lOMoARcPSD|59629529
MỞ BÀI – KHÁI QUÁT CHUNG ĐÁNH GIÁ – KẾT BÀI 1/ Truyện ngắn “V
NHẶT” – Kim Lân
A. Mở bài: Đến với mảnh đất văn chương, nếu Nguyễn Công Hoan coi “đời là mảnh
ghép của những nghịch cảnh”; Thạch Lam “đời miếng vải nhiều lỗ thủng, nhiều
vết ố nhưng vẫn nguyên vẹn”; và Nam Cao thì coi “cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách
tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận”, thì Kim Lân lại không nhìn đời
bằng con mắt “đau thương” như thế! Kim Lân là cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn
về đề tài nông thôn. Những sáng tác của ông phản ánh một cách chân thật, xúc động
về cuộc sống và người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ cũng như tâm lí của họ
- những con người gắn tha thiết với quê hương cách mạng. Một trong những sáng
tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”, tác phẩm vừa là bức tranh hiện
thực về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu vừa là bài ca ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh
liệt của con người vào tương lai, vào Cách mạng, vào tình người. Và … (yêu cầu của đề)
B. Đoạn giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Viết về đề tài nông thôn, nhà văn Kim Lân
đã khơi gợi những cái chưa ai khơi gợi, đó thân phận rẻ rúng như rơm rác của người
nông dân nghèo trong xã hội cũ, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. ông đã rất
thành công khi khắc họa chân dung người dân lao động tuy nghèo khổ, quanh năm chân
lấm tay bùn nhưng ở sâu trong họ vẫn luôn mang những phẩm chất cao đẹp. Truyện ngắn
“Vợ nhặt” ra đời dựa vào cốt truyện với nhan đề “m ngụ cư” Kim Lân viết còn
dang dở sau Cách mạng. Truyện in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962. Truyện ngắn
“Vợ nhặtđược xây dựng trên bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu cái năm
người ta vẫn nhắc đến như một tai nạnthảm khốc khiến “hai triệu đồng bào ta bị chết đói
từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ”. Trong cái tình cảnh đó: Tràng, mt thanh niên nghèo khổ làm
nghề đẩy xe bò thuê lại dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên,
bà cụ Tứ (mẹ Tràng) cũng ngạc nhiên không kém và ngay cả bản thân Tràng cũng không
tin đó là sự thật.
C. Đánh giá nghệ thuật và nội dung: Bằng ngôn từ giản dị và tình huống truyện độc
đáo, đầy bất ngờ. Nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi dựng lên một thước phim quay
chậm về cuộc sống của người dân m ngụ trong tình cảnh đói khát, thiếu thốn đến
cùng cực những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Càng khó khăn, càng đói
khổ bao nhiêu thì tình người lại càng sáng chói bấy nhiêu. Bởi đó, họ dù khổ sở,
cùng quẫn cũng không chà đạp lên nhau. Đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, người đọc
càng xót xa cho thân phận người nông dân bao nhiêu, lại càng oán hận tội ác của phát xít
Nhật, thực dân Pháp bọn thực dân phong kiến bấy nhiêu. Chính chúng đã đẩy dân ta
vào cảnh túng đói khinh hoàng “người chết như ngả rạ”, “hơn hai triệu đồng bào ta chết
đói” từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Bởi vậy, nhà văn cũng không quên gieo vào lòng người
đọc sự hoan hỉ khi xây dựng hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” cuối truyện. cờ ấy
lOMoARcPSD|59629529
như một lời khẳng định: Nhân dân ta nhất định sẽ chiến thắng. Kẻ gian ác tàn bạo nhất
định sẽ bị lụi bại dưới ánh sáng của Cách mạng Việt Nam.
D.KẾT BÀI: Truyện ngắn “Vợ nhặt” đọng lại trong lòng độc gisnhững ấn tượng
khác nhau: từ cách miêu tả khung cảnh ngày đói một cách chân thực đến biễn biến tâm lý
bậc thầy của Kim Lân, nhưng lẽ cái đng lại cuối cùng vẫn là cách nhìn đời, nhìn người
đầy xót xa và thương yêu của nhà văn, niềm tin mà dường như ông muốn trao gửi đến
tất cả chúng ta qua thiên truyện: Rằng, dù cuộc sống có bi thảm đến đâu thì cái cội nguồn
nhân bản lưu giữ trong nhân dân vẫn là bất diệt; rằng con người không có khao khát chính
đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên người.
2. Truyện ngắn “VỢ CHỒNG A PHỦ” – TÔ Hoài
A. Mở bài: Nhà văn Phan Anh Dũng nói về Hoài rằng: “Hơn cả một nhà văn,
Hoài đã, đang sẽ luôn người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi,
trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những
miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành”. Quả đúng như vậy,
Hoài một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sớm
bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết nhiều
thể loại và thể loại nào cũng gặt hái được những thành công rực rỡ. Đặc biệt là những tác
phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, bởi ông rất am hiểu về
phong tục tập quán cũng như văn hóa nhiều vùng miền khác nhau. Hoài luôn những
cố gắng tìm tòi, khám ptrong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp
phần làm nên sự hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền tác phẩm của ông đối với đời sống
tinh thần của người đọc nhiều thế hệ…. (Yêu cầu của đề)
B. Đoạn giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Truyện ngắn “Vchồng A Phủ” được rút
trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1952, là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này.
Tác phẩm vừa một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền
núi dưới ách áp bức, thống trị man của bọn chúa đất phong kiến, vừa một bài ca về
sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Truyện có hai phần: Phần đầu kể
về cuộc sống đầy tủi nhục của Mị A Phủ Hồng Ngài nơi bọn thống ngự trị độc
tôn, người dân cực khổ đấu tranh nhưng chỉ đấu tranh tự phát (chính đoạn trích
trong chương trình Ngữ văn 12); phần sau thời Phiềng Sa – nơi thực dân kẻ thống
trị cao nhất, con người đấu tranh tự giác để tự giải phóng đời mình, dưới sự giác ngộ
lãnh đạo của Đảng.
C. Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Bằng nghệ thuật miêu tả, phân tích sâu sắc tinh
tế cùng với cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, giọng trần thuật của tác giả hòa vào độc thoại
nội tâm nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đc sắc, Hoài đã tái hiện chân thực,
sinh động câu chuyện về những người dân vùng cao bị áp bức. Đc biệt, với tài năng nghệ
lOMoARcPSD|59629529
thuật và trái tim ấm nóng của người cầm bút, Tô Hoài đã đi sâu vào tâm hồn để thấu hiểu
được thế giới nội tâm và những khát vọng thầm kín của nhân vật. Ông còn khám phá được
“hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn con người”, tạo nên giá trị nhân văn cao cả cho
tác phẩm. Đến với “Vợ chồng A Phủ” chúng ta không thể tìm được những cá tính đc sắc
trong nhân vật như Xuân tóc đỏ trong “Số đỏ”, Tràng trong “Vợ nhặt” hay Chí Phèo trong
truyện cùng tên của nhà văn Nam Cao... Bởi đó không phải chủ đích của Hoài khi
viết thiên truyện này. Nhà văn muốn dành sự quan tâm cho một vấn đề khác, cấp bách hơn:
đó “vấn đề số phận” số phận của con người, số phận của cả một cộng đồng người nông
dân lao động dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến trên những triền núi Tây Bắc
heo hút.
D.Kết bài: Rồi A Phủ và Mị sẽ trở thành vợ chồng, sẽ giác ngộ cách mạng và lần lượt trở
thành du kích giải phóng quê hương đất nước nhưng đó nửa sau của truyện, lúc họ
đưa nhau đến Phiềng Sa. n khi đọc hết nửa đầu của truyện, gấp trang sách lại một
Tây Bắc xa xôi vẫn quanh quẩn đâu đó thật gần. Bởi lẽ, “Vợ chồng A Phủ” đã chinh phục
trái tim của mọi độc giả. Sức chinh phục ấy không phải tthứ văn chương bay bổng hay
những ngôn từ hoa mĩ, mà là ở chỗ nhà văn đứng về phía khát vọng được sống, được yêu
để tố cáo cái hội thực dân đã giam hãm, trói buộc, hủy hoại tuổi xuân của con người
đc biệt là người phụ nữ. Và sâu sắc hơn cả là tấm lòng nhân đạo của nvăn Tô Hoài khi
tin tưởng vào sức sống bất diệt, tin tưởng vào khả năng tự vươn lên, phản kháng cái hiện
thực đen tối để tìm đến với tình yêu, tự do và hạnh phúc.
3. Truyện ngắn CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Nguyễn Minh Châu
A. Mở bài: Một nhà văn đã từng nói: “những hình ảnh thoạt mới nhìn thì đẹp, thậm
chí là rất đẹp, nhưng nếu nhìn bên trong, đi sâu vào bản chất của thì hoàn toàn ngược
lại. Cuộc sống nhiều khi thường "đánh lừa" ta như thế. Phải con mắt tinh tường nhìn
thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó.
Và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy! Nguyễn
Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì
đổi mới, “vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới” “người mở đường tinh
anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế
sự, đời tư mang đậm chất triết lý nhân sinh trong giai đoạn văn học mới, khác xa với cảm
hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn…. (Yêu cầu của đề)
B. Giới thiệu về tác giả, c phẩm: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lúc đầu
được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn
(in năm 1987). Truyn in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu
cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng những chiêm nghiệm sâu
sắc của ông về “nghệ thuật và cuộc đời”.
lOMoARcPSD|59629529
C. Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Nhà văn Nguyên Minh Châu từng bộc bạch
trong tập tiểu luận “Trang giấy trước đèn” của mình rằng: “Nhà văn tồn tại trên đời trước
hết để làm cái công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ bị
cái ác hoc số phận đen đủi dồn đến chân tường, đbênh vực cho những con người không
còn được ai bênh vực”. Chính vậy, khi hướng ngòi bút của mình về văn học, Nguyễn
Minh Châu quả quyết: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người”, sẽ đến một lúc văn hc “phải viết về con người, trước sau con người cũng leo
lên trên sự kiện để đòi quyền sống” nhà văn chân chính thì bao giờ cũng “mang nng
trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người”. Sau cách mạng, những
sáng tác của Nguyễn Minh Châu đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, từ cái nhìn hiện thực
đa chiều, mang đậm chất triết nhân sinh. Điều đó đã giúp ông nhận ra đời sống con
người bao gồm cả qui luật tất yếu lẫn những điều may rủi khó lường, ông day dứt về việc
con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có.
