Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức - Triết học Mác-Lênin | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức - Triết học Mác-Lênin | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Lịch sử triết học thế giới đã trải qua nhiều cuộc tranh luận, phản biện để tồn tại phát
triển. Cũng từ những đấu tranh đóduy nhân loại đã bướ tiến quan trọng, tích lũy
được những tưởng giá trị đóng góp vào kho tàng tưởng của thế giới. Dựa trên
sở những giá trị tưởng của các nhà triết học Hy Lạp - La cổ đại như: Talet,
Anaximen, Heraclit, Democrit.... các nhà khoa học như Tomson, Beccoren... triết
học Mác - Lênin dần hình thành phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin bao hàm nội dung
rộng lớn với những giá trị khoa học thực tiễn. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng
chính hạt nhân luận của triết học Mác. Theo Mác - Ăngghen, vấn đềbản lớn nhất
của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Nói
cách khác, mối quan hệ giữa duytồn tại hay mối quan hệ giữa vật chất ý thức
vai trò quan trọng với sự phát triển của một con người, xã hội, quốc gia, đất nước.
Trong bài viết dưới đây, em xin phân tích mối quan hệ giữa vật chất ý thức rút ra ý
nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ này. Bản thân đã vận dụng vào học tập cuộc
sống như thế nào và cho ví dụ minh họa việc vận dụng.
1. Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất ý thức mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất cái trước, tính thứ
nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là
cái có sau, là tính thứ hai.
+ Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan)
vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý
thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
+ Bản chất của ý thức là phản ánhch cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới
vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người được cải biên trong đó. Vậy nên vật
chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất
thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể
chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có
sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp
ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Ví dụ: Hiện nay, ở Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai Đề án 06 của Chính phủ, ứng dụng
công nghệ thông tin vào giải quyết thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ số, kinh tế số,
công dân số. Tuy nhiên, đã được đầu nhưng sở vật chất, hạ tầng phục vụ chuyển
đổi số còn thiếu, trình độ CBCC chưa đáp ứng nhiệm vụ đặt ra, bên cạnh đó, một số người
dân còn chưa nhận thức đầy đủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường mạng, đặc
biệt vùng điều kiện kinh tế khó khăn. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất ra
sao thì cũng phản ánh ý thức như vậy.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức “đời sống” riêng,
không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễncủa
con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó
có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới trang bị cho con người tri
thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên
làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát
triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức thể kìm hãm sự phát triển của vật
chất.
- Thứ tư, hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất trong thời
đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan
năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
dụ: nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta
chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước
như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn đưa ra mục tiêu,
phương hướng để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
Ví dụ: Sai lầm từ nhận thức "việc nhẹ lương cao" của một bộ phận người dân vùng đặc biệt
khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tin vào những lời dụ dỗ, cơ hội đổi đời của các
đối tượng lừa đảo qua mạng, đã bị chúng lừa bán vào mại dâm trá hình, hoặc sang
Campuchia làm việc, bị đánh đập và không đảm bảo quyền lợi lao động. Điều này cho thấy
ý thức thể quyết định hành động của con người, dựa trên ý thức đúng hay sai hành
động của con người đúng hoặc sai theo nhận thức.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức,
hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan,
bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược
sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều
này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học
tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tuỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí,
nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.
3. Vận dụng vào học tập và cuộc sống của bản thân tôi.
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát
từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng
đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa
biểu, những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy
đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên
tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Thứ hai, ý thức cũng sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng
động, sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm trau dồi tri thức cho bản thân
mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người
khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để
đánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát
biểu và thảo luận để hiểu hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để
luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích
cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.
Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình
qua việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
- Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ,
không chủ quan trước mọi tình huống.
dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe tiếp thu những điều hay các
thành viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng học
phần, tôi không chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản
thân không kham nổi.
Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó
lắng nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó,không thể chủ quan
“trông mặtbắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người
đó.
| 1/4

Preview text:

MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Lịch sử triết học thế giới đã trải qua nhiều cuộc tranh luận, phản biện để tồn tại và phát
triển. Cũng từ những đấu tranh đó mà tư duy nhân loại đã có bướ tiến quan trọng, tích lũy
được những tư tưởng có giá trị đóng góp vào kho tàng tư tưởng của thế giới. Dựa trên cơ
sở những giá trị tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại như: Talet,
Anaximen, Heraclit, Democrit.... và các nhà khoa học như Tomson, Beccoren... mà triết
học Mác - Lênin dần hình thành và phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin bao hàm nội dung
rộng lớn với những giá trị khoa học và thực tiễn. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng
chính là hạt nhân lý luận của triết học Mác. Theo Mác - Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn nhất
của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Nói
cách khác, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có
vai trò quan trọng với sự phát triển của một con người, xã hội, quốc gia, đất nước.
Trong bài viết dưới đây, em xin phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và rút ra ý
nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ này. Bản thân đã vận dụng vào học tập và cuộc
sống như thế nào và cho ví dụ minh họa việc vận dụng.
1. Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ
nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là
cái có sau, là tính thứ hai.
+ Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và
vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý
thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới
vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật
chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất
thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể
chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có
sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp
ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Ví
dụ: Hiện nay, ở Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai Đề án 06 của Chính phủ, ứng dụng
công nghệ thông tin vào giải quyết thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ số, kinh tế số,
công dân số. Tuy nhiên, dù đã được đầu tư nhưng cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ chuyển
đổi số còn thiếu, trình độ CBCC chưa đáp ứng nhiệm vụ đặt ra, bên cạnh đó, một số người
dân còn chưa nhận thức đầy đủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường mạng, đặc
biệt là vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất ra
sao thì cũng phản ánh ý thức như vậy.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng,
không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễncủa
con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó
có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri
thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên
làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời
đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và
năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Ví
dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta
chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước
như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu,
phương hướng để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
Ví dụ: Sai lầm từ nhận thức "việc nhẹ lương cao" của một bộ phận người dân vùng đặc biệt
khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tin vào những lời dụ dỗ, cơ hội đổi đời của các
đối tượng lừa đảo qua mạng, đã bị chúng lừa bán vào ổ mại dâm trá hình, hoặc sang
Campuchia làm việc, bị đánh đập và không đảm bảo quyền lợi lao động. Điều này cho thấy
ý thức có thể quyết định hành động của con người, dựa trên ý thức đúng hay sai mà hành
động của con người đúng hoặc sai theo nhận thức.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức,
hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan,
bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều
này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học
tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí,
nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.
3. Vận dụng vào học tập và cuộc sống của bản thân tôi.
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát
từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng
đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa
biểu, những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy
đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên
tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng
động, sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân
mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người
khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để
đánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát
biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để
luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích
cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.
Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình
qua việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
- Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ,
không chủ quan trước mọi tình huống. Ví
dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các
thành viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học
phần, tôi không chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi.
Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và
lắng nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó,không thể chủ quan
“trông mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.