



Preview text:
Câu 3: 
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu đều là đối 
tượng bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ. Cả ba đối tượng này giống nhau ở một 
điểm, đó là đều có thể được thể hiện thông qua đường nét, màu sắc, hình khối, bố 
cục hoặc sự kết hợp giữa những yếu tố kể trên nhằm tạo nên hình dáng bề ngoài 
của một sản phẩm, một đồ vật. 
Điểm chung nổi bật đối với tiêu chuẩn bảo hộ đối tượng là kiểu dáng công 
nghiệp và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là điều kiện về tính thẩm mỹ, tức là hình 
dáng bên ngoài của sản phẩm tác động trực tiếp đến thị giác của người bình thường 
khi được tiếp xúc với sản phẩm. Mặc dù đối với nhãn hiệu không yêu cầu về tính 
thẩm mỹ nhưng nhãn hiệu thưởng phải là những dấu hiệu nhìn thấy được và một 
trong những yếu tố quan trọng đối với nhãn hiệu là nhãn hiệu phải có khả năng 
phân biệt, tạo nên một ấn tượng nhất định về thị giác để có thể dễ nhận biết, dễ ghi 
nhớ. Những dấu hiệu như hình ảnh, hình khối (3D) hay dấu hiệu kết hợp vừa có 
thể đáp ứng điều kiện bảo hộ nhãn hiệu, nhưng cũng đáp ứng được điều kiện về 
tinh sáng tạo, tính thẩm mỹ của tác phẩm mỹ thuật ứng dụng hay kiểu dáng công 
nghiệp. Việc bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng hay kiểu dáng công nghiệp đều 
có điểm tương đồng là đồ vật hữu ích hay sản phẩm mà tác phẩm mỹ thuật ứng 
dụng được gắn trên đó hay đối tượng mang kiểu dáng công nghiệp đều có thể được 
sản xuất hàng loạt bằng phương pháp thủ công nghiệp hoặc công nghiệp. Điều đó 
có nghĩa là từ một sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp hay tác phẩm mỹ thuật 
ứng dụng, người ta hoàn toàn có thể sản xuất ra nhiều các sản phẩm giống hoặc  tương tự. 
Do giữa đối tượng là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công nghiệp có 
những điểm tương đồng giống nhau nên cùng một đối tượng có thể cùng được bảo 
hộ theo cơ chế quyền tác giả và cơ chế quyền sở hữu công nghiệp. 
Một đối tượng có thể là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ quyền tác 
giả, có thể đồng thời là kiểu dáng sản phẩm được bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. 
Trên thực tế khi một sản phẩm tạo hình được tạo ra, có tính sáng tạo nguyên gốc,     
được thể hiện thông qua đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục hay sự kết hợp giữa 
những yếu tố trên tạo nên hình dáng bề ngoài của một sản phẩm, của một đồ vật; 
được sản xuất hàng loạt bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp thì 
ngay lập tức sản phẩm đó được bảo hộ tự động hoặc đăng ký bảo hộ theo cơ chế 
quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Đồng thời, sản phẩm đó cũng 
có thể được đăng kí bảo hộ kiểu dáng công nghiệp nếu như sản phẩm đó có tính 
mới, tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. 
Tuy đối tượng có thể tương tự/ giống nhau nhưng cơ chế bảo hộ hai loại tài 
sản trí tuệ này là khác nhau. Cụ thể, theo quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ, dấu 
hiệu muốn được bảo hộ là nhãn hiệu thì chủ sở hữu phải tiến hành thủ tục xác lập 
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam theo 
thủ tục, trình tự được pháp luật quy định chặt chẽ, trong đó có bước xét nghiệm nội 
dung nhằm đánh giá khả năng bảo hộ. Trong khi đó, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng 
được bảo hộ một cách tự động mà không cần qua bất cứ thủ tục xác lập quyền nào. 
