Môn : Pháp luật về giám sát tài chính - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế
Môn : Pháp luật về giám sát tài chính - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật kinh tế(HDLH)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Môn : Pháp luật về giám sát tài chính
Thành viên nhóm : Lê Thị Minh Hiếu Trương Thị Thùy Trang Nguyễn Thị Thùy Linh Lê Thị Thúy Hằng
Chủ Đề 5 : Pháp luật giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước
1. Các văn bản điều chỉnh giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước .
- Quy định số 179-QÐ/TW về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ
- Nghị định số 04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập;
- Nghị quyết số 30c/NQ-CP ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
- Quyết định số 1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”.
Điều 12 Nghị định số 04/2015/NĐ-CP quy định cơ quan, đơn vị tổ chức để
cán bộ, công chức, viên chức giám sát, kiểm tra thông qua ba hình thức giám sát, kiểm tra
2. Đối tượng giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước.
Đối tượng của giám sát hành chính là bản thân nền hành chính nhà nước, bao
gồm các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức làm việc trong cơ
quan hành chính nhà nước.
Các cơ quan quản lý nhà nước là đối tượng đầu tiên của hoạt động giám sát
đối với nền hành chính nhà nước. Là bộ máy hành chính nhà nước, bao gồm Chính
phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân và các
cơ quan tham mưu của Ủy ban nhân dân các cấp.
Là cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Đơn vị cơ sở hành chính sự nghiệp là những đơn vị có tài sản riêng, đội ngũ
cán bộ công nhân riêng. Các đơn vị này hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn
riêng và hoạt động bằng nguồn ngân sách của Nhà nước.
Đơn vị cơ sở kinh doanh là những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực kinh tế,
sản xuất. Các đơn vị này có tư cách pháp nhân, có tài sản và nguồn vốn riêng, tự
chủ trong hoạt động kinh doanh.
3. Hình thức giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước.
Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có văn bản chính thức nào của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành để quy định cụ thể, chi tiết về giám sát và cơ chế
giám sát trong nô Mi bô M cơ quan hành chính nhà nước. Như đã trình bày ở phần trên,
công tác giám sát là sự theo dõi, quan sát, xem xét hoạt động của các tổ chức có
thẩm quyền mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng
các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt động của các tổ chức và cá nhân
chịu sự giám sát thực hiện đúng những điều đã quy định.
Nhưng chúng ta mới chỉ có những quy định về kiểm soát quyền lực nhà nước;
về giám sát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; mà thực chất là kiểm soát
quyền lực giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước (giữa các cơ quan thuộc
hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở Trung ương
với địa phương). Đây là mối quan hệ hữu hiệu nhất đã được thiết lập để kiểm soát
quyền lực trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, việc giám sát trong nội bộ các cơ quan trong bộ
máy nhà nước nói chung; trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước nói riêng lại
chưa có những văn bản chính thức quy định.
Trong thực tế tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, có
những văn bản của các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước khác quy định về giám
sát, kiểm soát cơ quan hành chính nhà nước, nhưng về từng lĩnh vực riêng rẽ. Ví
dụ, về giám sát công tác cán bộ, ngay từ Điều lệ Đảng (sửa đổi) được thông qua tại
Đại hội ĐBTQ lần thứ III của Đảng (năm 1960) đã yêu cầu “Phải tăng cường công
tác kiểm tra và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan nhà nước, giữ gìn kỷ
luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại
nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước”. Ngày 25/02/2019, Bộ Chính trị đã ban hành
Quy định số 179-QÐ/TW về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (thay thế
Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ban hành kèm theo Quyết
định số 58-QÐ/TW ngày 07/5/2007).
