Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội, phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Trái Đất một hành tinh kì diệu và khác biệt. Nó khác với mọi hành tinh khác ở chỗ nó có sự sống và nó là ngôi nhà duy nhất của chúng ta. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN
TÊN ĐỀ TÀI:
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI, PHÂN
TÍCH VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐOÀN ĐỨC HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1) ĐẶNG QUỐC BẢO MSSV: 23119003
2) VÕ TẤN PHÁT MSSV: 23119027
0
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: 2
- Lý do chọn đề tài 2
- Mục đích của đề tài 3
PHẦN CHÍNH
1. Cơ sở lí luận 4
1.1. Các khái niệm 4
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội 4
1.2.1. Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên 4
1.2.2. Tự nhiên – Con người – Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất 5
1.2.3. Tự nhiên – nền tảng của xã hội 6
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên 7
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội 8
1.2.6. Môi trường – vấn đề của chúng ta 9
2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam 13
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam 13
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam 14
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam 14
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam 15
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam 15
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học 15
2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam 17
2.2. Nhìn ra thế giới – Những bài học 19
2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới 19
2.2.2. Thế giới hành động – Lối thoát 21
2.3. Việt Nam hành động 22
PHẦN KẾT 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
1
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Trái Đất một hành tinh diệu khác biệt. khác
với mọi nh tinh khác chỗ có s sống ngôi
nhà duy nhất của chúng ta. S sống trên Ti Đất đã bắt
đầu từ những thành phần nhỏ bé nhất. Sự sống ấy đã phát
triển lên ngày một lớn mạnh. Thế rồi con người xuất hiện.
Kể từ lúc ấy sự sống trên Trái Đất đã thực khác trước. Con
người đã làm biến đổi thế giới xung quanh h một ch
mạnh mẽ n bất sinh vật nào khác cùng tồn tại trên
Trái Đất này. Điều gì đã làm cho họ được khả năng đó -
đó là tư duy để hành động.
Một trong số những vấn đề làm cho con người phải tư
duy nhiều nhất,lịch sử lâu dài nhất là mối quan hệ giữa
tự nhiên hội. Tự nhiên hội hai khái niệm lớn
nhất gần gũi nhất với con người. Con người đồng thời
tồn tại là sản phẩm của t nhiên hội do đó con
người quan tâm đến hai thực thể này lẽ đương nhiên.
Kể từ khi ra đời quan điểm về mối quan hệ này đã
thay đổi k nhiều. Trong một thời gian rất dài hai khái
niệm này đã được đem đối lập nhau, theo quan điểm đó tự
nhiên và xã hội hoàn toàn tách rời nhau, không liên quan
đến nhau. Quan điểm này ngày nay vẫn n tồn tại trong
quan điểm nhiều người đã dẫn đến nhiều hành vi phá hủy
thiên nhiên họ không biết rằng đang phá hủy tương lai
chính con em mình.
Quan niệm này quả một sai lầm lớn, thực tế
luận khoa học đều chứng tỏ rằng t nhiên hội
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng nằm trong một
tổng thể bao gồm tự nhiên, con người và xã hội.
Con người và xã hội đã dựa trên nền tảng tự nhiên
tồn tại phát triển, nhưng chính trong quá trình tồn
tại phát triển ấy thì nền tảng tự nhiên lại bị phá hủy,
2
đặc biệt trong thời đại hiện nay khi khoa học thuật
phát triển mạnh mẽ dân số toàn cầu đang bùng nt
tự nhiên và môi trường ng bị phá hủy mạnh mẽ hơn.
Các nhà bác học nhìn xa trông rộng như Z. Lamark, 1820
đã viết: "Mục đích của con người ờng như tiêu diệt
nòi giống mình, trước hết làm cho Trái Đất tr thành
không thích hợp với sự cư trú".
Nếu chúng ta không muốn tiên đoán oan nghiệt này
trở thành sự thật thì đã đến lúc đ nh động trước khi
quá muộn. Đã đến lúc con người cần xác địnhmối quan
hệ giữa hội của họ với tự nhiên quan tâm đến các
vấn đề môi trường.
Việt Nam một nước đang trong quá trình CNH - HĐH
đất ớc, chúng ta cũng những vấn đề về môi trường,
chúng ta cần phải quan điểm đúng đắn để giải quyết
những vấn đề này trước khi mọi việc trở nên quá tồi tệ.
Mục đích của đề tài:
Tiểu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của
Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa tự nhiên và
hội đồng thời trên sở: Mối quan hệ biện chứng giữa tự
nhiên hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện
nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó cũng được hi vọng thể thay đổi
được nhận thức hội nhằm tạo ra những thay đổi ch
cực trong hành động của mỗi nhân, tạo thuận lợi cho
việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đã được con
người quan tâm từ rất sớm, cho đến nay quan niệm về vấn
đề này đã trở nên hoàn thiện hơn bao giờ hết.
1.1. Các khái niệm:
Để bắt đầu chúng ta hãy làm rõ các khái niệm:
Tự nhiên: theo nghĩa rộng tự nhiên toàn b thế
giới vật chất cùng tận. Theo nghĩa này thì con người
và xã hội loài người cũng là một bộ phận của tự nhiên.
Chúng ta xem xét tự nhiên theo nghĩa này.
hội: nh thái vận động cao nhất của vật chất,
hình thái này lấy mối quan hệ của con người sự tác
động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Theo
Mác: " hội không phải gồm c nhân người. hội
biểu hiện tổng số mối liên hệ những quan hệ của các
cá nhân với nhau".
1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã
hội:
4
Tự nhiên và hội thực sự một mối quan hệ rất
chặt chẽ với nhau.
1.2.1 Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên:
Theo định nghĩa tự nhiên toàn bộ thế giới vật chất
tồn tại khách quan vậy con người hội loài người
cũng là một bộ phận của thế giới vật chất ấy - con người
và xã hội cũng là bộ phận của tự nhiên.
Nguồn gốc của con người t nhiên. Quá trình phát
triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống theo quy luật
tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã
xuất hiện từ động vật. Con người sống trong giới tự nhiên
như mọi sinh vật khác bởi con người là một sinh vật của tự
nhiên. Ngay cả bộ óc con người, cái con người vẫn tự
hào cũng chính sản phẩm cao nhất của vật chất. Chính
tự nhiên tiền đ cho s tồn tại phát triển của con
người.
Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh
học còn nhlao động. Lao động một quá trình được
tiến hành giữa con người với tnhiên, trong quá trìnhy
con người khai thác cải tiến giới t nhiên để đáp ng
nhu cầu tồn tại của mình. Trong lao động cấu tạo thể
người dần hoàn thiện do nhu cầu trao đổi thông tin
ngôn ngữ xuất hiện. Lao động ngôn ng là hai kích
thích chủ yếu chuyển biến bộ não động vật thành bộ o
người, tâm lý động vật thành tâm lý người.