Mặc dù vậy, trên thực tế, chủ sở hữu các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng thường đăng 
ký bảo hộ các tác phẩm này tại Cục bản quyền tác giả Việt Nam. Việc đăng ký các 
tác phẩm này không có ý nghĩa như một thủ tục xác lập quyền nhưng có ý nghĩa 
quan trọng trong việc bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả trên thực 
tế. Khác với thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, quy trình 
cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đối với các tác phẩm mỹ thuật ứng 
dụng không có khâu thẩm định nội dung, không tra cứu xem nội dung tác phẩm mỹ 
thuật ứng dụng có trùng hay sao chép của ai hay không, chỉ sau khi có sự khiếu nại 
thì nội dung của tác phẩm mới được xem xét. Điều này dẫn đến khả năng một dấu 
hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn đã được một chủ thể đăng ký bảo hộ nhãn 
hiệu nhưng lại được chủ thể khác đăng ký bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và 
đều được cấp văn bằng bảo hộ. Đây là nguyên nhân làm phát sinh hiện tượng xung 
đột quyền trong bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và bảo 
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.     
Trong trường hợp trên, Công ty A cần đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng 
nhận đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mà Công ty B  đang sở hữu. 
Căn cứ Khoản 2 Điều 55 Luật Sở hữu trí tuệ, giấy chứng nhận đăng ký quyền 
tác giả sẽ bị hủy bỏ hiệu lực nếu chủ sở hữu nhãn hiệu chứng minh được người 
được cấp không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc tác phẩm được đăng 
ký không thuộc đối tượng được bảo hộ. 
Theo đó, văn bằng bảo hộ về quyền tác giả (tác phẩm mỹ thuật ứng dụng) là 
cơ sở để chủ sở hữu tác phẩm mỹ thuật ứng dụng sử dụng, khai thác đối tượng 
được bảo hộ. Khi phát sinh tranh chấp do xung đột quyền, các bên liên quan phải 
chứng minh quyền của mình theo các quy định nêu trên. Trong trường hợp quyền 
tác giả của chủ sở hữu tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ trước khi nhãn 
hiệu của các chủ thể khác được bảo hộ, quyền của chủ sở hữu tác phẩm mỹ thuật 
ứng dụng sẽ được bảo vệ. Ngược lại, các chủ thể khác phải chứng minh chủ thể sử 
dụng tác phẩm mỹ thuật không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và tác 
phẩm không phải sản phẩm sáng tạo mà là sự sao chép dấu hiệu của chủ sở hữu 
nhãn hiệu để bảo vệ nhãn hiệu của mình. 
Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 42 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, hồ 
sơ đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng 
nhận đăng ký quyền liên quan gồm các thành phần như sau: 
- Đơn đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy 
chứng nhận đăng ký quyền liên quan (theo Mẫu số 06 của Phụ lục III ban hành 
kèm theo Nghị định này); 
- Văn bản ủy quyền nếu người nộp hồ sơ là người được tác giả, chủ sở hữu 
quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan ủy quyền theo quy định tại khoản 6 
Điều 38 của Nghị định này;  - Chứng cứ (nếu có); 
- Bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký 
quyền liên quan đã được cấp kèm bản sao tác phẩm, bản định hình cuộc biểu diễn,     
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được đóng dấu, ghi số Giấy chứng 
nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan. 
Căn cứ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 42 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, 
việc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận 
đăng ký quyền liên quan được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau: 
Bước 1: Nộp hồ sơ Tổ chức, cá nhân nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị hủy bỏ hiệu lực 
Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan 
và phí, lệ phí theo quy định của pháp luật; 
Bước 2: Rà soát, xem xét hồ sơ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền rà soát, 
xem xét tính hợp lệ của hồ sơ trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ; 
Trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo yêu 
cầu tổ chức, cá nhân sửa đổi, bổ sung hồ sơ trong thời hạn 01 tháng. 
Bước 3: Hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả Trường hợp 
hồ sơ hợp lệ theo quy định, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hủy bỏ 
hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền 
liên quan đã cấp trong thời hạn 15 ngày làm việc.