Nguyễn Minh Châu tâm niệm: “Văn học ra đời để gìn giữ trong từng con người – một cái
hết sức mong manh luôn luôn run rẩy… một cái đó thật như vậy, nhưng thiếu
nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được,
trở thành một tại họa cho loài người”. truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng
gói trọn những suy tư, trăn trở của ông. Đó gánh nng mưu sinh giam hãm vợ chồng
người dân hàng chài trong cảnh tối tăm, đói khổ, bấp bênh. Điều ấy khiến người chồng trở
thành một kẻ phu, thô bạo. Còn người vợ thương con nên nhẫn nhục, chịu đựng sự
ngược đãi của người chồng mà chị không hề biết chính việc ấy đã làm tổn thương tâm hồn
đứa con thơ dại. Vì thương mẹ, cậu trở nên thù địch với cha, nhưng rồi liệu trong tương
lai cậu thể sống khác cha mình hay cũng chỉ một bản sao cũng tàn tệ phu như
người bố? Đằng sau câu chuyện là cái nhìn ấm áp, nhân hậu của nhà văn: sự trân trọng, tin
yêu vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sbao dung can đảm của người phụ nữ. Đó
không phải là vẻ đẹp chói sáng, hào hùng là những “hạt ngọc khuất lấp”, lẫn trong lấm
láp lam đời thường. Theo ông, tình yêu của người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say
vừa là nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của
những người xung quanh. Điều này đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho thiên truyện.
D.Kết bài: Đọc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta có thể nhận thấy vẻ đẹp ca ngòi
bút Nguyễn Minh Châu và các giá trị sâu sắc ông để lại, tất cả đều toát ra từ tình yêu
tha thiết với con người cùng khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp trong
cốt cách con người. Khép lại những trang văn kvề cuộc đời người đàn hàng chài
danh nơi vùng biển, âm của vẫn còn day dứt, ám ảnh trong lòng độc giả mãi tận hôm
nay và mãi mãi về sau.
lOMoARcPSD|59629529
4.Kịch “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT-Lưu Quang Vũ
A. Mở bài: Bước vào thời kì văn học đổi mới, mt trong những chuyển biến làm nên
tiếng vang cho giai đoạn này, chính là sự xuất hiện “nở rộ” của kịch. Và Lưu Quang Vũ
chính là một nhà thơ, nhà viết kịch xuất sắc nhất của nền kịch nói Việt Nam. Thành công
lớn nhất của ông là ở lĩnh vực sân khấu và ông được coi là “ngòi bút vàng của sân khấu
Việt Nam”. Kịch
Lưu Quang đc sắc trên nhiều phương diện: đó sự kết giữa kịch bản văn học
nghệ thuật sân khấu, giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống; giữa sự phê phán
mạnh mẽ và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng. Những tác phẩm của ông luôn là những
bức thông điệp gửi tới người đọc, người xem những vấn đề xã hội có tính nhân văn sâu
sắc…. (Yêu cầu của đề)…
B. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gồm bảy
hồi, là một trong những vở kịch đc sắc nhất của Lưu Quang Vũ đã được trình diễn rất
nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, ông đã xây
dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng,
triết lí và nhân văn sâu sắc. Đoạn trích trong sách giáo khoa (Ngữ văn 12) là từ cảnh VII
và đoạn kết của vở kịch. Kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được chuyển thể từ mt
câu chuyện dân gian: Trương Ba vốn là một người lương thiện, hiền lành, đánh cờ giỏi,
có học thức và rất yêu thương vợ con. Ông được mọi người nể trọng, con cháu hết mực
kính mến. Nhưng rồi con người đánh kính ấy lại bị chết một cách vô lý do sự tắc trách
của Nam Tào, Bắc Đẩu. Để sửa sai, họ đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt
vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gp rất nhiều phiền
toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, người thân trong gia đình Trương Ba
cũng cảm thấy xa lạ... bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, sống
giả tạo. Đc biệt thân xác anh hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những
nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và
sự phiền toái do mưn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh
hàng thịt và chấp nhận cái chết.
C.Đánh giá chung nội dung nghệ thut: Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả đã gửi
gắm những thông điệp về lẽ sống thời cuộc vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết
liệt, vừa kín đáo sâu sắc. Điều nhấn mạnh đây vẻ đẹp tâm hồn của những người dân
lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, thói xấu, thói giả tạo để bảo vệ sự
trọn vẹn trong nhân cách. Không chỉ ý nghĩa vtriết nhân sinh, về hạnh phúc con
người. Trong vkịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn phê phán một
số biểu hiện tiêu cực trong lối sống: Thứ nhất, con người đang sống chạy theo những
ham muốn tầm thường về vật chất đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ
tâm hồn cao quý, đời sống tâm hồn đáng trọng lại sao nhãng việc chăm lo, vun
lOMoARcPSD|59629529
vén cho bngoài. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến mt vấn đề cấp bách, không kém phần
bức xúc, đó là tình trạng sống giả tạo, sống dối trá, sống không dám sống không được
là chính mình. Đó là nguy cơ đẩy con người đến sự tha hóa do danh và lợi chỉ đường một
cách nhanh nhất.
D.Kết bài: Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và vở kịch “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” nói chung, Lưu Quang đã sử dụng nhuần nhuyễn một số thủ pháp nghệ thuật
một cách độc đáo, nhà biên kịch xây dựng tác phẩm dựa trên sự sáng tạo lại cốt truyện dân
gian. Nghệ thuật dựng cảnh, viết lời đối thoại, độc thoại, hành động, tính cách, tình huống...
tất cả đều đạt tới trình độ bậc thầy về kịch sân khấu. Thông qua vở kịch, ta như hiểu hơn
vấn đề triết nhân sinh về cái cao cả và cái thấp hèn, giữa cái dung tục tầm thường và cái
thanh khiết trong sáng Lưu Quang nhắn gửi thông qua cuộc đấu tranh giữa hai mt
hồn xác trong một con người. Chính vậy, hơn 30 m trôi qua nhưng những giá trị
của vở kịch vẫn còn tấm gương phản chiếu cuộc sống hội một cách chân thực cho
thế hệ hôm nay và mai sau nghiền ngẫm.
5.Tùy bút NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân
A. Mở bài: Những năm 1960 là giai đoạn miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa, “tâm hồn Tây Bắc” chính một trong những miền đất mà biết bao
nhà văn, nhà thơ đã hướng ngòi bút của mình tới để thực hiện quá trình lột xác văn học.
Nguyễn Tuân cũng đã mang chủ nghĩa dịch” của mình đt chân đến đó. Nguyễn
Tuân là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam
với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Ông một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, cótính độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi
tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám pthế giới phương diện văn a thẩm mỹ,
thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng
đc biệt thành công thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyên Tuân thể loại này
là tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
B. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Đến với nghệ thuật Nguyễn Tuân đcao sự tìm
tòi và sáng tạo, bởi “nhà văn người sáng tạo lại thế giới” trong những trang văn của
mình. Nguyễn Tuân rất sợ mình của ngày hôm nay giống mình của ngày hôm qua, ông sợ
nhất là sự trùng lp tầm thường trong văn chương. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa xê
dịch” làm đề tài cho các tác phẩm, làm mục đích sống cho cuộc đời của chính mình. Sống
đđi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình một chiếc “vali”,
Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu
quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng tâm trạng chung của thời đại. Sau cách
mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu qhương xứ
sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói: ông đến
Tây Bắc để “đi tìm cái thvàng mười của màu sắc sông núi nhất cái thứ vàng
lOMoARcPSD|59629529
mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc
xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu
nặng bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn
ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những trang văn nở hoa về con người và thiên
nhiên miền sông núi này. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” ra đời sau chuyến đi thực tế
gian khổ đầy hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Nguyễn Tuân. Bài tùy t
được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Đánh giá nội dung nghệ thuật: Vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới sự kết hợp
của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi
hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành
tráng về dũng vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí tuệ uyên bác
cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như thể thao, điện ảnh, quân sự... của
Nguyễn Tuân.
C. Đánh giá về nội dung, nghệ thuật: Viết về người lái đò sông Đà trên vùng sông
núi của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc tha thiết đối với người lao động
và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động bao nhiêu thì hình ảnh ông lái
đò càng anh dũng, ngoan cường bấy nhiêu, từ đó ta lại càng thấy được tấm lòng nhân đạo
sâu sắc của nhà văn. lẽ, đối với người dân vùng sông nước Tây Bắc thì hình ảnh ông
lái đò thật bình dtcông việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng đó lại người hùng
trong mắt Nguyễn Tuân trong những trang văn của ông. Nhà văn đã phát hiện ra chất
nghệ sĩ tài hoa dám đương đầu với sóng to gió lớn, hăng hái lao động, quên mình vì công
việc chèo chống con thuyền trên sông.
D. Kết bài: Cuộc sống quanh ta luôn vận động với theo vòng quay của đất trời, nhưng
suy cho cùng ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi nhưng chính Nguyễn Tuân
đã mang đến cho ta một thế giới mới, tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là một nhà văn
góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân
trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và
uyên bác!