Sự hình thành con người đi kèm với sự hình thành các
quan hệ giữa người với người, cộng đồng người dần thay
đổi từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mới khác
hẳn v chất, ta gọi đó hội. Đây cũng là quá trình
chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.
Vậy xã hội là gì?
hội hình thái vận động cao nhất của vật chất,
hình thái này lấy mối quan hệ của con người sự tác
động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. hội
5
biểu hiện tổng số mối liên hệ những quan hệ của các
nhân với nhau, "là sản phẩm của sự tác động qua lại
giữa những con người". Như vậy xã hội ng một bộ
phận của tự nhiên. Song b phận y tính đặc t thể
hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉnhững nhân tố
thức và quáng tác động lẫn nhau;n trong hội,
nhân tố hoạt động của con người có ý thức, hành động
suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt
động của con người không chỉ i sản xuất ra chính bản
thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
1.2.2. Tự nhiên - Con người - hội nằm trong
một chỉnh thể thống nhất:
Con người hội không chỉ là một bộ phận của t
nhiên. Hơn thế tự nhiên - con người - hội nằm trong
một chỉnh thể thống nhất.
Theo nguyên v nh thống nhất vật chất của thế
giới thì thế giới tuy cùng phức tạp, đa dạng được
cấu thành t nhiều yếu tố khác nhau song suy đến cùng
ba yếu tố cơ bản t nhiên, con người và hội loài
người. Ba yếu t y thống nhất với nhau trong một hệ
thống tự nhiên - con người - xã hội bởi chúng đều là những
dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính, mối
quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui
luật, tất c các quá trình trong tự nhiên, con người
hội đều chịu schi phối của những qui luật phổ biến nhất
định. Sự hoạt động của các qui luật đó đã nối liềnc yếu
tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn
phát triển không ngừng trong không gian và theo thời
gian.
Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa
tự nhiên và xã hội:
Con ngườisản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra
hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi
6
tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Để trở thành
một con người đích thực con người cần được sống trong
môi trường hội, trong mối quan h qua lại giữa người
với người với người. Con người mang trong mình bản nh
tự nhiên và bản chất hội. Chính thế ta thể nói
rằng con người còn hiện thân của sự thống nhất giữa
hội và tự nhiên.
1.2.3. Tự nhiên - nền tảng của xã hội:
hội tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương
tác với nhau. Đây một mỗi quan hệ biện chứng hai
chiều, trước hết ta xét chiều thứ nhất là những tác động
của tự nhiên lên xã hội loài người.
Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Tự nhiên vừa
nguồn gốc của s xuất hiện hội vừa môi trường
tồn tại và phát triển của xã hội.
Tnhiên nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội
hội được hình thành trong sự tiến a của thế giới vật
chất.
Tự nhiên môi trường tồn tại và phát triển của
hội chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần
thiết nhất cho sự sống của con người ng chỉ tự
nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho
các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không
thể sáng tạo ra được cái nếu không giới tự nhiên,
nếu không thế giới hữu hình bên ngoài. Đó vật liệu
trong đó lao động của con người được thực hiện, trong đó
lao động của con người c động, từ đó và nhờ đó, lao
động của con người sản xuất ra sản phẩm.
Tóm lại tự nhiên đã xung cấp mọi thứ cho sự tồn tại
của xã hội, mọi thứ lao động của con người cần.
chính lao động đã tạo ra con người
hội do đó vai trò của tự nhiên với xã hội cùng
to lớn. Tự nhiên thể tác động thuận lợi hoặc gây khó
7
khăn cho sản xuất xã hội; thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên:
Tự nhiênc động đế xã hội nhiều như thế nào thĩ xã
hội cũng tác động lại vào tự nhiên như thế.
Trước hết phải khẳng định lại rằng hội một bộ
phận của tự nhiên như vậy mỗi thay đổi của hội cũng
có nghĩa là tự nhiên thay đổi.
Bên cạnh đó hội còn tương tác với phần n lại
của tự nhiên một cách mạnh mẽ. Sự ơng tác này thông
qua các hoạt động thực tiễn của con người trước hết
quá trình lao động sản xuất. Lao động đặc trưng bản
đầu tiên phân biệt hoạt động của con người với động vật.
Song lao động cũng yếu tố đầu tiên, bản nhất, quan
trọng nhất tạon sự thống nhất hữu cơ giữa hội tự
nhiên. Bởi "lao động trước hết một q trình diễn ra
giữa con người tự nhiên, một quá trình trong đó bằng
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều
tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tnhiên".
Sự trao đổi chất giữa con người tự nhiên thể hiện
chỗ: tnhiên cung cấp cho con người điều kiện vật chất
để con người sống tiến hành hoạt động sản xuất. ng
chính trong quá trình sử dụng những nguồn vật chất này
con người đã làm biến đổi các điều kiện môi trường
xung quanh tức làm biến đổi tự nhiên một cách mạnh
mẽ. Hoạt động sống lao động sản xuất của con người
trong hội cùng phong phú nên sự tác động vào tự
nhiên cũng cùng phong phú như khai thác khoáng sản,
đánh bắt hay kể cả đốt rừng, đẩy trả rác thải ra t
nhiên...
Thực tế hội luôn c động tự nhiên. Giờ đây với
sức mạnh của khoa học công nghệ, một lực lượng dân số
khổng lồ, sự tác động này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ
hết.
8
Vấn đề hiện nay trong quá trình tác động y con
người cần kiểm tra, điều tiết việc sử dụng khai thác, bảo
quản c nguồn vật chất của tự nhiên, nếu không t
khủng hoảng sẽ xảy ra, s n bằng của hệ thống t
nhiên - xã hội sẽ bđe dọa. Ấy vậy hiện nay con người
lại đang đi
ngược lại với những điều đúng đắn: Con người chính
sinh vật khả ng làm biến đổi tự nhiên nhiều nhất -
Chính vậy họ đang sinh vật tàn phá thiên nhiên
khủng khiếp nhất. Tóm lại trong mối quan hệ với môi
trường tự nhiên hội có vai trò ngày ng quan trọng.
Để gi gìn môi trường tồn tại phát triển của mình con
người cần nắm chắc c qui luật tự nhiên, kiểm tra điều
tiết sử dụng hợp lí, bảo quản khai thác hiệu quả đảm
bảo kh năng tái tạo các nguồn vật chất của t nhiên,
đảm bảo cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội.
