội hoặc không phạm tội.