6.Truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” – Nguyễn Trung Thành
A. Mở bài: Chiến tranh qua đi đã để lại cho chúng ta không biết bao nhiêu là đau
thương mất mát: những bà mẹ đau xót tiễn con lên đường ra mt trận không lâu đã
phải nhận tin con hi sinh; những người vbỏ cả thanh xuân để chấp nhận sự thật về
người chồng đã “gửi thân xác nơi chiến trường”, “vợ mất chồng, con mất cha, gia đình
mất bị một người thân yêu” thật khó có thể diễn tả được nỗi đau này thành lời. Và sự mất
mát về người lại làm tôi nhớ đến hình ảnh cây nu kiên cường bất khuất: “nó sức chịu
đựng ghê gớm và có sức sống mãnh liệt, tượng trưng cho sức sống của người dân làng Xô
Man và nhân dân Tây Nguyên bất khuất: “Cây xà nu ham ánh nắng mt trời, hóng lên rất
lOMoARcPSD|59629529
nhanh” như chính khát vọng vươn tới tự do, hướng vhòa bình của người dân nơi đây
được thể hiện qua truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyên Trung Thành.
B. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn
học Việt Nam hiện đại trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đế quốc Mĩ, Nguyễn Trung Thành đã khẳng định tên tuổi của mình với vô s các tác phẩm
viết về mảnh đất Tây Nguyên anh dũng quả cảm, kiên cường bất khuất. Và “Rừng xà nu”
viết năm 1965 một trong những thành công xuất sắc của ông. Tác phẩm một thiên
truyện kết tinh những vẻ đẹp bản của khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn trong
văn xuôi kháng chiến.
C. Đánh giá nội dung nghệ thuật: Nguyễn Trung Thành đã tạo cho truyện một
không khí sử thi hùng tráng và một bức tranh đầy màu sắc Tây Nguyên đậm đà giữa cảnh
vật và con người. Đồi xà nu, rừng xà nu trong mưa đạn vẫn nối tiếp nhau “ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra che chcho làng”. Đó cũng chính hình ảnh lớp lớp thế hệ người dân
làng Xô Man nối tiếp nhau đánh gic bảo vệ quê hương đất nước. Tất cả những nét vẽ sắc
sảo đầy ấn tượng đó âm thanh trầm bổng trong bản hùng ca chống thời đại Hồ Chí
Minh: mỗi một người, một cuộc đời là một nốt nhạc trong khuôn nhạc bất hủ ấy. Với ngôn
ngữ đậm tính sử thi kết hợp với chất lãng mạn trữ tình, lời văn giàu tính tạo hình, tạo nhạc,
khi trầm ngâm da diết khi nghiêm trang hào hùng. “Rừng nu” đã tái hiện sinh động
cuộc chiến đấu của người dân núi rừng Tây Nguyên. Mỗi trang văn dưới ngòi bút nhà văn
Nguyễn Trung Thành là cả một trang sử vàng “đau thương nhưng anh dũng” của làng Xô
Man, của Tây Nguyên quật khởi cả những gương mt ưu của người dân miền Nam
trong thời lửa đạn chống Mỹ - Ngụy, những nỗi đau ghê gớm nhưng vẫn sáng ngời ý
chí kiên cường bất khuất. cứ thế “Rừng nu” bất chấp bom đạn, sinh sôi nảy nở, “ưỡn
tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”.
D. Kết bài: Rừng xà nu” đã nói gì? Nó nói rằng: với những người như Tnú, hội tụ tất
cả những điểm “có” trong tay: có sức cường tráng của thân cây xà nu lớn; có đủ gan góc,
thừa kiêu hãnh đến bướng bỉnh; không sợ chết, không biết đến khuất phục nhưng vẫn
“không cứu sống được mẹ con Mai”, không bảo vệ được tình yêu gia đình nhỏ của
chính mình. Vì sao vậy? Vì Tnú chỉ có tay không giữa những loại vũ khí tối tân của quân
thù. Như vậy, “Rừng nu” không chỉ đơn thuần câu chuyện về cuộc đời một con người,
một đời người câu chuyện của một thời đại, một đất nước với chân lý cách mạng:
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
7. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – Hoàng Phủ Ngọc Tường
A. Mở bài: Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế, nvăn gắn máu thịt với
mảnh đất miền Trung quê ơng xứ Huế. nhà văn chuyên về t kí, bút của ông có sự
kết hợp giữa trữ tình chính luận, giữa trí tuệ cảm xúc, cảm hứng lịch sử chiều sâu văn
hóa, khả năng liên ởng, tưởng tượng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ. Bài Ai đã đặt tên ho dòng
lOMoARcPSD|59629529
sông đã thể hiện tình yêu tha thiết, say đắm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế của tác giả.
Qua đó, bộc cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cái tôi đầy tài hoa, uyên bác, giàu
tình cảm trí tưởng tượng phong phú. (Và đoạn trích….đã cho ta thấy…..) B. Khái quát
chung:
- Bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế ngày 4 1 1981, in trong tập ch
cùng tên. Đây tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường: Tri
thức phong phú, cảm xúc sâu lắng, văn phong tao nhã. Bài bút kí gồm ba phần, đoạn trích thuộc
phần thứ nhất.
- Sông Hương là hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm và cũng là đối tượng trữ tình củabài
kí. Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, vốn văn hóa phong phú và tình yêu tha thiết quê hương xứ
Huế, tác giả đã viết nên những dòng tràn đầy cảm xúc về dòng sông Hương Con sông chỉ
chảy duy nhất qua một thành phố - thành phố Huế. Sông Hương được nhìn từ nhiều góc độ nên
vẻ đẹp con sông được phát hiện bất ngờ và khá độc đáo.
- Đoạn trích nằm ở phần … cho ta thấy….
C. Đánh giá chung: Bài thể hiện chất trí tuệ, tình yêu, trí tưởng tượng tài hoa của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Bài kí đậm chất sử thi, giàu cảm hứng trữ tình ng mn. Dùng nhiều biện pháp
tu từ như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…Ngôn ngữ giàu hình ảnh nên người đọc dễ dàng liên tưởng.
Tùy bút đượcy dựng bằng nhiều kiến thức: địa lí, lịch sử, văn hóa…Đoạn trích bài bút kí “Ai
đã đặt tên cho dòng sông?” đoạn văn xuôi súc tích đầy chất thơ về sông Hương. Qua đoạn
trích, người đọc cảm nhận được tình yêu và niềm tự hào của tác giả về quê hương xứ sở.
D. Kết luận: Nguyễn Tuân, một nhà văn cũng chuyên viết nhận xét “Kí của Hoàng Phủ
Ngọc Tường rất nhiều ánh lửa”. Phải chăng ánh lửa trong Hoàng Phủ Ngọc ờng chính
vẻ đẹp của văn chương được thắp lên từ những con chữ biến hóa như phép màu. Đúng như
Maiacốpxki nhận xét về quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ:
Phải đổi lấy hàng ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.
Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng văn hay đặc sắc về xứ sở, về tình
yêu quê hương đất nước cũng rất tiêu biểu cho phong ch bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong
muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ
Huế.
8. Bài thơ “VIỆT BẮC” – Tố Hữu
A. Mở bài: Tố Hữu chính là một đại biểu xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền
văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối trong cuộc đời mình ông đều gắn bó với
con đường cách mạng giải phóng dân tộc, nthơ của lí tưởng cộng sản. Con đường t
của ông luôn gắn bó, song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh
nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc,
dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dđi vào lòng người, trở
thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ "Việt Bắc" được đánh giá là đỉnh cao
lOMoARcPSD|59629529
trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng
chiến chống Pháp. Bài
thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954. Đoạn trích…..đã thể hiện ….(đề
bài) B. Khái quát chung:
- Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử
ĐiệnBiên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập
lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra.
Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có
tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao
lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự
kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-
1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta có nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường
lịch sử đã đi qua, lí giải chiến thắng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi
phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
- Kết cấu bài thơ:
+ Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong
ca dao, dân ca đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ lời đối đáp giữa người đi
những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức
đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết
tha vừa sâu nặng nghĩa tình.
+ Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình
cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
C. Đánh giá chung: Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca,
ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào,
truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện
pháp tu tnhư điệp từ, hoán dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu
lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi kẻ ở, giữa những người cán
bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách
mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn
chiến thắng.
D. Kết bài: -Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp
chiến thắng vẻ vang của dân tộc. từ đó thể hiện tình yêu quê hương, đất nước đã trở thành
một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trở thành bài
ca đi cùng năm tháng. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng
ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc.
lOMoARcPSD|59629529
9.Bài thơ “TÂY TIẾN” – Quang Dũng
A. Mở i: Nhận xét về Quang Dũng bài thơ Tây Tiến, ý kiến cho rằng: “Một
ngọn hút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tđược cái tươi
mát, sâu lẳng, đau thương không hề bi lụy”. Quả đúng như thế! Quang Dũng một
người nghệ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc,... Nhưng trước hết phải nói
Quang Dũng là mt hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng
mạn. Ông đã thực sự thành công khi viết về người lính, “Tây Tiến” bài thơ tiên phong
cho phong cách thơ Quang Dũng…. Và khổ thơ… (yêu cầu của đề)
B. Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Muốn hiểu được bài thơ “Tây Tiến”, trước hết cần
phải những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng
cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó một đơn vị
thành lập vào đầu năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới
Việt Lào, đánh tiêu hao địch Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến những
vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm
vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Mai Châu, Châu Mộc sang tận Sầm
Nứa rồi vòng vqua miền Tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu
hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, nhiều thú dữ. Những người lính binh đoàn Tây
Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Thành, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó
cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những
người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau bệnh tật không có thuốc, tử vong vì sốt rét
nhiều hơn là đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan chiến đấu rất dũng cảm.
Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực gian
khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
C. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật: Một điều không thể phủ nhận là đc
điểm văn học từng giai đoạn sẽ chi phối phong cách sáng tác ca các văn nghệ sẽ khi cầm
bút viết lên những thi phẩm làm giàu cho nền văn học Việt Nam. Và nhà thơ đa tài mang
tên Quang Dũng cũng không ngoại lệ, bởi bài thơ Tây Tiến sáng tác vào năm
1948 thuộc chng đường phát triển 1945 - 1954: Văn học lúc này tập trung phản ánh cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Vậy nên, đến với cách mạng và kháng chiến, các văn
nghệ đều thể hiện lòng yêu nước tinh thần yêu dân tộc. Chính hình ảnh người lính
người lính Tây Tiến cũng không ngại khó khăn gian khổ, vất vả, hi sinh, “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh” đã góp phần tạo nên thành công của nền văn học kháng chiến. ...đã
góp phần làm cho ta thêm yêu, thêm trân trọng những những người lính bộ đội cụ Hồ
càng tự hào hơn về nên văn học nước nhà giai đoạn này.
D.Kết bài: Một thời đại chiến tranh khói lửa, gian nan thách thức, hy sinh xương máu mà
vẫn thật oai hùng đã được Quang Dũng dựng lại qua bài thơ Tây Tiến. Đặc biệt nhà thơ đã
xây dựng thành công bức tượng đài sừng sững v người lính Tây Tiến bằng những đường
lOMoARcPSD|59629529
nét cụ thể tiêu biểu từ hình dáng đến tâm hồn. Bức tượng đài ấy sẽ đứng hiên ngang
trong lòng những người yêu thơ ca nói riêng và trong lòng người dân Việt Nam nói chung.
10.Bài thơ “SÓNG” – Xuân Quỳnh
A. Mở bài: Tình yêu đtài muôn thuở của thơ ca, nhiều nhà thơ nổi tiếng viết rất
hay về tình yêu. Trước đó, ông hoàng của thơ tình Xuân Diệu cũng đã mượn hình tượng
“Biển” để bày tỏ tình yêu của mình; Đến với Xuân Quỳnh, chị lại mượn hình tượng “Sóng”
để diễn tả những cảm c, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, phức tạp
vừa tha thiết, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu đương. Xuân
Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ ngiàu yêu thương, luôn khao
khát hạnh phúc bình dị đời thường; đồng thời cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu
lo, luôn day dứt, trăn trở trong tình yêu. Chị viết nhiều viết rất hay về tình yêu, trong
đó “Sóng” là một bài thơ tiêu biểu. Đến với Xuân Quỳnh “Sóng”, thơ ca Việt Nam hiện
đại mới được một tiếng nói bày ttrực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên
tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm của một trái tim phụ nữ đang yêu… (Yêu cầu của đề)…
B. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác ở bãi
biển Diêm Điền vào năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài tmang âm hưởng
của những con sóng biển, ẩn vào đó là những con sóng lòng đang khao khát tình yêu mãnh
liệt. Bài thơ có hai hình tượng song song và tương trợ lẫn nhau, đó là “Sóng” và “Em”, cả
hai đã cùng nhau tạo nên nét riêng biệt cho bài thơ. Trong bài thơ, song song với hình
tượng “Sóng” là hình tượng “Em”. “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con gái
đang yêu, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình. Hai nhân vật “sóng” và em”, tuy hai nhưng
lại là một, tuy một những lại là hai. Có lúc phân đôi ra để soi chiếu, làm nổi bật sự tương
đồng; lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo nên sự cộng hưởng. Hai hình tượng này song
song với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, vừa soi sáng vừa bổ sung cho nhau nhằm diễn tả
một cách quyết liệt hơn, sâu sắc hơn và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang dâng trào
trong trái tim nữ thi sĩ, trong trái tim những người trẻ đang yêu.
C. Đánh giá chung vnội dung, nghệ thuật: Tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng
đtài muôn thuở được các thi sĩ khai thác và thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Các
nhà văn, nhà thơ thường thông qua những biểu tượng, quy luật tự nhiên trong cuộc sống
hay những vật gần gũi, thân quen để von, ẩn dụ khi nói về tình yêu. Như nhà thơ Nguyễn
Trung Kiên dùng hình tượng Đôi dép” để triết sâu sắc về sự gắn bó, thủy chung, son
sắt trong tình yêu. Nhà thơ Cao thì tình yêu đôi lứa như ngọn “Núi đôi” không thể
chia lìa “núi chồng núi vợ đứng song đôi”; nhà thơ Trần Hòa Bình vô tình nhìn thấy một
chiếc lá rụng giữa mùa thu cũng có bài thơ hay để chiêm nghiệm về cuộc đời, về tình yêu.
Nhưng lẽ, hình tượng được nói đến nhiều nhất thể hiện được sự tinh tế, đằm thắm
mà dữ dội, mãnh liệt nhất của tình yêu là hình tượng sóng biển. Và, một trong những nhà
lOMoARcPSD|59629529
thơ đã mượn hình tượng sóng biển để nói về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữa trong tình
yêu một cách thành công nhất trên thi đàn thơ ca Việt Nam hiện đại nữ thi sĩ mang tên
Xuân Quỳnh. Quá trình tiếp nhận tạo ra sự đồng cảm sẽ giúp người đọc thể nghiệm sâu
vào tác phẩm, cảm nhận cái hay cái đẹp của bài thơ, từ đó đưa bài thơ trường tồn cùng
năm tháng. Thơ ca vậy. Chỉ những cảm xúc dạt dào chân thành nhất mới thế
vun đắp nên một bài thơ hay giá trị. Đc biệt “thơ tiếng nói chung cho cả loài người”.
Bài thơ khiến người ta đồng cảm bắt gp chính mình trong đó sẽ sức lan tỏa sâu rộng
hơn. Thơ Xuân Quỳnh vì thế gây được tiếng vang lớn trong lòng bạn đọc và nền thơ hiện
đại Việt Nam. Tình cảm chân thành, rất mực thẳng thắn làm nên những nét thơ đi cùng
năm tháng. Khát vọng tình yêu trong con người Xuân Quỳnh kết tinh trong thơ ca lan
truyền sang người đọc những khát khao mãnh liệt, chính đáng.
D. Kết bài: Bài thơ “Sóng” của nữ hoàng thơ tình - Xuân Quỳnh giống như một câu
chuyện cổ tích đời thường về tình yêu. Có lẽ, khi đọc bài thơ này, những trái tim đã từng
đau đớn, thất vọng, mất niềm tin trong tình yêu cũng sẽ thêm một lần nữa được thổn thức
với những xúc cảm mà nó mang lại. Bởi nó đánh thức, khơi dậy trong ta về nguồn gốc, về
đạo lý, ân tình của tình yêu khiến mỗi câu thơ, mỗi ý thơ như sợi chỉ đan vào tâm hồn ta
bao sợi nhớ sợi thương, se lành bao vết thương dù đã tổn thương. Từ đó soi chiếu vào tình
yêu của mình để ta biết trân trọng nhau hơn, đặc biệt trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữa khi họ đã dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu.
11. ĐẤT NƯỚC (TRÍCH TRƯỜNG CA MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG – NGUYỄN
KHOA ĐIỀM)
A. Mở bài: Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong
mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. Ai đó cũng khẳng định:
“Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim
không có tổ, cái cây không có rễ...”. Rồi có một lúc nào đó ta cũng sẽ tự hỏi lòng:
“Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Tình yêu quê hương đất nước,
yêu lịch sử, lẽ cng hiến và gắn bó cuộc đời mình với đất nước, nhân dân đã khiến
biết bao hồn thơ cất cánh. Cũng vì những tình cảm lớn lao ấy mà cuối năm 1971,
trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời. Nguyễn Khoa Điềm
là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong
những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp
dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảmc nồng nàn và suy tư sâu lắng ca người trí
thức về đất nước, con người Việt Nam, đặc biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh
hùng. Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca "Mặt
đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm được xem là một trong những đoạn thơ
hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Và …. ( đề bài)
lOMoARcPSD|59629529
B. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ HCST: Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
không khí sục sôi chống của cả dân tộc được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước,
giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
+ Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều
những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học
thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện
vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ: Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây m che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc.
Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm nh như lối trò
chuyện thân mật; hình ảnh ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian viết về đất
nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ba chiều
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tưởng tính then chốt: tưởng "Đất Nước của Nhân dân". ( HOẶC
NGẮN GỌN: Bài thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước đất nước sự hội tụ, kết
tinh công sức khát vọng của nhân dân. Qua đó vẻ đẹp của đất nước được tác giả phát
hiện có chiều sâu, trên nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí và văn hóa.) + Bố cục Đoạn trích
gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn các
phương diện nhiềumặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó
nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.C. Đánh giá
nội dung và nghệ thuật:
lOMoARcPSD|59629529
+ Về nội dung: Tác giả hòa quyện giữa trí tình cảm, giữa trí tuệ cảm c khi nói
về đất nước. Tác giả m vtruyền thống để thấy bản chất con người dân tộc Việt
Nam. Ông không nhìn đất nước qua dáng vẻ bngoài mà hướng vào bên trong tâm hồn.
Đất nước xuất hiện gần gũi, thiêng liêng.
+ Về nghệ thuật: Giọng thơ trữ tình – chính luận. Thể thơ tự do, giàu nhạc điệu. Từ “ Đất
Nước” danh tchung nhưng được viết hoa như danh từ riêng, nhằm thể hiện thái độ
thành kính của tác giả. Vận dụng thành công, sáng tạo nhiều yếu tố văn học dân gian.