Quy định số 179-QÐ/TW cũng xác định rõ thẩm quyền của chủ thể kiểm tra,
giám sát, bao gồm: được quyết định hoặc đề nghị, yêu cầu hủy bỏ, thu hồi các
quyết định không đúng về công tác cán bộ; được yêu cầu tạm dừng việc thực hiện
các nội dung trong công tác cán bộ đối với cán bộ, đảng viên có dấu hiệu vi phạm;
chuyển ủy ban kiểm tra hoặc báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, giải
quyết những trường hợp cán bộ và tổ chức đảng được phát hiện có dấu hiệu vi
phạm…; nêu rõ phương pháp, hình thức kiểm tra, giám sát; đồng thời hướng dẫn
cụ thể các nội dung kiểm tra, giám sát gồm: điều kiện, tiêu chuẩn cán bộ; công tác
tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ; công tác đánh giá cán bộ; công tác quy hoạch cán
bộ; công tác điều động, luân chuyển cán bộ; việc phân công, phân cấp quản lý cán
bộ; việc thực hiện chính sách cán bộ…
Hầu hết các quy định chúng ta đang có hiện nay đối với giám sát nội bộ cơ
quan hành chính nhà nước là tập trung vào lĩnh vực kiểm soát trong khu vực công,
bao gồm quy định về kiểm soát việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư
công; trong mua sắm tài sản công; trong đầu tư xây dựng cơ bản; trong xây dựng,
hoạch định chính sách... Để thực hiện cơ chế kiểm soát này, Nhà nước ban hành
các văn bản quy định về định mức kinh phí, chế độ, trợ cấp, phụ cấp cụ thể; chế độ
kế toán dành cho đơn vị hành chính sự nghiệp, chế độ kiểm soát… nhằm kiểm soát
hoạt động tài chính của các đơn vị và làm cơ sở phục vụ công việc kiểm tra, kiểm
soát từ cấp trên. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà
nước ở Trung ương ban hành, các cơ quan hành chính nhà nước cấp thấp hơn ban
hành văn bản quy định thực hiện trong nội bộ và thường xuyên rà soát, sửa đổi phù
hợp. Các tổ chức cấu thành cơ quan hành chính nhà nước thường có văn bản phân
định chức năng nhiệm vụ và phân cấp, ủy quyền rõ ràng.
Về giám sát, hàng năm các đơn vị đều được đơn vị cấp trên kiểm tra quyết
toán thu, chi ngân sách nhà nước; công việc kiểm tra nội bộ định kỳ được thực
hiện. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát nội bộ chuyên trách chưa được triển
khai toàn diện, bài bản trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Các tổ chức
như văn phòng, thanh tra, công đoàn, ban thanh tra nhân dân không phải là những
tổ chức có chức năng giám sát nội bộ cơ quan hành chính nhà nước; càng không
phải là những thiết chế đóng vai trò giám sát nô Mi bô M đối với việc thực thi công vụ
của cơ quan hành chính nhà nước.
Trong việc giám sát nội bộ cơ quan hành chính nhà nước, còn có việc thực
hiện quy chế dân chủ trong cơ quan (hiện nay thực hiện theo Nghị định số
04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Quy
chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan hành chính nhà nước
và đơn vị sự nghiệp công lập có quyền theo dõi, giám sát việc thực hiện trách
nhiệm của người đứng đầu, của bộ máy lãnh đạo cơ quan hành chính nhà nước và
đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện dân chủ trong quản lý, điều hành
hoạt động của cơ quan, đơn vị; giữa lãnh đạo cơ quan, đơn vị với lãnh đạo bộ phận
cấu thành; việc thực hiện chế độ công khai tài chính theo định kỳ hàng quý; các
chế độ chính sách và việc đánh giá định kỳ đối với công chức, viên chức, người lao
động; giải quyết các khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; việc phối hợp với Công
đoàn để tổ chức hội nghị công chức, viên chức và người lao động.
4. Nội dung giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước .
Thực tế việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập cho thấy các nội dung
giám sát, kiểm tra của công chức, viên chức, người lao động được quy định rộng,
bao gồm các nội dung sau đây:
- Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác dài hạn, hàng năm, 6 tháng,
hàng quý của cơ quan, đơn vị; dự toán, chi tiêu và quyết toán ngân sách hàng năm;
thu chi các loại quỹ theo quy định của pháp luật và các khoản có huy động đóng
góp của công chức, viên chức và lao động; chế độ mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công.