1.2.5. Những yếu tố c động đến mối quan hệ
giữa tự nhiên và xã hội:
nhiều yếu tố tác động đến mối quan h giữa tự
nhiên xã hội trong đó quan trọng nhất trình độ phát
triển của hội độ nhận thức, vận dụng qui luật tự
nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người.
Mỗi quan hệ t nhiên hội ph thuộc vào
trình độ phát triển của xã hội:
Thông qua các hoạt động của con người lịch sử t
nhiên lịch sử hội đã trở nên gắn quy định lẫn
nhau. Sự gắn quy định này phụ thuộc vào trình độ
phát triển của xã hội tiêu chí đ đánh giá phương
thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất
mới quyết định sự biến chuyển v chất của xã hội loài
người. Chính phương thức sản xuất quy định tính chất của
mối quan hệ giữa tự nhiên hội mỗi phương thức
sản xuất khác nhau sẽ những công c lao động khác
nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến
hành sản xuất khác nhau. Khi công cthay đổi, mục đích
9
sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì nh chất
của mối quan hệ giữa hội tự nhiên cũng thay đổi
theo.
Ngày nay, khi khoa học thuật phát triển song
với chế độ sở hữu nhân bản chủ nghĩa t con người
coi tự nhiên không chỉ môi trường sống còn đối
tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng
môi trường đã xảy ra nhiều i và đang đe dọa sự sống
của nhân loại. Để tồn tại phát triển con người phải
chung sống hòanh với thiên nhiên, thay đổich đối xử
với tự nhiên mà quan trọng nhất
phải xóa b chế độ tư hữu nhân tư bản chủ nghĩa -
nguồn gốc u xa của việc p hoại tự nhiên nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này nhiệm vụ của tất cả mọi
người.
Mỗi quan hệ giữa tự nhiên xã hội phụ thuộc
vào trình đ nhận thức vận dụng các quy luật
trong hoạt động thực tiễn:
Mối quan hệ giữa tự nhiên con người được thể
hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người
hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên
hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết
nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trongc hoạt
động thực tiễn.
Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo
quy luật t con người đã tạo ra một thế giới i a,
thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của hội. Ngược lại,
nếum trái quy luật, chkhai thác, chiếm đoạt những cái
sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo n đi của giới tự
nhiên việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - hội
không thể tránh khỏi. Con người sphải trả giá chịu
diệt vong.
10
Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc
nhận thức quy luật của hội đồng thời vận dụng
chúng trong thực tiễn.
Thời đại ngày nay khoa học thuật phát triển, nhận
thức đã được nang lên nhiều vấn đ n lại là phải hành
động cho đúng.
Để tuân theo các quy luật tự nhiên t việc xóa b
chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất.
1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta:
Nằm trong mối quan hệ giữa tự nhiên hội, môi
trường ảnh hưởng của nó đến sự tồn tại phát triển
của hội l vấn đề quen thuộc nhất, nó thường
xuyên được nhắc đến quanh ta.
Môi trường là gì?
Môi trường toàn bộ những điều kiện mà trong đó
con người sinh sống. Khái niệm này bao hàm cả môi
trường tự nhiên môi trường hội. đây chúng ta s
chỉ chủ yếu xét đến môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên được sử dụng với nhiều tên gọi
khác nhau n i trường sinh thái, môi trường sinh
quyển. Môi trường sinh thái điều kiện thường xuyên
tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Như vậy trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thì
môi trường sinh thái đại diện cho b phận còn lại của tự
nhiên bên cạnh bộ phận đặc thù của tự nhiên là hội.
Vai trò của môi trường sinh thái đối với hội trong
quá trình lịch s những giai đoạn khác nhaung được
thể hiện một cách khác nhau.
Khi hội n trình độ mông muội - khi con người
chủ yếu chỉ biếtn bắt hái lượm những sản phẩm sẵn
trong tự nhiên t hầu n con người hoàn toàn bị giới t
11
nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống hội hoàn toàn phụ
thuộc môi trường tự nhiên.
Khi con người văn minh n - nhất khi khoa học
thuật phát triển thì con người đã từng ớc chế ngự được
tự nhiên. Con người đã từng bước chế ngự khai thác tự
nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề
ra đời từ những điều kiện t nhiên n ng nghiệp, lâm
nghiệp, khai thác khoáng sản, đồng thời những ngành
ít phụ thuộc t nhiên hơn cũng ra đời n điện tử, phần
mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây).
Tuy nhiên cho đến nay hội vẫn phụ thuộc môi
trường tự nhiên rất nhiều, có thể tạo điều kiện thuận lợi
hoặc y khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến
năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội.
Ta thể lấy một ví dụ về sự ảnh ởng của môi
trường đối với sự phát triển của hội, hãy xem những sự
phụ thuộc o i trường tự nhiên t xa a của c xã
hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào:
Đây một đoạn trích từ bài viết "Jared
Diamond vận mệnh của các nền văn minh" của
tác giả Trần Hữu Dũng đăng trên tạp chí Tia Sáng s
3, tháng 3, năm 2005:
Trong cuốn Súng, Vi trùng, Thép: Định mệnh của
các hội Loài người (Guns, Germs and Steel: The Fates
of Human Societies, New York: Norton, 1997)” Jared
Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường
cấu trúc để giải thích tại sao các nước Tây phương trở
nên thống trị thế giới. Mục đích của ông, Diamond bộc
bạch ngay tđầu, nhằm triệt hnhững ý kiến cho rằng
chủng tộc, văn hóa truyền thống ảnh hưởng quyết
định đến những khác biệt vng nghệ của những hội
khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch
sử.
12
Diamondm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử
của các nhóm dân khác nhau không phải sự khác biệt
sinh học (biological) giữa các sắc dân sự khác biệt
về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nóich khác, do
căn bản của sbất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt
nguồn từ rất xa trong quá khứ. Hãy lấy năm 1500 sau
công nguyên làm điểm mốc. th xem m này khởi
điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục
khác. Lúc ấy thì các nước đã sự khác biệt về trình độ
công nghệ tổ chức chính trị. Phần lớn Âu, Á và Bắc Phi
đã những quốc gia vào thời kỳ đồ sắt thậm chí vài
nước đã sắp sang thời k công nghiệp hóa. Hai nhóm
châu Mỹ (Inca Aztec) đã những đế quốc dụng cụ
bằng đá bắt đầu thử nghiệm với đồng. Những dân tộc
khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân châu Úc, châu
Mỹ châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa
vào nông nghiệp, thậm c vài nhóm vẫn còn sống nhờ
săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá.
Lẽ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công
nghệ o khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất
đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới.