D. Kết bài: "Văn học đối với tôi một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới" (Pautopxky).
Kỳ diệu làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được
soi ng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái
ngọt, cho sự sống vút cao trên mỗi trang văn, trang thơ. Đoạn trích "Đất nước", trích trường
ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm chính những trang thơ hướng chúng
ta đến một tình cảm đẹp đẽ ấy là tình yêu quê hương, đất nước. Để từ khi đọc nó, nếu
ai hỏi tôi hai tiếng thiêng liêng nhất mà tôi biết là gì, tôi chẳng ngần ngại mà trả lời đó là
"Đất Nước", tôi sẽ nói vđất nước, tổ quốc như nhà thơ Nga, Sergei Aleksandrovich
Yesenin: “Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọi Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!
Tôi sẽ đáp: Thiên đường xin để đấy
Cho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương”

Preview text:

lOMoARcPSD| 59629529
MỞ BÀI – KHÁI QUÁT CHUNG – ĐÁNH GIÁ – KẾT BÀI 1/ Truyện ngắn “VỢ NHẶT” – Kim Lân A.
Mở bài: Đến với mảnh đất văn chương, nếu Nguyễn Công Hoan coi “đời là mảnh
ghép của những nghịch cảnh”; Thạch Lam ví “đời là miếng vải có nhiều lỗ thủng, nhiều
vết ố nhưng vẫn nguyên vẹn”; và Nam Cao thì coi “cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách
tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận”, thì Kim Lân lại không nhìn đời
bằng con mắt “đau thương” như thế! Kim Lân là cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn
về đề tài nông thôn. Những sáng tác của ông phản ánh một cách chân thật, xúc động
về cuộc sống và người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ cũng như tâm lí của họ
- những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng
tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”, tác phẩm vừa là bức tranh hiện
thực về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu vừa là bài ca ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh
liệt của con người vào tương lai, vào Cách mạng, vào tình người. Và … (yêu cầu của đề) B.
Đoạn giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Viết về đề tài nông thôn, nhà văn Kim Lân
đã khơi gợi những cái chưa ai khơi gợi, đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người
nông dân nghèo trong xã hội cũ, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và ông đã rất
thành công khi khắc họa chân dung người dân lao động tuy nghèo khổ, quanh năm chân
lấm tay bùn nhưng ở sâu trong họ vẫn luôn mang những phẩm chất cao đẹp. Truyện ngắn
“Vợ nhặt” ra đời là dựa vào cốt truyện cũ với nhan đề “Xóm ngụ cư” mà Kim Lân viết còn
dang dở sau Cách mạng. Truyện in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962. Truyện ngắn
“Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu – cái năm mà
người ta vẫn nhắc đến như một tai nạnthảm khốc khiến “hai triệu đồng bào ta bị chết đói
từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ”. Trong cái tình cảnh đó: Tràng, một thanh niên nghèo khổ làm
nghề đẩy xe bò thuê lại dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên,
bà cụ Tứ (mẹ Tràng) cũng ngạc nhiên không kém và ngay cả bản thân Tràng cũng không tin đó là sự thật. C.
Đánh giá nghệ thuật và nội dung: Bằng ngôn từ giản dị và tình huống truyện độc
đáo, đầy bất ngờ. Nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi dựng lên một thước phim quay
chậm về cuộc sống của người dân xóm ngụ cư trong tình cảnh đói khát, thiếu thốn đến
cùng cực những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Càng khó khăn, càng đói
khổ bao nhiêu thì tình người lại càng sáng chói bấy nhiêu. Bởi ở đó, họ dù có khổ sở, có
cùng quẫn cũng không chà đạp lên nhau. Đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, người đọc
càng xót xa cho thân phận người nông dân bao nhiêu, lại càng oán hận tội ác của phát xít
Nhật, thực dân Pháp và bọn thực dân phong kiến bấy nhiêu. Chính chúng đã đẩy dân ta
vào cảnh túng đói khinh hoàng “người chết như ngả rạ”, “hơn hai triệu đồng bào ta chết
đói” từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Bởi vậy, nhà văn cũng không quên gieo vào lòng người
đọc sự hoan hỉ khi xây dựng hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” ở cuối truyện. Lá cờ ấy lOMoARcPSD| 59629529
như một lời khẳng định: Nhân dân ta nhất định sẽ chiến thắng. Kẻ gian ác tàn bạo nhất
định sẽ bị lụi bại dưới ánh sáng của Cách mạng Việt Nam.
D.KẾT BÀI: Truyện ngắn “Vợ nhặt” đọng lại trong lòng độc giả vô số những ấn tượng
khác nhau: từ cách miêu tả khung cảnh ngày đói một cách chân thực đến biễn biến tâm lý
bậc thầy của Kim Lân, nhưng có lẽ cái đọng lại cuối cùng vẫn là cách nhìn đời, nhìn người
đầy xót xa và thương yêu của nhà văn, là niềm tin mà dường như ông muốn trao gửi đến
tất cả chúng ta qua thiên truyện: Rằng, dù cuộc sống có bi thảm đến đâu thì cái cội nguồn
nhân bản lưu giữ trong nhân dân vẫn là bất diệt; rằng con người không có khao khát chính
đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên người.
2. Truyện ngắn “VỢ CHỒNG A PHỦ” – TÔ Hoài A.
Mở bài: Nhà văn Phan Anh Dũng nói về Tô Hoài rằng: “Hơn cả một nhà văn, Tô
Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi,
trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những
miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành”.
Quả đúng như vậy,
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sớm
bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều
thể loại và thể loại nào cũng gặt hái được những thành công rực rỡ. Đặc biệt là những tác
phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, bởi ông rất am hiểu về
phong tục tập quán cũng như văn hóa nhiều vùng miền khác nhau. Tô Hoài luôn có những
cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp
phần làm nên sự hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống
tinh thần của người đọc nhiều thế hệ…. (Yêu cầu của đề) B.
Đoạn giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được rút
trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1952, là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này.
Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền
núi dưới ách áp bức, thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, vừa là một bài ca về
sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Truyện có hai phần: Phần đầu kể
về cuộc sống đầy tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài – nơi bọn thống lý ngự trị độc
tôn, người dân cực khổ có đấu tranh nhưng chỉ là đấu tranh tự phát (chính là đoạn trích
trong chương trình Ngữ văn 12); phần sau là thời kì ở Phiềng Sa – nơi thực dân là kẻ thống
trị cao nhất, con người đấu tranh tự giác để tự giải phóng đời mình, dưới sự giác ngộ và lãnh đạo của Đảng. C.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Bằng nghệ thuật miêu tả, phân tích sâu sắc tinh
tế cùng với cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, giọng trần thuật của tác giả hòa vào độc thoại
nội tâm nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đ♘c sắc, Tô Hoài đã tái hiện chân thực,
sinh động câu chuyện về những người dân vùng cao bị áp bức. Đ♘c biệt, với tài năng nghệ lOMoARcPSD| 59629529
thuật và trái tim ấm nóng của người cầm bút, Tô Hoài đã đi sâu vào tâm hồn để thấu hiểu
được thế giới nội tâm và những khát vọng thầm kín của nhân vật. Ông còn khám phá được
“hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn con người”, tạo nên giá trị nhân văn cao cả cho
tác phẩm. Đến với “Vợ chồng A Phủ” chúng ta không thể tìm được những cá tính đ♘c sắc
trong nhân vật như Xuân tóc đỏ trong “Số đỏ”, Tràng trong “Vợ nhặt” hay Chí Phèo trong
truyện cùng tên của nhà văn Nam Cao... Bởi đó không phải là chủ đích của Tô Hoài khi
viết thiên truyện này. Nhà văn muốn dành sự quan tâm cho một vấn đề khác, cấp bách hơn:
đó là “vấn đề số phận” – số phận của con người, số phận của cả một cộng đồng người nông
dân lao động dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến trên những triền núi Tây Bắc heo hút.
D.Kết bài: Rồi A Phủ và Mị sẽ trở thành vợ chồng, sẽ giác ngộ cách mạng và lần lượt trở
thành du kích giải phóng quê hương đất nước nhưng đó là nửa sau của truyện, là lúc họ
đưa nhau đến Phiềng Sa. Còn khi đọc hết nửa đầu của truyện, gấp trang sách lại mà một
Tây Bắc xa xôi vẫn quanh quẩn đâu đó thật gần. Bởi lẽ, “Vợ chồng A Phủ” đã chinh phục
trái tim của mọi độc giả. Sức chinh phục ấy không phải là từ thứ văn chương bay bổng hay
những ngôn từ hoa mĩ, mà là ở chỗ nhà văn đứng về phía khát vọng được sống, được yêu
để tố cáo cái xã hội thực dân đã giam hãm, trói buộc, hủy hoại tuổi xuân của con người
đ♘c biệt là người phụ nữ. Và sâu sắc hơn cả là tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài khi
tin tưởng vào sức sống bất diệt, tin tưởng vào khả năng tự vươn lên, phản kháng cái hiện
thực đen tối để tìm đến với tình yêu, tự do và hạnh phúc.
3. Truyện ngắn CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – Nguyễn Minh Châu A.
Mở bài: Một nhà văn đã từng nói: “Có những hình ảnh thoạt mới nhìn thì đẹp, thậm
chí là rất đẹp, nhưng nếu nhìn kĩ bên trong, đi sâu vào bản chất của nó thì hoàn toàn ngược
lại. Cuộc sống nhiều khi thường "đánh lừa" ta như thế. Phải có con mắt tinh tường nhìn
thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó.