- Việc thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước liên quan đến quyền, lợi ích
chung của công chức, viên chức và lao động trong cơ quan, đơn vị, trong đó các
vấn đề quan trọng phải được bàn bạc dân chủ và thống nhất ý kiến trong tập thể
lãnh đạo cơ quan, đơn vị, thông báo công khai tới công chức, viên chức và người lao động.
- Công tác quy hoạch cán bộ, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức, viên chức lãnh đạo.
- Việc kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập và công khai bản kê khai của công
chức, viên chức; lựa chọn, cử công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ trong nước và nước ngoài;
- Việc nâng bậc lương thường xuyên, nâng lương trước thời hạn; thực hiện
chế độ, chính sách khác của công chức, viên chức và người lao động.
- Việc đánh giá công chức, viên chức, người lao động.
- Việc thực hiện nội quy, quy chế của Học viện được tổ chức nghiêm túc và
thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra của công chức, viên chức, người lao động.
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công chức, viên chức, người lao động và học viên.
- Đảm bảo cho hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
Điều 12 Nghị định số 04/2015/NĐ-CP quy định cơ quan, đơn vị tổ chức để
cán bộ, công chức, viên chức giám sát, kiểm tra thông qua ba hình thức giám sát,
kiểm tra: một là, thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân của cơ quan,
đơn vị; hai là, thông qua kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình trong các
cuộc họp định kỳ của cơ quan, đơn vị; ba là, thông qua hội nghị cán bộ, công chức,
viên chức của cơ quan, đơn vị.
Các quy định nêu trên của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa rất lớn để các cơ
quan có thẩm quyền nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản quy định về giám
sát nội bộ trong cơ quan hành chính nhà nước.
5. Thực trạng giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước .
* Về mô hình hệ thống giám sát tài chính
Hệ thống giám sát tài chính Việt Nam đi theo mô hình giám sát phân tán,
nghĩa là các cơ quan quản lý và giám sát được thành lập và vận hành nhằm giám
sát một loại định chế tài chính và khu vực thị trường nhất định trên tổng thể thị
trường tài chính (TTTC). Hai cơ quan cấp bộ là Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) cùng với Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
(UBGSTCQG) và Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là những tổ chức giám sát độc lập,
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện các chức năng giám sát của mình
trên Thị trường tài chính.
Với chức năng tư vấn cho Chính phủ về điều phối giám sát trên Thị trường tài
chính, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia có quan hệ phối hợp trực tiếp với Bộ Tài
chính và NHNN nhằm nắm bắt được diễn biến hoạt động giám sát trên cả 3 lĩnh
vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán; được yêu cầu 2 cơ quan quản lý này cũng
như các định chế tài chính thuộc thẩm quyền quản lý của NHNN và Bộ Tài chính
cung cấp thông tin phục vụ giám sát; có trách nhiệm đưa ra những khuyến nghị về
xử lý vi phạm đối với tổ chức và cá nhân tham gia 3 lĩnh vực trên.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính có mối quan hệ phối hợp chéo
trong quản lý và giám sát những ngân hàng thương mại (NHTM) có sở hữu vốn
nhà nước do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm quản lý. Đồng thời, hai tổ chức này
còn có mối quan hệ mật thiết liên quan đến việc phát hành trái phiếu kho bạc, cũng
như thực hiện các chính sách tài chính công và chính sách tiền tệ có liên quan đến
việc sử dụng các trái phiếu này.
Hoạt động ngân hàng chịu sự giám sát trực tiếp của Cơ quan Thanh tra, Giám
sát Ngân hàng (NHNN). Trong khi đó, thị trường bảo hiểm chịu sự giám sát trực
tiếp của Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) chịu trách nhiệm giám sát trực tiếp đối với thị trường chứng khoán (TTCK).
Cấu trúc trên cho thấy mô hình giám sát phân tán đang được duy trì trên Thị
trường tài chính Việt Nam, xu hướng chuyên biệt hóa công tác giám sát theo chức
năng đã bắt đầu được hình thành.
* Hiệu lực giám sát của các cơ quan giám sát tài chính
Trong thời gian qua, trước những thách thức trong yêu cầu phát triển bền
vững kinh tế - xã hội, các cơ quan giám sát chuyên ngành của Việt Nam đã có sự
cải cách về mọi mặt (tổ chức, công cụ, nhân lực và chính sách). Tuy nhiên, hiệu lực
giám sát của Hệ thống giám sát tài chính hiện hành vẫn bộc lộ khá nhiều tồn tại và hạn chế:
Thứ nhất, Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam đã gặp nhiều vấn đề
trước xu thế phát triển của các tập đoàn tài chính trong thời gian qua. Hiện nay,
ngoài tập đoàn tài chính bảo hiểm Bảo Việt còn có hơn 10 tổ chức tín dụng hoạt
động theo mô hình tập đoàn tài chính (ngân hàng – chứng khoán – bảo hiểm; hoặc
ngân hàng – bảo hiểm; hoặc ngân hàng – chứng khoán), chiếm khoảng dưới 50%
thị phần Thị trường tài chính (Ủy bản giám sát tài chính Quốc gia , 2012). Các định
chế này không ngừng mở rộng quy mô hoạt động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro đan xen giữa các sản phẩm tài chính đa dạng và phức tạp.
Thứ hai, Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý các yêu cầu về giám
sát các sản phẩm tài chính mới theo xu hướng tích hợp. Xu hướng này là sự đan
xen giữa nhiều sản phẩm tài chính để ra đời những sản phẩm tài chính mới, ví dụ
như bảo hiểm liên kết ngân hàng - bancassuarance hay assurfinance khiến cho việc
xác định cơ quan giám sát nào chịu trách nhiệm giám sát trở nên hết sức phức tạp.
Hệ quả từ việc “từ chối” giám sát có thể sẽ gây ra rủi ro nghiêm trọng, còn hệ quả
từ việc giám sát chồng chéo, tuy giảm được rủi ro nhưng lại làm lãng phí nguồn
lực xã hội, gây ra sự thiếu hiệu quả trong giám sát.
Thứ ba, đã xuất hiện nhiều hạn chế trong việc chia sẻ thông tin và sự phối hợp
giữa các cơ quan trong nhiệm vụ giám sát thị trường. Điều này làm hạn chế khả
năng giám sát của toàn hệ thống.
Thứ tư, hành lang pháp lý cho hoạt động giám sát tài chính còn chưa đồng bộ
và thiếu đầy đủ. Hệ thống giám sát tài chính chưa hoàn chỉnh, thống nhất (có sự
phân tách giữa Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng với Luật
Chứng khoán, Luật Bảo hiểm). Các luật này đều đề cập tới vấn đề giám sát an
toàn, bảo vệ người tiêu dùng, quản trị rủi ro và công bố thông tin của các tổ chức
dưới quyền. Vì xây dựng tách bạch nhau nên các quy định liên quan đến các đối
tượng trên có thể trùng lắp hoặc thiếu nhất quán với nhau. Luật giám sát theo
chuyên ngành không cho phép tổ chức giám sát có sự độc lập và quyền lực cũng
như sự minh bạch trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm có ảnh hưởng tới sự an
toàn hệ thống khi đồng nhất chức năng xây dựng chính sách với chức năng triển
khai thực hiện các hoạt động giám sát.
Thứ năm, về kỹ thuật và hạ tầng công nghệ, ở Việt Nam chưa có quy định
chung về giám sát hệ thống tài chính tổng quát. Hiện tại, mới chỉ có hệ thống các
chỉ tiêu giám sát từ xa theo CAMELS (hệ thống giám sát từ Mỹ, ra đời năm 1978)
được Thanh tra ngân hàng thuộc NHNN áp dụng nhằm đánh giá các ngân hàng
thương mại và quỹ tín dụng nhân dân. Đối với ngành bảo hiểm và chứng khoán thì
vẫn chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát hiệu quả. Tuy nhiên, ngay cả hệ thống
CAMELS của NHNN cũng bị đánh giá là chưa đầy đủ.
Thứ sáu, về hiệu lực của các cơ quan giám sát chuyên ngành trong giám sát
tài chính cũng còn nhiều tồn tại. Cụ thể:
- Đối với thanh tra Ngân hàng nhà nước: Giám sát ngân hàng hiện nay của cơ
quan thanh tra Ngân hàng nhà nước hiện nay chỉ đơn thuần dựa trên bộ chỉ số định
lượng CAMELS, chưa có phân tích sâu về rủi ro liên quan tài sản nợ, tài sản có.
Trên thế giới, Ủy ban Basel đã công bố bộ 25 nguyên tắc cơ bản về thanh tra, giám
sát ngân hàng hiệu quả. So sánh với hoạt động giám sát của cơ quan thanh tra
NHNN thì việc giám sát ngân hàng tại Việt Nam còn rất nhiều chỉ tiêu đang trong
giai đoạn xúc tiến hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu đưa ra trong bộ 25 nguyên tắc của BASEL.
Đối với thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước: Hoạt động thanh tra - giám
sát chưa thường xuyên liên tục, chế tài xử phạt xử phạt còn thấp, dẫn đến vi phạm
tái diễn. Hạ tầng công nghệ phục vụ công tác thanh tra giám sát chưa đáp ứng được
yêu cầu, trong khi các hành vi vi phạm ngày càng tinh vi và phức tạp. Cơ chế phối
hợp giữa các đơn vị thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong công tác giám sát
chưa cao, việc phân định chức năng giám sát giữa các đơn vị chưa rõ ràng và chồng chéo.
- Đối với Cục quản lý, giám sát bảo hiểm: Hoạt động thanh tra giám sát nhiều
khi còn mang tính tình huống. Công tác thanh tra giám sát được thực hiện chủ yếu
là giám sát từ xa thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp mà thiếu thanh
tra tại chỗ một cách chuyên nghiệp. Thanh tra bảo hiểm mới chỉ thực hiện thanh tra
mang tính “chọn mẫu” ngẫu nhiên các doanh nghiệp bảo hiểm và chủ yếu tập trung
trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Trong khi đó, ngày nay đã xuất hiện thêm
một loại hình bảo hiểm có tính chất ngân hàng mới cần phải có phương pháp và
nội dung thanh tra cụ thể, đặc biệt là các chỉ tiêu về rủi ro.
- Đối với Bảo hiểm tiền gửi: Quyền hạn, trách nhiệm giám sát cũng như năng
lực tài chính của cơ quan này còn hạn chế khiến những đóng góp của Bảo hiểm
tiền gửi trong HTGSTC Việt Nam chưa thực sự đúng với vai trò của nó. Nội dung
giám sát bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở mức độ kiểm tra sự tuân thủ như việc tính và
nộp phí, chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi là chủ yếu, còn
giám sát theo tiêu chí rủi ro vẫn còn nhiều bất cập; chưa có sự phối hợp chặt chẽ
trong trao đổi thông tin về hoạt động thanh tra giám sát về các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi với các cơ quan giám sát khác.
- Đối với Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia: Vai trò còn mờ nhạt, mới chỉ
dừng lại ở chức năng tham mưu tư vấn cho Chính phủ, khi phát hiện sai phạm cũng
không có thẩm quyền xử lý vi phạm mà có trách nhiệm đề xuất kiến nghị Chính
phủ hoặc các cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành xử lý. Uỷ ban chưa có
quyền ban hành, xây dựng chính sách pháp lý chung liên quan đến hoạt động giám sát TTTC.
Thứ bảy, còn thiếu vắng nội dung giám sát an toàn vĩ mô. Tại Việt Nam, bắt
đầu từ năm 2009, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã triển khai việc thu thập
các chỉ tiêu giám sát an toàn vĩ mô và vi mô; tuy nhiên, vấn đề này vẫn khá mới
mẻ đối với không chỉ riêng Việt Nam. Phát triển nội dung giám sát an toàn vĩ mô
trở thành một vấn đề được quan tâm lớn của các nước trên thế giới.
Với những tồn tại trên, hệ thống tài chính Việt Nam đang phải đối mặt với các
rủi ro tiềm năng và dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường hay sự
thay đổi về chính sách. Điều này cho thấy, cần có những giải pháp khả thi trong
ngắn hạn và dài hạn trong việc xây dựng một HTGSTC đủ hiệu lực để giải quyết
triệt để các tồn tại.
6.Giải pháp hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính đối với đơn vị hành chính nhà nước .
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh tra giám sát tài chính là một quá trình
liên tục, có trọng tâm, trọng điểm ở từng thời kỳ, song nhất thiết nó phải nằm trong
khuôn khổ một kế hoạch, một chiến lược tổng thể, phải quán triệt các nguyên tắc
và quan điểm giám sát tài chính cơ bản như: thường xuyên – liên tục, linh hoạt, hỗ
trợ các tổ chức được giám sát, đảm bảo tính hệ thống, phối hợp các chính sách hiệu
quả và hợp tác với quốc tế trong giám sát tài chính.
* Chuyển đổi mô hình củ giám sát tài chính
Những bất cập của mô hình giám sát tài chính phân tán của Việt Nam hiện
nay cho thấy tính cấp thiết của việc chuyển đổi sang mô hình giám sát tài chính
hợp nhất. Đây cũng là xu thế khá phổ biến trên thế giới. Mô hình này đã minh
chứng sự thành công tại một số nước qua việc đảm bảo các mục tiêu đề ra đối với
HTGSTC: ổn định hệ thống tài chính; đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của các
định chế tài chính; bảo vệ người tiêu dùng các sản phẩm tài chính; đảm bảo sự
cạnh tranh lành mạnh trên TTTC.
Mô hình hợp nhất chỉ bao gồm một cơ quan giám sát duy nhất chịu trách
nhiệm giám sát toàn bộ các trung gian và thị trường thuộc lĩnh vực ngân hàng, tài
chính và bảo hiểm và đặc biệt sẽ giám sát hiệu quả các tập đoàn tài chính cũng như
các ngân hàng đa năng. Cơ quan này thực hiện chức năng giám sát nhằm đảm bảo
tính ổn định, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng cũng như bảo vệ các nhà đầu tư
trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Tuy nhiên, muốn làm được điều này
thì bước đầu tiên cần nâng cao hiệu lực giám sát chuyên ngành để chuẩn bị tốt cho
việc hợp nhất các cơ quan giám sát.
* Nâng cao hiệu lực giám sát cho các cơ quan giám sát chuyên ngành
Trong ngắn hạn, mục tiêu nâng cao năng lực cho các cơ quan giám sát chuyên
ngành là rất quan trọng. Có hai lý do cho vấn đề này: mức độ đan xen các sản
phẩm tài chính tích hợp ở Việt Nam chưa quá phức tạp để đặt vấn đề hợp nhất các
cơ quan giám sát tài chính lên mức bức thiết, nâng cao hiệu lực và năng lực giám
sát sẽ tạo ra bước chuẩn bị tốt để dễ dàng hợp nhất các cơ quan giám sát tài chính
với nhau. Bên cạnh các giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xây
dựng cơ sở hạ tầng thông tin nhằm tăng cường trao đổi thông tin giữa các cơ quan
giám sát tài chính chuyên ngành, chúng tôi khuyến nghị các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu lực cho từng cơ quan giám sát tài chính chuyên ngành như sau:
Một là, đối với cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng nhà nước: cần hoàn
thiện hệ thống các chỉ tiêu giám sát thị dựa trên rủi ro đồng thời thu hẹp các chuẩn
mực trong nước với chuẩn quốc tế (hoàn tất Basel II, tiến tới Basel III). Đối với
giám sát an toàn vĩ mô, cần có sự phối hợp với Ủy bản giám sát tài chính Quốc gia
trong xây dựng và áp dụng các chỉ tiêu giám sát và ngưỡng cảnh báo an toàn vĩ
mô, các mô hình định lượng và các quy chuẩn cũng như chỉ tiêu giám sát các tập đoàn tài chính.
Hai là, đối với cơ quan thanh tra giám sát thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước: Cần xây dựng cơ chế xử phạt và cảnh báo các công ty có hành vi thực hiện
các giao dịch giả, thao túng thị trường. Công tác quản lý thị trường OTC cần được
chú tâm nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Cần trao thêm thẩm quyền và tính
độc lập cho cơ quan thanh tra trong xử lý và cảnh báo các hành vi vi phạm kỷ luật thị trường.
Ba là, đối với Cục quản lý và giám sát bảo hiểm: Cần chú trọng thanh tra tại
chỗ. Đối với hoạt động giám sát từ xa cần chuyển dần sang hướng phân tích rủi ro
đối với hoạt động của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm. Nghiên cứu xây dựng
phương thức quản lý đối với lĩnh vực bảo hiểm có tính chất ngân hàng, đồng thời
phối hợp với bên cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng trong việc trao đổi thông
tin, kiến thức trong các nghiệp vụ thanh tra.
Bốn là, đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: Cần nâng cao hơn nữa vai trò
của mình trong việc giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Tiến hành
nhiều hơn kế hoạch thanh tra tại chỗ đối với các tổ chức nhận tiền gửi nhằm mục
đích làm giảm rủi ro đạo đức của các tổ chức này khi các tổ chức này có ý định
tham gia vào lĩnh vực kinh doanh rủi ro hơn. Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi
đã được ban hành, với chức năng nhiệm vụ được giao, Bảo hiểm tiền gửi cần
khẳng định rõ nét hơn vị thế của mình trong hệ thống giám sát tài chính.
* Nâng cao hiệu lực giám sát cho Ủy bản giám sát tài chính Quốc gia
Để đảm bảo tính hiệu quả trong việc thanh tra - giám sát, tránh những
“khoảng trống” cũng như sự trùng lắp, hoạt động của Ủy bản giám sát tài chính
Quốc gia nên tập trung vào 3 chức năng chính: Giám sát an toàn vĩ mô; Đầu mối
xây dựng mô hình thông tin tập trung giám sát Thị trường tài chính; Phát triển
nguồn nhân lực. Theo đó, nên đặc biệt chú trọng phát triển hoạt động giám sát an
toàn vĩ mô. Cách tiếp cận của giám sát an toàn vĩ mô nên theo hướng “từ đỉnh
xuống đáy”. Bằng cách tiếp cận trên, thông qua giám sát an toàn vĩ mô, Ủy bản
giám sát tài chính Quốc gia sẽ thực sự hỗ trợ tích cực trong việc xác định khu vực
dễ tổn thương và hoạch định chính sách ứng phó xác đáng.
* Khuyến nghị xây dựng khung giám sát tài chính
Chính phủ cần có sự chỉ đạo các cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành
nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, phương pháp giám sát phù hợp với tiêu
chuẩn và thông lệ quốc tế, làm căn cứ để đánh giá mức độ tuân thủ và giám sát rủi
ro của hệ thống tài chính. Điều này sẽ tạo nên mô hình khung giám sát đánh giá Thị trường tài chính.
Hệ thống giám sát quốc gia đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo
đảm 4 mục tiêu của Chính phủ: bảo vệ người tiêu dùng, ổn định hệ thống tài chính,
đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của các định chế tài chính và đảm bảo sự cạnh
tranh lành mạnh trên Thị trường tài chính. Để đẩy nhanh lộ trình tiến tới một mô
hình giám sát tài chính hợp nhất hiệu quả, Chính phủ ngoài việc chỉ đạo các cơ
quan giám sát tài chính chuyên ngành trong việc định hình khung giám sát tài
chính, cũng cần có những chính sách quyết liệt nhằm duy trì ổn định môi trường
kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững, có chiều sâu
và kiểm soát chặt chẽ hệ thống tài chính.