Những đế quốckhí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc
tiêu diệt những nhóm dân chỉ k cụ bằng đá. Nhưng
Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời
này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng ấy
vào năm 1500?
Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời đại băng
chấm dứt cho đến 11000 năm trước tây lịch, mọi người
khắp c châu lục đều sống nhờ săn bắn hái nhặt.
Như vậy, chính sự khác biệt về tốc đ phát triển (cụ thể
giữa lục địa Âu Á những lục địa khác) từ năm 11000
trước tây lịch đến 1500 năm sau tây lịch đã đưa đến sự
chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500.
Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hóa
Tân Thế giới.
13
Hiển nhiên, đó người châu Âu u , có t chức
chính trị, súng, gươm thép, ngựa, rồi may lại
đem theo những loại vi trùng bệnh tật giết thổ dân da đỏ
ngay trước khi những người y đứngn chống cự (vì thế
sách có tên "Súng, Vi trùng Thép"). Song Diamond
không dừng lại đó, ông tra hỏi thêm. Thế thì tại sao mà
thổ dân châu Mỹ không (đặc biệt, tại dân châu Âu có
những lợi điểm: sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc
địa đối với thổ dân châu Mỹ thay vì ngược lại?).ng truy
gặng, ng lùi ngược vq khứ, Diamond càng thấy c
yêu tố môi trường là quan trọng.
Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau
về môi trường:
1) Khác nhau thứ nhất giữa c đại lục về c
giống thảo mộc và động vật hoang con người có
thể đem về nuôi trồng. Ông lý luận rằng kh năng nuôi
trồng quyết định kh năng lương thực thặng dư,
chỉ khi lương thực thặng t xã hội mới "nuôi" được
một thành phần "chuyên viên" giúp phát triển những
lĩnh vực như ng nghệ, văn hóa,… Chính những phát
triển này sẽ tạo cho hội liên hệ những ưu thế chính trị
và quân sự so với láng giềng.
2) Khác nhau thứ hai về những yếu tố ảnh hưởng
đến sự chuyển dịch (cả người lẫn vật) trong cùng một lục
địa. Những sự chuyển dịch này dễ dàng nhất lục địa
Âu Á, bởi hướng chính của lục địa này là đông y,
tương đói ít ngăn trở môi sinh và địa lý.
3) Khác nhau thứ ba về những yếu tố ảnh hưởng
đến s chuyển dịch giữa các lục địa. những ngăn cản
địa lý, nhiều lục địa không nhận được những công nghệ
hay thú vật, thảo mộc tcác lục địa khác. Song Diamond
cũng nhìn nhận, s biệt lập này lắm khi cũng lợi
khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa
phương, cũng như các công nghệ bản địa.
14
4) Cái khác nhau cuối cùng là vn số diện tích
đất đai. Lục địa càng rộng càng đông n thì càng
nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong một lục địa n
vậy sẽ nhiều xã hội tranh đua n, rồi chính s tranh
đua giữa các hội gần i nhau đó sẽ gây áp lực phát
minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia "tụt hậu" sẽ bị các
quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt.
Sự bùng nổ dân số:
Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội
một điểm ta không thể không đề cập, đó sự bùng nổ
dân số.
Mỗi thể người đều những nhu cầu của riêng,
cần tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây
ra các ảnh hưởng nhất định đến môi trường. Khi dân số
phát triển ngày càng cao t nhu cầu với tự nhiên càng
lớn, những nhu cầu thiết yếu n ăn mặc, thực phẩm,
thuốc men, nước sạch ngày ng thiếu thốn. Đồng thời
nhiều vấn đ môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm
nguồn nước,c thải đặc biệt việc tăngờng khai thác
các nguồn đến cạn kiệt c nguồn tài nguyên nhằm đáp
ứng các nhu cầu của con người. Áp lực lên môi trường
ngày ng lớn và thực s khả năng chịu đựng của môi
trường là có hạn.
Sự bùng nổ dân s thực tế sự ng lên rất nhanh
của s ợng cá thể của quần thể người một dụ cho
sự phát triển vốn tất cả các loài. Một quy luật kèm
theo là: khi s lượng thể của quần thể vượt q khả
năng chịu đựng của môi trường thì sự chết ng loạt sẽ
xảy ra nhưng thường từng ng chứ không phải quy
mô toàn cầu (I. M. Barrett and oth, 1986).
Nếu điều này xảy ra với loài người t quả tai họa.
những cách ứng xử sai của con người với tự nhiên hiện
nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự nhiên. Do đó
chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường xử
đúng với tự nhiên.
15
Nguyên nhân của sai lầm này do chế độ tư hữu
bản chủ nghĩa, cần xóa bỏ nó, khi y dựng được chế độ
hội chnghĩa, con người s xử tốt hơn với t nhiên
vì không còn bị lợi nhuận chi phối.
2. VẤN Đ BẢO VỆ I TRƯỜNG HIỆN NAY VIỆT
NAM:
Qua phần trên chúng ta thấy ràng cần phải bảo vệ
môi trường, gìn giữ sự n bằng của hệ thống tự nhiên -
hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài trong
điều kiện ổn định chohội loài người. Giờ chúng ta s
xem xét vấn đề cụ thể của Việt Nam.
2.1. Khái quát về môi trường các nguồn tài
nguyên của Việt Nam:
Việt Nam: những số liệu thống kê chính
Thủ đô : Hà Nội
Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt
Đơn vị tiền tệ : đồng
Diện tích : 329.566
km
2
Dân số ước tính (năm 1998) : 78
triệu người
Tốc độ tăng trưởng dân số : : 2,3%
Mật độ dân : 210
người/km2
Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm
Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7%
Tổng số diện tích được bảo tồn : 22,976
km2
Số khu vực được bảo tồn : 101
16
Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn.
Các nguồn tài nguyên Việt Nam:
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:
Quỹ đất của việt Nam tổng diện tích hơn 33 triệu
ha, tổng diện tích đất bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng
thứ 159 trên thế giới).
Tổng s n 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất
phù sa, đất mùn vàng đỏn 3 triệu ha, đất xám bạc màu
hơn 3 triệu ha,... Tổng tiềm năng dự tr qu đất nông
nghiệp của Việt Nam 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7
triệu ha được sử dụng vàong nghiệp, 3/4 trong số đó
trồng cây hàng năm.
Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, t lấn, đất
trũng úng nước, đất d bị thoái hóa, đất khó phục hồi
những vấn đề cần phải lưu ý.
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam:
Việt Nam khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km tr
lên).
Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long 520
km /năm.
3
/năm, của sông Hồng và sông Thái bình 120 km
3
Nước ngầm thể khai thác khoảng 2,7 triệu
km /ngày.
3
Đến năm 2000 lượng nước lấy đi cho tiêu dùng Việt
nam tổng số khoảng 90 đến 100 km (xấp xỉ 30% lượng
3
nước sản sinh ra trong lãnh thổ).
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam:
Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế
giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải.
17
Việt nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới
chỉ 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản.
Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn, dầu
mỏ trữ lượng ở Vịnh Bắc Bộ là 500 triệu tấn, ở Nam Côn sơn
400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu tấn, Vịnh Thái lan 300
triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn khí ,đốt thiên
nhiên có trữ lượng lớn.
Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá
to lớn, đủ cơ sở cho công nghiệp hóa.
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam:
Việt Nam vùng biển rộng trên 1 triệu km nhiều
2
tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao.
Việt Nam trên 100 loài sản lượng cao, còn
nhiều hải sản quý như: cua, mực, huyết, trai, hàu, hải
sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ sò,
ngao, điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn
một năm.
Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 bão của hành
tinh. Hơn 100 năm gần đây 493 cơn bão, trung bình 4,7
cơn một năm.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Việt Nam nước nguồn tài nguyên rừng lớn
giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam
từ 7 đến 8 triệu dân sống rừng, 18 triệu dân cuộc
sống gắn với rừng.
Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gen
động vật hoang dã. Rừng ngập mặn cái nôi của tôm
biển, bảo tồn sinh học, chống
sói mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống
lụt, xâm thực. Thảm thực vật phong phú của rừng Việt Nam
đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động vật và nguồn
tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự
hấp dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng
18
nguồn cung cấp thực phẩm, nguồn dược liệu độc đáo,
nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ trang điểm
cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai
thác hợp . Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn
ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm 1943, năm 2000 còn
khoảng 20% (66.420 km
2
).
Về đa dạng sinh học:
Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: khoảng 12.000 loài cây mạch, 10%
đặc hữu. 800 loài rêu, 600 loài nấm lớn, 2300 loài dùng
làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ,
tinh dầu, 1500 loài cây làm dược liệu. dưới nước ngọt
hơn 1000 loài tảo. Nhiều loài giá trị dinh dưỡng cao.
biển cũng có hơn 1000 loài tảo.
Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về
thành phần loài.
Bảng so sánh thành phần loài động vật ở Việt Nam
so với thế giới (chỉ tính một số nhóm động vật ở bậc
loài)
STT
Nhóm động
vật
Số loài ở Việt
Nam
Số loài trên
thế giới
1 Thú 275 4.000
2 Chim 828 9.672
3 Bò sát 260 6.300
4 Lưỡng cư 82 4.184
5 2.600 19.000
6 Côn trùng 7.000 751.000
19
| 1/31

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN TÊN ĐỀ TÀI:
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI, PHÂN
TÍCH VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐOÀN ĐỨC HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1) ĐẶNG QUỐC BẢO MSSV: 23119003 2) VÕ TẤN PHÁT MSSV: 23119027 0 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU: 2
- Lý do chọn đề tài 2
- Mục đích của đề tài 3 PHẦN CHÍNH 1. Cơ sở lí luận 4 1.1. Các khái niệm 4
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội 4
1.2.1. Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên 4
1.2.2. Tự nhiên – Con người – Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất 5
1.2.3. Tự nhiên – nền tảng của xã hội 6
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên 7
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội 8
1.2.6. Môi trường – vấn đề của chúng ta 9
2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam 13
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam 13
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam 14
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam 14
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam 15
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam 15
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học 15
2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam 17
2.2. Nhìn ra thế giới – Những bài học 19
2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới 19
2.2.2. Thế giới hành động – Lối thoát 21 2.3. Việt Nam hành động 22 PHẦN KẾT 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26 1 MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Trái Đất một hành tinh kì diệu và khác biệt. Nó khác
với mọi hành tinh khác ở chỗ nó có sự sống và nó là ngôi
nhà duy nhất của chúng ta. Sự sống trên Trái Đất đã bắt
đầu từ những thành phần nhỏ bé nhất. Sự sống ấy đã phát
triển lên ngày một lớn mạnh. Thế rồi con người xuất hiện.
Kể từ lúc ấy sự sống trên Trái Đất đã thực khác trước. Con
người đã làm biến đổi thế giới xung quanh họ một cách
mạnh mẽ hơn bất kì sinh vật nào khác cùng tồn tại trên
Trái Đất này. Điều gì đã làm cho họ có được khả năng đó -
đó là tư duy để hành động.
Một trong số những vấn đề làm cho con người phải tư
duy nhiều nhất, có lịch sử lâu dài nhất là mối quan hệ giữa
tự nhiên và xã hội. Tự nhiên và xã hội là hai khái niệm lớn
nhất và gần gũi nhất với con người. Con người đồng thời
tồn tại và là sản phẩm của tự nhiên và xã hội do đó con
người quan tâm đến hai thực thể này là lẽ đương nhiên.
Kể từ khi ra đời quan điểm về mối quan hệ này đã
thay đổi khá nhiều. Trong một thời gian rất dài hai khái
niệm này đã được đem đối lập nhau, theo quan điểm đó tự
nhiên và xã hội hoàn toàn tách rời nhau, không liên quan
đến nhau. Quan điểm này ngày nay vẫn còn tồn tại trong
quan điểm nhiều người đã dẫn đến nhiều hành vi phá hủy
thiên nhiên mà họ không biết rằng đang phá hủy tương lai chính con em mình.
Quan niệm này quả là một sai lầm lớn, thực tế và lí
luận khoa học đều chứng tỏ rằng tự nhiên và xã hội có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng nằm trong một
tổng thể bao gồm tự nhiên, con người và xã hội.
Con người và xã hội đã dựa trên nền tảng tự nhiên
mà tồn tại và phát triển, nhưng chính trong quá trình tồn
tại và phát triển ấy thì nền tảng tự nhiên lại bị phá hủy, 2
đặc biệt là trong thời đại hiện nay khi khoa học kĩ thuật
phát triển mạnh mẽ và dân số toàn cầu đang bùng nổ thì
tự nhiên và môi trường càng bị phá hủy mạnh mẽ hơn.
Các nhà bác học nhìn xa trông rộng như Z. Lamark, 1820
đã viết: "Mục đích của con người dường như là tiêu diệt
nòi giống mình, trước hết là làm cho Trái Đất trở thành
không thích hợp với sự cư trú".
Nếu chúng ta không muốn tiên đoán oan nghiệt này
trở thành sự thật thì đã đến lúc để hành động trước khi
quá muộn. Đã đến lúc con người cần xác định rõ mối quan
hệ giữa xã hội của họ với tự nhiên và quan tâm đến các vấn đề môi trường.
Việt Nam một nước đang trong quá trình CNH - HĐH
đất nước, chúng ta cũng có những vấn đề về môi trường,
chúng ta cần phải có quan điểm đúng đắn để giải quyết
những vấn đề này trước khi mọi việc trở nên quá tồi tệ.
Mục đích của đề tài:
Tiểu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của
Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã
hội đồng thời trên cơ sở: Mối quan hệ biện chứng giữa tự
nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó nó cũng được hi vọng có thể thay đổi
được nhận thức xã hội nhằm tạo ra những thay đổi tích
cực trong hành động của mỗi cá nhân, tạo thuận lợi cho
việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đã được con
người quan tâm từ rất sớm, cho đến nay quan niệm về vấn
đề này đã trở nên hoàn thiện hơn bao giờ hết.
1.1. Các khái niệm:
Để bắt đầu chúng ta hãy làm rõ các khái niệm:
Tự nhiên: theo nghĩa rộng tự nhiên là toàn bộ thế
giới vật chất vô cùng vô tận. Theo nghĩa này thì con người
và xã hội loài người cũng là một bộ phận của tự nhiên.
Chúng ta xem xét tự nhiên theo nghĩa này.
Xã hội: là hình thái vận động cao nhất của vật chất,
hình thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tác
động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Theo
Mác: "Xã hội không phải gồm các cá nhân người. Xã hội
biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau".
1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội: 4
Tự nhiên và xã hội thực sự có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
1.2.1 Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên:
Theo định nghĩa tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất
tồn tại khách quan vậy con người và xã hội loài người
cũng là một bộ phận của thế giới vật chất ấy - con người
và xã hội cũng là bộ phận của tự nhiên.
Nguồn gốc của con người là tự nhiên. Quá trình phát
triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật
tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã
xuất hiện từ động vật. Con người sống trong giới tự nhiên
như mọi sinh vật khác bởi con người là một sinh vật của tự
nhiên. Ngay cả bộ óc con người, cái mà con người vẫn tự
hào cũng chính là sản phẩm cao nhất của vật chất. Chính
tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh
học mà còn nhờ lao động. Lao động là một quá trình được
tiến hành giữa con người với tự nhiên, trong quá trình này
con người khai thác và cải tiến giới tự nhiên để đáp ứng
nhu cầu tồn tại của mình. Trong lao động cấu tạo cơ thể
người dần hoàn thiện và do nhu cầu trao đổi thông tin
ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai kích
thích chủ yếu chuyển biến bộ não động vật thành bộ não
người, tâm lý động vật thành tâm lý người.
Sự hình thành con người đi kèm với sự hình thành các
quan hệ giữa người với người, cộng đồng người dần thay
đổi từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mới khác
hẳn về chất, ta gọi đó là xã hội. Đây cũng là quá trình
chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Vậy xã hội là gì?
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất,
hình thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tác
động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội 5
biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân với nhau, "là sản phẩm của sự tác động qua lại
giữa những con người". Như vậy xã hội cũng là một bộ
phận của tự nhiên. Song bộ phận này có tính đặc thù thể
hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố
vô thức và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội,
nhân tố hoạt động là của con người có ý thức, hành động
có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt
động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản
thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
1.2.2. Tự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong
một chỉnh thể thống nhất:
Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự
nhiên. Hơn thế tự nhiên - con người - xã hội nằm trong
một chỉnh thể thống nhất.
Theo nguyên lí về tính thống nhất vật chất của thế
giới thì thế giới tuy vô cùng phức tạp, đa dạng và được
cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy đến cùng
có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài
người. Ba yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ
thống tự nhiên - con người - xã hội bởi chúng đều là những
dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính, mối
quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui
luật, tất cả các quá trình trong tự nhiên, con người và xã
hội đều chịu sự chi phối của những qui luật phổ biến nhất
định. Sự hoạt động của các qui luật đó đã nối liền các yếu
tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn
và phát triển không ngừng trong không gian và theo thời gian.
Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa
tự nhiên và xã hội:
Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra
xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi 6
tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Để trở thành
một con người đích thực con người cần được sống trong
môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người
với người với người. Con người mang trong mình bản tính
tự nhiên và bản chất xã hội. Chính vì thế ta có thể nói
rằng con người còn là hiện thân của sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên.
1.2.3. Tự nhiên - nền tảng của xã hội:
Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương
tác với nhau. Đây là một mỗi quan hệ biện chứng hai
chiều, trước hết ta xét chiều thứ nhất là những tác động
của tự nhiên lên xã hội loài người.
Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Tự nhiên vừa
là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường
tồn tại và phát triển của xã hội.
Tự nhiên là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã
hội được hình thành trong sự tiến hóa của thế giới vật chất.
Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã
hội vì chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần
thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự
nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho
các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không
thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên,
nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu
trong đó lao động của con người được thực hiện, trong đó
lao động của con người tác động, từ đó và nhờ đó, lao
động của con người sản xuất ra sản phẩm.
Tóm lại tự nhiên đã xung cấp mọi thứ cho sự tồn tại
của xã hội, mọi thứ mà lao động của con người cần. Mà
chính lao động đã tạo ra con người
và xã hội do đó vai trò của tự nhiên với xã hội là vô cùng
to lớn. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó 7
khăn cho sản xuất xã hội; có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên:
Tự nhiên tác động đế xã hội nhiều như thế nào thĩ xã
hội cũng tác động lại vào tự nhiên như thế.
Trước hết phải khẳng định lại rằng xã hội là một bộ
phận của tự nhiên như vậy mỗi thay đổi của xã hội cũng
có nghĩa là tự nhiên thay đổi.
Bên cạnh đó xã hội còn tương tác với phần còn lại
của tự nhiên một cách mạnh mẽ. Sự tương tác này thông
qua các hoạt động thực tiễn của con người trước hết là
quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản
đầu tiên phân biệt hoạt động của con người với động vật.
Song lao động cũng là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan
trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự
nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra
giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều
tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên".
Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện
ở chỗ: tự nhiên cung cấp cho con người điều kiện vật chất
để con người sống và tiến hành hoạt động sản xuất. Cũng
chính trong quá trình sử dụng những nguồn vật chất này
con người đã làm biến đổi nó và các điều kiện môi trường
xung quanh tức là làm biến đổi tự nhiên một cách mạnh
mẽ. Hoạt động sống và lao động sản xuất của con người
trong xã hội là vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự
nhiên cũng vô cùng phong phú như khai thác khoáng sản,
đánh bắt cá hay kể cả đốt rừng, đẩy trả rác thải ra tự nhiên...
Thực tế xã hội luôn tác động tự nhiên. Giờ đây với
sức mạnh của khoa học công nghệ, một lực lượng dân số
khổng lồ, sự tác động này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. 8
Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động này con
người cần kiểm tra, điều tiết việc sử dụng khai thác, bảo
quản các nguồn vật chất của tự nhiên, nếu không thì
khủng hoảng sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự
nhiên - xã hội sẽ bị đe dọa. Ấy vậy mà hiện nay con người lại đang đi
ngược lại với những điều đúng đắn: Con người chính là
sinh vật có khả năng làm biến đổi tự nhiên nhiều nhất -
Chính vì vậy họ đang là sinh vật tàn phá thiên nhiên
khủng khiếp nhất. Tóm lại trong mối quan hệ với môi
trường tự nhiên xã hội có vai trò ngày càng quan trọng.
Để giữ gìn môi trường tồn tại và phát triển của mình con
người cần nắm chắc các qui luật tự nhiên, kiểm tra điều
tiết sử dụng hợp lí, bảo quản khai thác có hiệu quả đảm
bảo khả năng tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên,
đảm bảo cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội.
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ
giữa tự nhiên và xã hội:
Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự
nhiên và xã hội trong đó quan trọng nhất là trình độ phát
triển của xã hội và độ nhận thức, vận dụng qui luật tự
nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người.
Mỗi quan hệ tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào
trình độ phát triển của xã hội:
Thông qua các hoạt động của con người lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và quy định lẫn
nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ
phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá là phương
thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất
mới quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài
người. Chính phương thức sản xuất quy định tính chất của
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương thức
sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác
nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến
hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích 9
sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất
của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo.
Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song
với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người
coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối
tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng
môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống
của nhân loại. Để tồn tại và phát triển con người phải
chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử
với tự nhiên mà quan trọng nhất là
phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa -
nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
Mỗi quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc
vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật
trong hoạt động thực tiễn:

Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể
hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người
hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên
và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là
nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo
quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hòa,
thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại,
nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái
có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự
nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội
là không thể tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. 10
Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc
nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.
Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển, nhận
thức đã được nang lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng.
Để tuân theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất.
1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta:
Nằm trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, môi
trường và ảnh hưởng của nó đến sự tồn tại và phát triển
của xã hội có lẽ là vấn đề quen thuộc nhất, nó thường
xuyên được nhắc đến quanh ta. Môi trường là gì?
Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó
con người sinh sống. Khái niệm này bao hàm cả môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây chúng ta sẽ
chỉ chủ yếu xét đến môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên được sử dụng với nhiều tên gọi
khác nhau như môi trường sinh thái, môi trường sinh
quyển. Môi trường sinh thái là điều kiện thường xuyên và
tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Như vậy trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thì
môi trường sinh thái đại diện cho bộ phận còn lại của tự
nhiên bên cạnh bộ phận đặc thù của tự nhiên là xã hội.
Vai trò của môi trường sinh thái đối với xã hội trong
quá trình lịch sử ở những giai đoạn khác nhau cũng được
thể hiện một cách khác nhau.
Khi xã hội còn ở trình độ mông muội - khi con người
chủ yếu chỉ biết săn bắt hái lượm những sản phẩm có sẵn
trong tự nhiên thì hầu như con người hoàn toàn bị giới tự 11
nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống xã hội hoàn toàn phụ
thuộc môi trường tự nhiên.
Khi con người văn minh hơn - nhất là khi khoa học kĩ
thuật phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được
tự nhiên. Con người đã từng bước chế ngự khai thác tự
nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề
ra đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm
nghiệp, khai thác khoáng sản, đồng thời có những ngành
ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra đời như điện tử, phần
mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây).
Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi
trường tự nhiên rất nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi
hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến
năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội.
Ta có thể lấy một ví dụ về sự ảnh hưởng của môi
trường đối với sự phát triển của xã hội, hãy xem những sự
phụ thuộc vào môi trường tự nhiên từ xa xưa của các xã
hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào:
Đây là một đoạn trích từ bài viết "Jared
Diamond và vận mệnh của các nền văn minh" của
tác giả Trần Hữu Dũng đăng trên tạp chí Tia Sáng số 3, tháng 3, năm 2005:
Trong cuốn “Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của
các Xã hội Loài người (Guns, Germs and Steel: The Fates
of Human Societies, New York: Norton, 1997)” Jared
Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường
và cấu trúc để giải thích tại sao các nước Tây phương trở
nên thống trị thế giới. Mục đích của ông, Diamond bộc
bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng
chủng tộc, văn hóa và truyền thống có ảnh hưởng quyết
định đến những khác biệt về công nghệ của những xã hội
khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch sử. 12
Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử
của các nhóm dân khác nhau không phải vì sự khác biệt
sinh học (biological) giữa các sắc dân mà vì sự khác biệt
về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý do
căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt
nguồn từ rất xa trong quá khứ. Hãy lấy năm 1500 sau
công nguyên làm điểm mốc. Có thể xem năm này là khởi
điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục
khác. Lúc ấy thì các nước đã có sự khác biệt về trình độ
công nghệ và tổ chức chính trị. Phần lớn Âu, Á và Bắc Phi
đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt thậm chí vài
nước đã sắp sang thời kỳ công nghiệp hóa. Hai nhóm ở
châu Mỹ (Inca và Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ
bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với đồng. Những dân tộc
khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân ở châu Úc, châu
Mỹ và châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa
vào nông nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ
săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá.
Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công
nghệ vào khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất
đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới.
Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc
tiêu diệt những nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá. Nhưng
Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời
này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng ấy vào năm 1500?
Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời đại băng
hà chấm dứt cho đến 11000 năm trước tây lịch, mọi người
ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn và hái nhặt.
Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là
giữa lục địa Âu Á và những lục địa khác) từ năm 11000
trước tây lịch đến 1500 năm sau tây lịch đã đưa đến sự
chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500.
Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hóa Tân Thế giới. 13
Hiển nhiên, đó là vì người châu Âu có tàu bè, có tổ chức
chính trị, có súng, có gươm thép, có ngựa, rồi cơ may lại
đem theo những loại vi trùng bệnh tật giết thổ dân da đỏ
ngay trước khi những người này đứng lên chống cự (vì thế
sách có tên "Súng, Vi trùng và Thép"). Song Diamond
không dừng lại ở đó, ông tra hỏi thêm. Thế thì tại sao mà
thổ dân châu Mỹ không có (đặc biệt, tại dân châu Âu có
những lợi điểm: sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc
địa đối với thổ dân châu Mỹ thay vì ngược lại?). Càng truy
gặng, càng lùi ngược về quá khứ, Diamond càng thấy các
yêu tố môi trường là quan trọng.
Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường:
1) Khác nhau thứ nhất giữa các đại lục là về các
giống thảo mộc và động vật hoang dã mà con người có
thể đem về nuôi trồng. Ông lý luận rằng khả năng nuôi
trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng dư, và
chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới "nuôi" được
một thành phần "chuyên viên" giúp xã phát triển những
lĩnh vực như công nghệ, văn hóa,… Chính những phát
triển này sẽ tạo cho xã hội liên hệ những ưu thế chính trị
và quân sự so với láng giềng.
2) Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng
đến sự chuyển dịch (cả người lẫn vật) trong cùng một lục
địa. Những sự chuyển dịch này là dễ dàng nhất ở lục địa
Âu Á, bởi vì hướng chính của lục địa này là đông tây,
tương đói ít ngăn trở môi sinh và địa lý.
3) Khác nhau thứ ba là về những yếu tố ảnh hưởng
đến sự chuyển dịch giữa các lục địa. Vì những ngăn cản
địa lý, nhiều lục địa không nhận được những công nghệ
hay thú vật, thảo mộc từ các lục địa khác. Song Diamond
cũng nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì nó
khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa
phương, cũng như các công nghệ bản địa. 14
4) Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích
đất đai. Lục địa càng rộng càng đông dân thì càng có
nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong một lục địa như
vậy sẽ có nhiều xã hội tranh đua hơn, rồi chính sự tranh
đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát
minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia "tụt hậu" sẽ bị các
quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt. Sự bùng nổ dân số:
Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội có
một điểm ta không thể không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số.
Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó,
nó cần tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây
ra các ảnh hưởng nhất định đến môi trường. Khi dân số
phát triển ngày càng cao thì nhu cầu với tự nhiên càng
lớn, những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, thực phẩm,
thuốc men, nước sạch ngày càng thiếu thốn. Đồng thời
nhiều vấn đề môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm
nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác
các nguồn đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp
ứng các nhu cầu của con người. Áp lực lên môi trường
ngày càng lớn và thực sự khả năng chịu đựng của môi trường là có hạn.
Sự bùng nổ dân số thực tế là sự tăng lên rất nhanh
của số lượng cá thể của quần thể người là một ví dụ cho
sự phát triển vốn có ở tất cả các loài. Một quy luật kèm
theo là: khi số lượng cá thể của quần thể vượt quá khả
năng chịu đựng của môi trường thì sự chết hàng loạt sẽ
xảy ra nhưng thường là từng vùng chứ không phải là quy
mô toàn cầu (I. M. Barrett and oth, 1986).
Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa.
Mà những cách ứng xử sai của con người với tự nhiên hiện
nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự nhiên. Do đó
chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường và cư xử đúng với tự nhiên. 15
Nguyên nhân của sai lầm này là do chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa, cần xóa bỏ nó, khi xây dựng được chế độ
xã hội chủ nghĩa, con người sẽ cư xử tốt hơn với tự nhiên
vì không còn bị lợi nhuận chi phối.
2. VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM:
Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ
môi trường, gìn giữ sự cân bằng của hệ thống tự nhiên -
xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài trong
điều kiện và ổn định cho xã hội loài người. Giờ chúng ta sẽ
xem xét vấn đề cụ thể của Việt Nam.
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài
nguyên của Việt Nam:
Việt Nam: những số liệu thống kê chính Thủ đô : Hà Nội Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt Đơn vị tiền tệ : đồng Diện tích : 329.566 km2
Dân số ước tính (năm 1998) : 78 triệu người
Tốc độ tăng trưởng dân số : : 2,3% Mật độ dân cư : 210 người/km2
Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm
Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7%
Tổng số diện tích được bảo tồn : 22,976 km2
Số khu vực được bảo tồn : 101 16
Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Các nguồn tài nguyên Việt Nam:
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:
Quỹ đất của việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu
ha, tổng diện tích đất bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng
thứ 159 trên thế giới).
Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất
phù sa, đất mùn vàng đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu
hơn 3 triệu ha,... Tổng tiềm năng dự trữ quỹ đất nông
nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7
triệu ha được sử dụng vào nông nghiệp, 3/4 trong số đó là trồng cây hàng năm.
Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn, đất
trũng úng nước, đất dễ bị thoái hóa, đất khó phục hồi là
những vấn đề cần phải lưu ý.
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam:
Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên).
Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520
km3/năm, của sông Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm.
Nước ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày.
Đến năm 2000 lượng nước lấy đi cho tiêu dùng ở Việt
nam tổng số khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lượng
nước sản sinh ra trong lãnh thổ).
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam:
Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế
giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. 17
Việt nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới
chỉ có 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản.
Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn, dầu
mỏ trữ lượng ở Vịnh Bắc Bộ là 500 triệu tấn, ở Nam Côn sơn
400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu tấn, Vịnh Thái lan 300
triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn khí ,đốt thiên
nhiên có trữ lượng lớn.
Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá là
to lớn, đủ cơ sở cho công nghiệp hóa.
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam:
Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều
tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao.
Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có
nhiều hải sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải
sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ có sò,
ngao, điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn một năm.
Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành
tinh. Hơn 100 năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có
giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam
có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.
Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gen
động vật hoang dã. Rừng ngập mặn là cái nôi của tôm cá
biển, bảo tồn sinh học, chống
sói mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ
lụt, xâm thực. Thảm thực vật phong phú của rừng Việt Nam
đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động vật và nguồn
tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự
hấp dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng là 18
nguồn cung cấp thực phẩm, là nguồn dược liệu độc đáo, là
nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ trang điểm cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai
thác hợp lý. Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn
ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm 1943, năm 2000 còn khoảng 20% (66.420 km2). Về đa dạng sinh học:
Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10%
là đặc hữu. 800 loài rêu, 600 loài nấm lớn, 2300 loài dùng
làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ,
tinh dầu, 1500 loài cây làm dược liệu. Ở dưới nước ngọt có
hơn 1000 loài tảo. Nhiều loài có giá trị dinh dưỡng cao. Ở
biển cũng có hơn 1000 loài tảo.
Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về thành phần loài.
Bảng so sánh thành phần loài động vật ở Việt Nam
so với thế giới (chỉ tính một số nhóm động vật ở bậc loài) STT Nhóm động Số loài ở Việt Số loài trên vật Nam thế giới 1 Thú 275 4.000 2 Chim 828 9.672 3 Bò sát 260 6.300 4 Lưỡng cư 82 4.184 5 Cá 2.600 19.000 6 Côn trùng 7.000 751.000 19