Và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy! Nguyễn
Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì
đổi mới, là “vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới” – “người mở đường tinh
anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế
sự, đời tư mang đậm chất triết lý nhân sinh trong giai đoạn văn học mới, khác xa với cảm
hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn…. (Yêu cầu của đề) B.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lúc đầu
được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn
(in năm 1987). Truyện in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu
cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng những chiêm nghiệm sâu
sắc của ông về “nghệ thuật và cuộc đời”. lOMoARcPSD| 59629529 C.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Nhà văn Nguyên Minh Châu từng bộc bạch
trong tập tiểu luận “Trang giấy trước đèn” của mình rằng: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước
hết để làm cái công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ bị cái ác ho♘
c số phận đen đủi dồn đến chân tường, để bênh vực cho những con người không
còn được ai bênh vực”. Chính vì vậy, khi hướng ngòi bút của mình về văn học, Nguyễn
Minh Châu quả quyết: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người”, sẽ đến một lúc văn học “phải viết về con người, trước sau con người cũng leo
lên trên sự kiện để đòi quyền sống” và nhà văn chân chính thì bao giờ cũng “mang n♘ng
trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người”. Sau cách mạng, những
sáng tác của Nguyễn Minh Châu đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, từ cái nhìn hiện thực
đa chiều, mang đậm chất triết lý nhân sinh. Điều đó đã giúp ông nhận ra đời sống con
người bao gồm cả qui luật tất yếu lẫn những điều may rủi khó lường, ông day dứt về việc
con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có.
Nguyễn Minh Châu tâm niệm: “Văn học ra đời để gìn giữ trong từng con người – một cái
gì hết sức mong manh và luôn luôn run rẩy… một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu
nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được,
và trở thành một tại họa cho loài người”. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng
gói trọn những suy tư, trăn trở của ông. Đó là gánh n♘ng mưu sinh giam hãm vợ chồng
người dân hàng chài trong cảnh tối tăm, đói khổ, bấp bênh. Điều ấy khiến người chồng trở
thành một kẻ vũ phu, thô bạo. Còn người vợ vì thương con nên nhẫn nhục, chịu đựng sự
ngược đãi của người chồng mà chị không hề biết chính việc ấy đã làm tổn thương tâm hồn
đứa con thơ dại. Vì thương mẹ, cậu bé trở nên thù địch với cha, nhưng rồi liệu trong tương
lai cậu có thể sống khác cha mình hay cũng chỉ là một bản sao – cũng tàn tệ vũ phu như
người bố? Đằng sau câu chuyện là cái nhìn ấm áp, nhân hậu của nhà văn: sự trân trọng, tin
yêu vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự bao dung và can đảm của người phụ nữ. Đó
không phải là vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những “hạt ngọc khuất lấp”, lẫn trong lấm
láp lam lũ đời thường. Theo ông, tình yêu của người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê
vừa là nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của
những người xung quanh. Điều này đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho thiên truyện.
D.Kết bài: Đọc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta có thể nhận thấy vẻ đẹp của ngòi
bút Nguyễn Minh Châu và các giá trị sâu sắc mà ông để lại, tất cả đều toát ra từ tình yêu
tha thiết với con người cùng khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp trong
cốt cách con người. Khép lại những trang văn kể về cuộc đời người đàn bà hàng chài vô
danh nơi vùng biển, dư âm của nó vẫn còn day dứt, ám ảnh trong lòng độc giả mãi tận hôm nay và mãi mãi về sau. lOMoARcPSD| 59629529
4.Kịch “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” -Lưu Quang Vũ A.
Mở bài: Bước vào thời kì văn học đổi mới, một trong những chuyển biến làm nên
tiếng vang cho giai đoạn này, chính là sự xuất hiện “nở rộ” của kịch. Và Lưu Quang Vũ
chính là một nhà thơ, nhà viết kịch xuất sắc nhất của nền kịch nói Việt Nam. Thành công
lớn nhất của ông là ở lĩnh vực sân khấu và ông được coi là “ngòi bút vàng của sân khấu Việt Nam”. Kịch
Lưu Quang Vũ đ♘c sắc trên nhiều phương diện: đó là sự kết giữa kịch bản văn học và
nghệ thuật sân khấu, giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống; giữa sự phê phán
mạnh mẽ và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng. Những tác phẩm của ông luôn là những
bức thông điệp gửi tới người đọc, người xem những vấn đề xã hội có tính nhân văn sâu
sắc…. (Yêu cầu của đề)… B.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gồm bảy
hồi, là một trong những vở kịch đ♘c sắc nhất của Lưu Quang Vũ đã được trình diễn rất
nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, ông đã xây
dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đ♘t ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng,
triết lí và nhân văn sâu sắc. Đoạn trích trong sách giáo khoa (Ngữ văn 12) là từ cảnh VII
và đoạn kết của vở kịch. Kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được chuyển thể từ một
câu chuyện dân gian: Trương Ba vốn là một người lương thiện, hiền lành, đánh cờ giỏi,
có học thức và rất yêu thương vợ con. Ông được mọi người nể trọng, con cháu hết mực
kính mến. Nhưng rồi con người đánh kính ấy lại bị chết một cách vô lý do sự tắc trách
của Nam Tào, Bắc Đẩu. Để sửa sai, họ đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt
vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba g♘p rất nhiều phiền
toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, người thân trong gia đình Trương Ba
cũng cảm thấy xa lạ... bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, sống
giả tạo. Đ♘c biệt thân xác anh hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những
nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và
sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh
hàng thịt và chấp nhận cái chết.
C.Đánh giá chung nội dung và nghệ thuật: Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả đã gửi
gắm những thông điệp về lẽ sống thời cuộc vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết
liệt, vừa kín đáo sâu sắc. Điều nhấn mạnh ở đây là vẻ đẹp tâm hồn của những người dân
lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, thói xấu, thói giả tạo để bảo vệ sự
trọn vẹn trong nhân cách. Không chỉ có ý nghĩa về triết lý nhân sinh, về hạnh phúc con
người. Trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn phê phán một
số biểu hiện tiêu cực trong lối sống: Thứ nhất, con người đang sống và chạy theo những
ham muốn tầm thường về vật chất đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ
tâm hồn là cao quý, đời sống tâm hồn là đáng trọng mà lại sao nhãng việc chăm lo, vun lOMoARcPSD| 59629529
vén cho bề ngoài. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cấp bách, không kém phần
bức xúc, đó là tình trạng sống giả tạo, sống dối trá, sống không dám và sống không được
là chính mình. Đó là nguy cơ đẩy con người đến sự tha hóa do danh và lợi chỉ đường một cách nhanh nhất.
D.Kết bài: Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và vở kịch “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng nhuần nhuyễn một số thủ pháp nghệ thuật
một cách độc đáo, nhà biên kịch xây dựng tác phẩm dựa trên sự sáng tạo lại cốt truyện dân
gian. Nghệ thuật dựng cảnh, viết lời đối thoại, độc thoại, hành động, tính cách, tình huống...
tất cả đều đạt tới trình độ bậc thầy về kịch sân khấu. Thông qua vở kịch, ta như hiểu hơn
vấn đề triết lý nhân sinh về cái cao cả và cái thấp hèn, giữa cái dung tục tầm thường và cái
thanh khiết trong sáng mà Lưu Quang Vũ nhắn gửi thông qua cuộc đấu tranh giữa hai m♘t
hồn và xác trong một con người. Chính vì vậy, hơn 30 năm trôi qua nhưng những giá trị
của vở kịch vẫn còn là tấm gương phản chiếu cuộc sống xã hội một cách chân thực cho
thế hệ hôm nay và mai sau nghiền ngẫm.
5.Tùy bút NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân A.
Mở bài: Những năm 1960 là giai đoạn miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa, và “tâm hồn Tây Bắc” chính là một trong những miền đất mà có biết bao
nhà văn, nhà thơ đã hướng ngòi bút của mình tới để thực hiện quá trình lột xác văn học.
Và Nguyễn Tuân cũng đã mang “chủ nghĩa xê dịch” của mình đ♘t chân đến đó. Nguyễn
Tuân là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam
với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Ông là một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi
tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ,
thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng
đ♘c biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyên Tuân ở thể loại này
là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. B.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Đến với nghệ thuật Nguyễn Tuân đề cao sự tìm
tòi và sáng tạo, bởi “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới” trong những trang văn của
mình. Nguyễn Tuân rất sợ mình của ngày hôm nay giống mình của ngày hôm qua, ông sợ
nhất là sự trùng l♘p tầm thường trong văn chương. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa xê
dịch” làm đề tài cho các tác phẩm, làm mục đích sống cho cuộc đời của chính mình. Sống
là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình một chiếc “vali”,
Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu
quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách
mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ
sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói: ông đến
Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi và nhất là cái thứ vàng lOMoARcPSD| 59629529
mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc
xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu
nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn
ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những trang văn nở hoa về con người và thiên
nhiên miền sông núi này. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” ra đời sau chuyến đi thực tế
gian khổ đầy hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Nguyễn Tuân. Bài tùy bút
được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới sự kết hợp
của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi
hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành
tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí tuệ uyên bác
cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như thể thao, điện ảnh, quân sự... của Nguyễn Tuân. C.
Đánh giá về nội dung, nghệ thuật: Viết về người lái đò sông Đà trên vùng sông
núi của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc tha thiết đối với người lao động
và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động bao nhiêu thì hình ảnh ông lái
đò càng anh dũng, ngoan cường bấy nhiêu, từ đó ta lại càng thấy được tấm lòng nhân đạo
sâu sắc của nhà văn. Có lẽ, đối với người dân vùng sông nước Tây Bắc thì hình ảnh ông
lái đò thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng đó lại là người hùng
trong mắt Nguyễn Tuân và trong những trang văn của ông. Nhà văn đã phát hiện ra chất
nghệ sĩ tài hoa dám đương đầu với sóng to gió lớn, hăng hái lao động, quên mình vì công
việc chèo chống con thuyền trên sông. D.
Kết bài: Cuộc sống quanh ta luôn vận động với theo vòng quay của đất trời, nhưng
suy cho cùng ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi nhưng chính Nguyễn Tuân
đã mang đến cho ta một thế giới mới, tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là một nhà văn
góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân
trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác!
6.Truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” – Nguyễn Trung Thành A.
Mở bài: Chiến tranh qua đi đã để lại cho chúng ta không biết bao nhiêu là đau
thương mất mát: có những bà mẹ đau xót tiễn con lên đường ra m♘t trận không lâu đã
phải nhận tin con hi sinh; có những người vợ bỏ cả thanh xuân để chấp nhận sự thật về
người chồng đã “gửi thân xác nơi chiến trường”, “vợ mất chồng, con mất cha, gia đình
mất bị một người thân yêu” thật khó có thể diễn tả được nỗi đau này thành lời. Và sự mất
mát về người lại làm tôi nhớ đến hình ảnh cây xà nu kiên cường bất khuất: “nó có sức chịu
đựng ghê gớm và có sức sống mãnh liệt, tượng trưng cho sức sống của người dân làng Xô
Man và nhân dân Tây Nguyên bất khuất: “Cây xà nu ham ánh nắng m♘t trời, hóng lên rất lOMoARcPSD| 59629529
nhanh” như chính khát vọng vươn tới tự do, hướng về hòa bình của người dân nơi đây
được thể hiện qua truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyên Trung Thành. B.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn
học Việt Nam hiện đại và trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mĩ, Nguyễn Trung Thành đã khẳng định tên tuổi của mình với vô số các tác phẩm
viết về mảnh đất Tây Nguyên anh dũng quả cảm, kiên cường bất khuất. Và “Rừng xà nu”
viết năm 1965 là một trong những thành công xuất sắc của ông. Tác phẩm là một thiên
truyện kết tinh những vẻ đẹp cơ bản của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn xuôi kháng chiến. C.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Nguyễn Trung Thành đã tạo cho truyện một
không khí sử thi hùng tráng và một bức tranh đầy màu sắc Tây Nguyên đậm đà giữa cảnh
vật và con người. Đồi xà nu, rừng xà nu trong mưa đạn vẫn nối tiếp nhau “ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra che chở cho làng”. Đó cũng chính là hình ảnh lớp lớp thế hệ người dân
làng Xô Man nối tiếp nhau đánh gi♘c bảo vệ quê hương đất nước. Tất cả những nét vẽ sắc
sảo đầy ấn tượng đó là âm thanh trầm bổng trong bản hùng ca chống Mĩ thời đại Hồ Chí
Minh: mỗi một người, một cuộc đời là một nốt nhạc trong khuôn nhạc bất hủ ấy. Với ngôn
ngữ đậm tính sử thi kết hợp với chất lãng mạn trữ tình, lời văn giàu tính tạo hình, tạo nhạc,
khi trầm ngâm da diết khi nghiêm trang hào hùng. “Rừng xà nu” đã tái hiện sinh động
cuộc chiến đấu của người dân núi rừng Tây Nguyên. Mỗi trang văn dưới ngòi bút nhà văn
Nguyễn Trung Thành là cả một trang sử vàng “đau thương nhưng anh dũng” của làng Xô
Man, của Tây Nguyên quật khởi và cả những gương m♘t ưu tú của người dân miền Nam
trong thời lửa đạn chống Mỹ - Ngụy, có những nỗi đau ghê gớm nhưng vẫn sáng ngời ý
chí kiên cường bất khuất. Và cứ thế “Rừng xà nu” bất chấp bom đạn, sinh sôi nảy nở, “ưỡn
tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. D.
Kết bài: “Rừng xà nu” đã nói gì? Nó nói rằng: với những người như Tnú, hội tụ tất
cả những điểm “có” trong tay: có sức cường tráng của thân cây xà nu lớn; có đủ gan góc,
thừa kiêu hãnh đến bướng bỉnh; không sợ chết, không biết đến khuất phục nhưng vẫn
“không cứu sống được mẹ con Mai”, không bảo vệ được tình yêu và gia đình nhỏ của
chính mình. Vì sao vậy? Vì Tnú chỉ có tay không giữa những loại vũ khí tối tân của quân
thù. Như vậy, “Rừng xà nu” không chỉ đơn thuần là câu chuyện về cuộc đời một con người,
một đời người mà nó là câu chuyện của một thời đại, một đất nước với chân lý cách mạng:
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
7. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – Hoàng Phủ Ngọc Tường
A. Mở bài: Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế, là nhà văn gắn bó máu thịt với
mảnh đất miền Trung và quê hương xứ Huế. Là nhà văn chuyên về bút kí, bút kí của ông có sự
kết hợp giữa trữ tình và chính luận, giữa trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và chiều sâu văn
hóa, khả năng liên tưởng, tưởng tượng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ. Bài kí Ai đã đặt tên ho dòng lOMoARcPSD| 59629529
sông đã thể hiện tình yêu tha thiết, say đắm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế của tác giả.
Qua đó, bộc cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cái tôi đầy tài hoa, uyên bác, giàu
tình cảm và trí tưởng tượng phong phú. (Và đoạn trích….đã cho ta thấy…..) B. Khái quát chung:
- Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế ngày 4 – 1 – 1981, in trong tập sách
cùng tên. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường: Tri
thức phong phú, cảm xúc sâu lắng, văn phong tao nhã. Bài bút kí gồm ba phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất.
- Sông Hương là hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm và cũng là đối tượng trữ tình củabài
kí. Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, vốn văn hóa phong phú và tình yêu tha thiết quê hương xứ
Huế, tác giả đã viết nên những dòng kí tràn đầy cảm xúc về dòng sông Hương – Con sông chỉ
chảy duy nhất qua một thành phố - thành phố Huế. Sông Hương được nhìn từ nhiều góc độ nên
vẻ đẹp con sông được phát hiện bất ngờ và khá độc đáo.
- Đoạn trích nằm ở phần … cho ta thấy…. C.
Đánh giá chung: Bài kí thể hiện chất trí tuệ, tình yêu, trí tưởng tượng tài hoa của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Bài kí đậm chất sử thi, giàu cảm hứng trữ tình lãng mạn. Dùng nhiều biện pháp
tu từ như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…Ngôn ngữ giàu hình ảnh nên người đọc dễ dàng liên tưởng.
Tùy bút được xây dựng bằng nhiều kiến thức: địa lí, lịch sử, văn hóa…Đoạn trích bài bút kí “Ai
đã đặt tên cho dòng sông?” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Qua đoạn
trích, người đọc cảm nhận được tình yêu và niềm tự hào của tác giả về quê hương xứ sở. D.
Kết luận: Nguyễn Tuân, một nhà văn cũng chuyên viết kí nhận xét “Kí của Hoàng Phủ
Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”. Phải chăng ánh lửa trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường chính
là vẻ đẹp của văn chương được thắp lên từ những con chữ biến hóa như phép màu. Đúng như
Maiacốpxki nhận xét về quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ:
Phải đổi lấy hàng ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.
Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng văn hay đặc sắc về xứ sở, về tình
yêu quê hương đất nước và cũng rất tiêu biểu cho phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong
muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.
8. Bài thơ “VIỆT BẮC” – Tố Hữu
A. Mở bài:
Tố Hữu chính là một đại biểu xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền
văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối trong cuộc đời mình ông đều gắn bó với
con đường cách mạng giải phóng dân tộc, là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ
của ông luôn gắn bó, song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh
nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc,
dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dễ đi vào lòng người, trở
thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ "Việt Bắc" được đánh giá là đỉnh cao lOMoARcPSD| 59629529
trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài
thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954. Đoạn trích…..đã thể hiện ….(đề
bài) B. Khái quát chung:
- Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử
ĐiệnBiên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập
lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra.
Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có
tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao
lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự
kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-
1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta có nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường
lịch sử đã đi qua, lí giải chiến thắng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi
phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
- Kết cấu bài thơ:
+ Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong
ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là
những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức
đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết
tha vừa sâu nặng nghĩa tình.
+ Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình
cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. C.
Đánh giá chung: Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca,
ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào,
truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện
pháp tu từ như điệp từ, hoán dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu
lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán
bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách
mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng. D.
Kết bài: -Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và
chiến thắng vẻ vang của dân tộc. từ đó thể hiện tình yêu quê hương, đất nước đã trở thành
một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trở thành bài
ca đi cùng năm tháng. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng
ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc. lOMoARcPSD| 59629529
9.Bài thơ “TÂY TIẾN” – Quang Dũng A.
Mở bài: Nhận xét về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: “Một
ngọn hút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi
mát, sâu lẳng, đau thương mà không hề bi lụy”. Quả đúng như thế! Quang Dũng là một
người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc,... Nhưng trước hết phải nói
Quang Dũng là một hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng
mạn. Ông đã thực sự thành công khi viết về người lính, và “Tây Tiến” là bài thơ tiên phong
cho phong cách thơ Quang Dũng…. Và khổ thơ… (yêu cầu của đề) B.
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Muốn hiểu được bài thơ “Tây Tiến”, trước hết cần
phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng
cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị
thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới
Việt – Lào, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những
vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm
vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Mai Châu, Châu Mộc sang tận Sầm
Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và
hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ. Những người lính binh đoàn Tây
Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Thành, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó
có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những
người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau bệnh tật không có thuốc, tử vong vì sốt rét
nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian
khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn. C.
Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật: Một điều không thể phủ nhận là đ♘c
điểm văn học từng giai đoạn sẽ chi phối phong cách sáng tác của các văn nghệ sẽ khi cầm
bút viết lên những thi phẩm làm giàu cho nền văn học Việt Nam. Và nhà thơ đa tài mang
tên Quang Dũng cũng không ngoại lệ, bởi bài thơ Tây Tiến sáng tác vào năm
1948 thuộc ch♘ng đường phát triển 1945 - 1954: Văn học lúc này tập trung phản ánh cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Vậy nên, đến với cách mạng và kháng chiến, các văn
nghệ sĩ đều thể hiện lòng yêu nước và tinh thần yêu dân tộc. Chính hình ảnh người lính
người lính Tây Tiến cũng không ngại khó khăn gian khổ, vất vả, hi sinh, “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh” đã góp phần tạo nên thành công của nền văn học kháng chiến. Và ...đã
góp phần làm cho ta thêm yêu, thêm trân trọng những những người lính bộ đội cụ Hồ và
càng tự hào hơn về nên văn học nước nhà giai đoạn này.
D.Kết bài: Một thời đại chiến tranh khói lửa, gian nan thách thức, hy sinh xương máu mà
vẫn thật oai hùng đã được Quang Dũng dựng lại qua bài thơ Tây Tiến. Đặc biệt nhà thơ đã
xây dựng thành công bức tượng đài sừng sững về người lính Tây Tiến bằng những đường lOMoARcPSD| 59629529
nét cụ thể và tiêu biểu từ hình dáng đến tâm hồn. Bức tượng đài ấy sẽ đứng hiên ngang
trong lòng những người yêu thơ ca nói riêng và trong lòng người dân Việt Nam nói chung.
10.Bài thơ “SÓNG” – Xuân Quỳnh A.
Mở bài: Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, nhiều nhà thơ nổi tiếng viết rất
hay về tình yêu. Trước đó, ông hoàng của thơ tình Xuân Diệu cũng đã mượn hình tượng
“Biển” để bày tỏ tình yêu của mình; Đến với Xuân Quỳnh, chị lại mượn hình tượng “Sóng”
để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, phức tạp
vừa tha thiết, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu đương. Xuân
Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, luôn khao
khát hạnh phúc bình dị đời thường; đồng thời cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu
lo, luôn day dứt, trăn trở trong tình yêu. Chị viết nhiều và viết rất hay về tình yêu, trong
đó “Sóng” là một bài thơ tiêu biểu. Đến với Xuân Quỳnh và “Sóng”, thơ ca Việt Nam hiện
đại mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên
tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm của một trái tim phụ nữ đang yêu… (Yêu cầu của đề)… B.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác ở bãi
biển Diêm Điền vào năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng
của những con sóng biển, ẩn vào đó là những con sóng lòng đang khao khát tình yêu mãnh
liệt. Bài thơ có hai hình tượng song song và tương trợ lẫn nhau, đó là “Sóng” và “Em”, cả
hai đã cùng nhau tạo nên nét riêng biệt cho bài thơ. Trong bài thơ, song song với hình
tượng “Sóng” là hình tượng “Em”. “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con gái
đang yêu, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình. Hai nhân vật “sóng” và “em”, tuy hai nhưng
lại là một, tuy một những lại là hai. Có lúc phân đôi ra để soi chiếu, làm nổi bật sự tương
đồng; có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo nên sự cộng hưởng. Hai hình tượng này song
song với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, vừa soi sáng vừa bổ sung cho nhau nhằm diễn tả
một cách quyết liệt hơn, sâu sắc hơn và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang dâng trào
trong trái tim nữ thi sĩ, trong trái tim những người trẻ đang yêu. C.
Đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật: Tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng
là đề tài muôn thuở được các thi sĩ khai thác và thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Các
nhà văn, nhà thơ thường thông qua những biểu tượng, quy luật tự nhiên trong cuộc sống
hay những vật gần gũi, thân quen để ví von, ẩn dụ khi nói về tình yêu. Như nhà thơ Nguyễn
Trung Kiên dùng hình tượng “Đôi dép” để triết lý sâu sắc về sự gắn bó, thủy chung, son
sắt trong tình yêu. Nhà thơ Vũ Cao thì ví tình yêu đôi lứa như ngọn “Núi đôi” không thể
chia lìa “núi chồng núi vợ đứng song đôi”; nhà thơ Trần Hòa Bình vô tình nhìn thấy một
chiếc lá rụng giữa mùa thu cũng có bài thơ hay để chiêm nghiệm về cuộc đời, về tình yêu.
Nhưng có lẽ, hình tượng được nói đến nhiều nhất và thể hiện được sự tinh tế, đằm thắm
mà dữ dội, mãnh liệt nhất của tình yêu là hình tượng sóng biển. Và, một trong những nhà lOMoARcPSD| 59629529
thơ đã mượn hình tượng sóng biển để nói về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữa trong tình
yêu một cách thành công nhất trên thi đàn thơ ca Việt Nam hiện đại là nữ thi sĩ mang tên
Xuân Quỳnh. Quá trình tiếp nhận tạo ra sự đồng cảm sẽ giúp người đọc thể nghiệm sâu
vào tác phẩm, cảm nhận cái hay cái đẹp của bài thơ, từ đó đưa bài thơ trường tồn cùng
năm tháng. Thơ ca là vậy. Chỉ có những cảm xúc dạt dào và chân thành nhất mới có thế
vun đắp nên một bài thơ hay có giá trị. Đ♘c biệt “thơ là tiếng nói chung cho cả loài người”.
Bài thơ khiến người ta đồng cảm và bắt g♘p chính mình trong đó sẽ có sức lan tỏa sâu rộng
hơn. Thơ Xuân Quỳnh vì thế gây được tiếng vang lớn trong lòng bạn đọc và nền thơ hiện
đại Việt Nam. Tình cảm chân thành, rất mực thẳng thắn làm nên những nét thơ đi cùng
năm tháng. Khát vọng tình yêu trong con người Xuân Quỳnh kết tinh trong thơ ca và lan
truyền sang người đọc những khát khao mãnh liệt, chính đáng. D.
Kết bài: Bài thơ “Sóng” của nữ hoàng thơ tình - Xuân Quỳnh giống như một câu
chuyện cổ tích đời thường về tình yêu. Có lẽ, khi đọc bài thơ này, những trái tim đã từng
đau đớn, thất vọng, mất niềm tin trong tình yêu cũng sẽ thêm một lần nữa được thổn thức
với những xúc cảm mà nó mang lại. Bởi nó đánh thức, khơi dậy trong ta về nguồn gốc, về
đạo lý, ân tình của tình yêu khiến mỗi câu thơ, mỗi ý thơ như sợi chỉ đan vào tâm hồn ta
bao sợi nhớ sợi thương, se lành bao vết thương dù đã tổn thương. Từ đó soi chiếu vào tình
yêu của mình để ta biết trân trọng nhau hơn, đặc biệt là trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữa khi họ đã dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu.
11. ĐẤT NƯỚC (TRÍCH TRƯỜNG CA MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG – NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
A. Mở bài: Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong
mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. Ai đó cũng khẳng định:
“Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim
không có tổ, cái cây không có rễ...”.
Rồi có một lúc nào đó ta cũng sẽ tự hỏi lòng:
“Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Tình yêu quê hương đất nước,
yêu lịch sử, lẽ cống hiến và gắn bó cuộc đời mình với đất nước, nhân dân đã khiến
biết bao hồn thơ cất cánh. Cũng vì những tình cảm lớn lao ấy mà cuối năm 1971,
trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời. Nguyễn Khoa Điềm
là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong
những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp
dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí
thức về đất nước, con người Việt Nam, đặc biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh
hùng. Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca "Mặt
đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm được xem là một trong những đoạn thơ
hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Và …. ( đề bài) lOMoARcPSD| 59629529
B. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ HCST: Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước,
giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
+ Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học
thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện
vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ: Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp: Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc.
Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò
chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất
nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". ( HOẶC
NGẮN GỌN: Bài thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước – đất nước là sự hội tụ, kết
tinh công sức và khát vọng của nhân dân. Qua đó vẻ đẹp của đất nước được tác giả phát
hiện có chiều sâu, trên nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí và văn hóa.) + Bố cục Đoạn trích gồm hai phần: -
42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các
phương diện nhiềumặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó
nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước. -
46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.C. Đánh giá
nội dung và nghệ thuật: lOMoARcPSD| 59629529
+ Về nội dung: Tác giả hòa quyện giữa lí trí và tình cảm, giữa trí tuệ và cảm xúc khi nói
về đất nước. Tác giả tìm về truyền thống để thấy rõ bản chất con người và dân tộc Việt
Nam. Ông không nhìn đất nước qua dáng vẻ bề ngoài mà hướng vào bên trong tâm hồn.
Đất nước xuất hiện gần gũi, thiêng liêng.
+ Về nghệ thuật: Giọng thơ trữ tình – chính luận. Thể thơ tự do, giàu nhạc điệu. Từ “ Đất
Nước” là danh từ chung nhưng được viết hoa như danh từ riêng, nhằm thể hiện thái độ
thành kính của tác giả. Vận dụng thành công, sáng tạo nhiều yếu tố văn học dân gian.
D. Kết bài: "Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới" (Pautopxky).
Kỳ diệu làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được
soi bóng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái
ngọt, cho sự sống vút cao trên mỗi trang văn, trang thơ. Đoạn trích "Đất nước", trích trường
ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm chính là những trang thơ hướng chúng
ta đến một tình cảm đẹp đẽ ấy là tình yêu quê hương, đất nước. Để từ khi đọc nó, nếu có
ai hỏi tôi hai tiếng thiêng liêng nhất mà tôi biết là gì, tôi chẳng ngần ngại mà trả lời đó là
"Đất Nước", tôi sẽ nói về đất nước, tổ quốc như nhà thơ Nga, Sergei Aleksandrovich
Yesenin: “Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọi Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!
Tôi sẽ đáp: Thiên đường xin để đấy
Cho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương”