Lý thuyết môn Triết học Mác - Lênin về ý thức, nguồn gốc ý thức | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan biện chứng với vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong lịch sử triết học..Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được quyết định
với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan
vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan biện chứng
với vật chất.
Nguồn gốc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong , vấn đề nguồn gốc, lịch sử triết học
bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa . Triết học duy vật biện chứng khẳng chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm
định, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Mặt tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và
không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không
có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các nhân tố bao gồm:
Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của
quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm
khoảng 14 - 15 tỷ thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ tế bào
nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không
điều kiện.
Sự phản ánh:
Cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt
động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị
rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản
ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng
lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật
chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
1. Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
2. Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh
cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế
giới sinh vật.
3. Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với
sự xuất hiện của con người.
Mặt xã hội
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn
ngữ và các .quan hệ xã hội
Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích
chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người,
từ tâm lý động vật thành ý thức
Engels[1]
Lao động:
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động
chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng
đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ thành người, từ tâm lý động vật vượn
thành ý thức.
V í dụ: Con người khi lao động cụ thể là lao động chế tạo ra các công cụ lao động,
công cụ dùng trong sinh hoạt, từ đó con người có ý thức về việc thay đổi thói quen
ăn uống hay mục đích của hoạt động biến đổi phát triển xã hội.
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người,
và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói:
Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người
Engels[2]
Việc chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về
mục đích của hoạt động biến đổi thế giới. Thực chất của hoạt động lao động là tác
động vào thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người. Nhờ có lao động, bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng cao. Cũng là
lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất yếu,
khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến mức làm
nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó". Và ngôn
ngữ xuất hiện.
Ngôn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì ngôn ngữ là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
Bản chất ( thêm nếu cần thiết)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh khách
quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội
dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản
ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại ch
quan. Ý thức không có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với
hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. ý thức là
sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là
tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo
về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và
được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó
Karl Marx[3]
Sự phản ánh sáng tạo của ý thức biểu hiện ở sự cải biến cái vật chất di chuyển
vào trong bộ não con người thành cái tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần.
Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh,
trong khuôn khổ và theo tính chất, quy luật của phản ánh.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái
đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những
cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể
tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết
sức trừu tượng và có tính khái quát cao.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người, song đây là
sự phản ánh đặc biệt – Phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông tin giữa chủ thể
và đối tượng phản ánh. Tiếp đến là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới
dạng hình ảnh tinh thần và cuối cùng là chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực
khách quan.
=>> Ý thức là sự phản ánh sáng tạo, vì phản ánh đó dù trực tiếp hay gián tiếp,
dù dười dạng ý tưởng thì bao giờ củng phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa
trên hoạt động thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại
trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở của
phản ánh.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức – trong bất
kỳ trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người
tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
=>>Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có
tính xã hội: Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một
hiện tượng xã hội. ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh những
quan hệ xã hội khách quan.
Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến
chừng nào con người còn tồn tại
Karl MarxEngels[4]
Theo Lenin thì nếu coi tư tưởng (ý thức) là có tính vật chất tức là một bước sai lầm
đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm.
| 1/3

Preview text:

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được quyết định
với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan
vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan biện chứng với vật chất. Nguồn gốc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc,
bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng khẳng
định, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Mặt tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và
không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không
có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các nhân tố bao gồm:  Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của
quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm
khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.  Sự phản ánh:
Cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt
động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị
rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản
ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng
lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp: 1. Phản ánh
vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá. 2.
Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh
cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật. 3.
Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với
sự xuất hiện của con người. Mặt xã hội
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội.
Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích
chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người,
từ tâm lý động vật thành ý thức — Engels[1]  Lao động:
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động
chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng
đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. V í dụ:
Con người khi lao động cụ thể là lao động chế tạo ra các công cụ lao động,
công cụ dùng trong sinh hoạt, từ đó con người có ý thức về việc thay đổi thói quen
ăn uống hay mục đích của hoạt động biến đổi phát triển xã hội.
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người,
và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người — Engels[2]
Việc chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về
mục đích của hoạt động biến đổi thế giới. Thực chất của hoạt động lao động là tác
động vào thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người. Nhờ có lao động, bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng cao. Cũng là
lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất yếu,
khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến mức làm
nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó". Và ngôn ngữ xuất hiện.  Ngôn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì ngôn ngữ là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
Bản chất ( thêm nếu cần thiết)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh khách
quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. 
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội
dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản
ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ
quan. Ý thức không có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với
hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. ý thức là
sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người 
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là
tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo
về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và
được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó — Karl Marx[3]
Sự phản ánh sáng tạo của ý thức biểu hiện ở sự cải biến cái vật chất di chuyển
vào trong bộ não con người thành cái tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần.
Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh,
trong khuôn khổ và theo tính chất, quy luật của phản ánh.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái
đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những
cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể
tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết
sức trừu tượng và có tính khái quát cao.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người, song đây là
sự phản ánh đặc biệt – Phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông tin giữa chủ thể
và đối tượng phản ánh. Tiếp đến là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới
dạng hình ảnh tinh thần và cuối cùng là chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
=>> Ý thức là sự phản ánh sáng tạo, vì phản ánh đó dù trực tiếp hay gián tiếp,
dù dười dạng ý tưởng thì bao giờ củng phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa
trên hoạt động thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại
trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở của phản ánh.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức – trong bất
kỳ trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người
tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
=>>Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có
tính xã hội: Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một
hiện tượng xã hội. ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh những
quan hệ xã hội khách quan.
Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến
chừng nào con người còn tồn tại — Karl Marx và Engels[4]
Theo Lenin thì nếu coi tư tưởng (ý thức) là có tính vật chất tức là một bước sai lầm
đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm.