Nêu tính thống nhất giữa hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển? Nêu ví dụ minh họa? | Bài tập lớn học phần Triết học Mác - Lênin

Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta được làm quen với khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan – biện chứng của thế giới vật chất và biện chứng chủ quan – sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người. Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI:
Nêu tính thống nhất giữa hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
Giảng viên bộ môn
:
ĐỒNG THỊ TUYỀN
Sinh viên
: NGUYỄN THÀNH ĐẠT
Lớp
: F. Triết học Mác – lê -nin_1.2(15FS).1_LT
Hà Nội, tháng 7 năm 2022
Tiểu Luận
Trang 1
Nguyễn Thành Đạt
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................2
NỘI DUNG.........................................................................................3
Phần I: Phép biện chứng duy vật và những nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật...................................................................3
1. Phép biện chứng duy vật................................................................3
1.1 Chủ nghĩa duy vật – Chủ nghĩa duy vật biện chứng................3
1.2 Phép biện chứng – phép biện chứng duy vật...........................5
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến................................................6
2.1 Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến...........................6
2.2 Tính chất của các mối liên hệ...................................................7
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................9
2.4 Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào thực tiễn.....10
3. Nguyên lý về sự phát triển.............................................................10
3.1 khái niệm sự phát triển.............................................................10
3.2 Tính chất của sự phát triển.......................................................11
3.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................12
3.4 Vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào thực tiễn..................13
Phần II: Tính thống nhất giữa hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật..................................................................................14
1. Nguyên nhân và kết quả
1.1 khái niệm..................................................................................14
1.2 Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả...............................14
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................15
2. Nội dung và hình thức....................................................................15
2.1 Định nghĩa................................................................................15
2.2 Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức..................................16
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................16
KẾT LUẬN.......................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................18
Tiểu Luận
Trang 2
Nguyễn Thành Đạt
LỜI NÓI ĐẦU
Khi nghiên cứu Triết học Mác – Lênin, không thể không nhắc đến phép biện
chứng duy vật, bởi đây là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và
phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, được coi là “khoa học về
mối liên hệ phổ biến” và cũng là “khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Từ
những nhận định trên, chúng ta có thể thấy rõ rằng, nguyên lí về “mối liên hệ
phổ biến” luôn được gắn liền với phép duy vật biện chứng, và giữa hai nguyên lí
cơ bản của phép biện chứng duy vật thì “mối liên hệ phổ biến” có thể được coi
là nguyên lí cơ bản nhất, then chốt nhất. Như vậy, có thể khẳng định rằng, mọi
sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới này đều có mối liên hệ với
nhau, từ những phần tử vật chất nhỏ nhất như nguyên tử, phân tử,... cho đến các
hiện tượng xã hội mang tính vĩ mô, thuộc các phạm trù khác nhau như: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Bên cạnh đó, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã khẳng định, chỉ có một thế giới
duy nhất và thống nhất – thế giới vật chất, tồn tại trong mối liên hệ thống nhất
biện chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận động biến đổi
và phát triển không ngừng. Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận
thức đúng về quá trình vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan. Những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác xít
nói chung, nguyên lý về sự phát triển nói riêng làm rõ. Nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng phổ quát nhất của thế giới,
mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có sự vận động và phát
triển. Phát triển là những cái mới ra đời thay thế cái cũ, những vẫn trên cơ sở kế
thừa những hạt nhân hợp lý của cái cũ, cải tạo và phát triển chúng hợp lý để nó
trở thành điều kiện, tiền đề vững chắc cho cái mới phát triển nhanh, mạnh, vững
hơn. Phát triển là đặc trưng phổ biến, phát triển là một tất yếu khách quan. Hơn
nữa mọi nhận thức và thực tiễn trong cuộc sống đều phát triển. Giống như các
kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử đã có sự phát triển, xuất hiện cái mới
phù hợp, hoàn chỉnh hơn.
Nhận thấy được tầm quan trong của hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật, em quyết định chọn đề tài: “Nêu tính thống nhất giữa hai
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển?
NỘI DUNG
PHẦN I: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ
Tiểu Luận
Trang 3
Nguyễn Thành Đạt
BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng duy vật
1.1. Chủ nghĩa duy vật – Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Như chúng ta đã biết, triết học hệ thống tri thức luận chung nhất của con
người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Các vấn đbản của triết học được chia thành hai mặt. Một là, giữa ý thức
vật chất, cái nào có trước, cái nào sau, cái nào quyết định cái nào? Hai là, con
người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Để giải quyết câu hỏi thứ nhất, triết học đã được chia thành hai trường phái lớn:
chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm. Còn đối với câu hỏi số hai, quan điểm
về nhận thức thời kì bấy giờ đã được chia thành hai trường phái: nếu khả tri luận
bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người thì bất
khả tri luận lại gồm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.
Đi sâu n phân tích về chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm, lịch shình
thành phát triển của triết học đã ghi nhận hai luồng ý kiến trái chiều đối với
việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của môn khoa học này, một bên
các nhà duy vật với quan điểm: “Bản chất thế giới vật chất, vật chất tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất là cái có trước và quyết định ý thức”; một
bên các nhà duy tâm với quan điểm ngược lại hoàn toàn khi cho rằng “Bản chất
thế giới là ý thức, ý thức tính thứ nhất, vật chất tính thứ hai, ý thức quyết định
vật chất”. Học thuyết của c nhà duy vật các nhà duy tâm đều được hợp thành
các môn phái khác nhau, nội dung nghiên cứu cũng như phát triển của chnghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt chiều dài lịch sử.
Một mặt, nguồn gốc hình thành nên chủ nghĩa duy tâm chính từ nhận thức
xã hội: đó sự xem xét phiến diện, tuyệt đối a, thần thánh hóa một mặt, một
đặc tính o đó của quá trình nhận thức thường gắn với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp thống trị, áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy
Tiểu Luận
Trang 4
Nguyễn Thành Đạt
tâm cũng sự gắn mật thiết mối quan hệ tương đồng với tín ngưỡng, tôn
giáo, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại phát triển. Hai hình thức cơ bản của
chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy tâm chủ quan chủ nghĩa duy tâm khách
quan. Nếu chủ nghĩa duy tâm chủ quan chỉ thừa nhận “ý thức của con người là
tính thứ nhất” phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chỉ khẳng định
hiện tường phức hợp những cảm giác của nhân”, thì chủ nghĩa duy tâm
khách quan ngoài việc cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức còn cho rằng ý
thức ấy tinh thần khách quan, ý thức khách quan trước, tồn tại độc lập với
thế giới tự nhiên con người, được thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau như
“ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối” hay “lý tính thế giới”...
Mặt khác, chủ nghĩa duy vật lạinguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của
khoa học. Cho nên, chnghĩa duy vật ưu việt hơn gắn liền với thực tại khách
quan sự khái quát hóa tri thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực, được coi
hệ thống tri thức luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng hội
tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức thực tiễn.
Ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền với sự phát triển
của nhân loại nói chung cũng như sự kế thừa của các tiến bộ khoa học nói riêng.
chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chính là hình thức phát triển cao nhất, hiện
đại nhất, tân tiến nhất của chủ nghĩa duy vật, do hai nhà tưởng vĩ đại C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập,được V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển. Đây có thể coi
là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.
Tóm lại, chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật của chủ nghĩa Mác
Lênin nói riêng nhiệm vụ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên nền tảng
thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, nếu thế giới quan duy vật là cơ
sở gắn liền với thực tiễn thực tại khác quan thì phương pháp biện chứng (hay
còn gọi phép biện chứng)đây là gì? Đây là câu hỏi chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu tiếp sau đây.
Tiểu Luận
Trang 5
Nguyễn Thành Đạt
1.2. Phép biện chứng – phép biện chứng duy vật
Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta được làm quen với khái niệm
biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận động, phát
triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong cả tự nhiên, hội
và tư duy. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan – biện chứng của thế giới
vật chất và biện chứng chủ quan – sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong
đời sống ý thức của con người. Phép biện chứng học thuyết nghiên cứu, khái
quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học
nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực
tiễn. Như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan cũng đối lập với
phép siêu nh phương pháp duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng
thái cô lập bất biến. Theo quan điểm của Mác, cũng như của Hêghen thì phép
biện chứng bao gồm cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức(hay nhận
thức luận).
Phép biện chứng, tính đến ngày nay, đã tiến bộ phát triển qua ba giai đoạn,
ba trình độ bản. Thứ nhất phép biện chứng chất phác thời cổ đại, xuất hiện
trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Thứ hai là
phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, xuất phát từ Cantơ hoàn thiện Hêghen.
cuối cùng phép biện chứng duy vật, trình độ tiến bnhất của phép biện
chứng được nghiên cứu phát triển đến ngày nay. Đây cũng một bộ phận
luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa
Mác nin; khoa học về mối liên hệ phổ biếncũng khoa học về
những quy luật phbiến của sự vận động phát triển của tự nhiên, hội
loài người duy”. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin
hai đặc trưng cơ bản. Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin
phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học.
Đây có thể nói là một sự khác biệt, một bước tiến rất lớn về trình độ phát triển so
với nhiều tưởng biện chứng đã từng trong lịch sử triết học, bởi, thể nói
Tiểu Luận
Trang 6
Nguyễn Thành Đạt
một phần nguyên nhân là do sự tiến bộ trong trình độ khoa học – kỹ thuật – công
nghệ của xã hội loài người, do con người đã đạt được rất nhiều phát minh, thành
tựu mới, vượt xa những tư tưởng, học thuyết đã được thừa nhận trước đây. Hai là,
trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin có sự thống nhất giữa
nội dung thế giới quan duy vật biện chứng phương pháp luận biện chứng duy
vật, do đó không chỉ dừng lại sự giải thích thế giới mà còn công cụ để nhận
thức và cải tạo thế giới. Đây thể nói không chỉ là mục tiêu của Triết học Mác –
Lênin mà còn mục tiêu chung của các môn, các ngành nghiên cứu khoa học
nhằm thỏa man nhu cầu cũng như ý chí của con người, giúp con người nhận thức
và từ đó cải tạo, phát triển thế giới. Phép biện chứng duy vật được coi là thế giới
quan phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong cả lĩnh vực
nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
Từ những đặc điểm bản trên cũng như từ sự nghiên cứu phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, người đọc phần nào hiểu được vai trò của hai
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật: nguyên về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển.
Vậy, khi sử dụng phép biện chứng duy vật cũng như hai nguyên cơ bản của
phép biện chứng duy vật để nghiên cứu một lĩnh vực nhất định, nó sẽ đem lại kết
quả như thế nào, ví dụ như trong vấn đề về tính thông nhất giữa hai nguyên lý
bản của chủ nghĩa duy vật chính là nội dung chính mà bài tiểu luận này sẽ nghiên
cứu và đưa ra câu trả lời.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động chuyển hóa lẫn nhau giữa c sự vật, hiện tượng, hay giữa c mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại nhiều sự vật, hiện
Tiểu Luận
Trang 7
Nguyễn Thành Đạt
tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất những mối liên
hệ tồn tại mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, thuộc đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng. Đó các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng chất,
khẳng định phủ định, cái chung cái riêng, bản chất hiện tượng ... Như
vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù,
vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến những phạm vi nhất định. Đồng thời,
cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù
là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn
bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa
dạng ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong
giới tự hiên, xã hội và tư duy.
2.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến tính đa dạng, phong phú những tính chất
cơ bản của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động
làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng)
cái vốn của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con
người chỉ thể nhận thức vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực
tiễn của mình .
VD: Mối liên hệ giữa con vật cụ thể (một cái riêng) với quá trình đồng hóa- dị
hóa; biến dị - di truyền; quy luật sinh học; sinh trưởng thành già chết...->
(cái chung) -> cái vốn của con vật đó, tách rời khỏi mối liên hệ đó không còn
con vật, con vật đó sẽ chết... Mối liên hệ đó mang tính khách quan, con người
không thể sáng tạo ra được mối liên hệ đó, mà có thể nhận thức, tác động...
Tiểu Luận
Trang 8
Nguyễn Thành Đạt
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
Đồng thời, cũng không bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải một cấu
trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ n trong
của nó, tức bất cứ một tồn tại nào cũng một hệ thống, hơn nữa hệ thống
mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác làm biến đổi lẫn
nhau.
VD: Không gian thời gian; sự vật, hiện tượng; tự nhiên, hội, duy đều
có mối liên hệ, chẳng hạn quá khứ, hiện tại, tương lai liên hệ chặt chẽ với nhau...
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của chù nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính
khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú,
đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được
thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối
liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại phát
triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng
nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, những giai đoạn khác nhau trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng những tính chất
vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất vị trí, vai trò cụ
thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong
những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên
hệ bản chất hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp
và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến các mối
Tiểu Luận
Trang 9
Nguyễn Thành Đạt
liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những
điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
VD: Mối liên hệ con người, con cá... với nước khác nhau, cùng con người
nhưng mỗi giai đoạn phát triển khác nhau nhu cầu về nước cũng khác, con người
sống ở nơi lạnh, nơi nóng nhu cầu về nước khác nhau; cây xanh có cây cần nhiều
nước, ánh sáng, cây cần ít nước, ánh sáng...-> Mối liên hệ rất đa dạng, phong phú..
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan phổ biển của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn
cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng trong
sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ
trên sở đó mới thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng xử hiệu
quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Nvậy, quan điểm toàn diện đối lập với
quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật
đó".
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức thực tiễn, khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng
cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức xử các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng
nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định
rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ
Tiểu Luận
Trang 10
Nguyễn Thành Đạt
thể để từ đó được những giải pháp đúng đắn hiệu quả trong việc xử
các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức thực tiễn không những cần phải
tránh khắc phục quan điểm phiến diện, siêu nh còn phải tránh khắc
phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
2.4. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào thực tiễn
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho
phù hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ,
thầy cô… thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè
thì những hành động , thái độ thoải mái,tự nhiên .Ngay cả quan hệ với một con
người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng
ta cũng phải cách giao tiếp, ch quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận:
“đối nhân xử thế”.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta
cần xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để cách
giải quyết, xử lý tốt .
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, không sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng;
đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua
những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên:
từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy,
khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói
chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay
Tiểu Luận
Trang 11
Nguyễn Thành Đạt
sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn
của sự vật, hiện tượng; quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu
cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái
của sự vật, hiện tượng mới.
3.2. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động phát triển. Đó quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng;
quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện ợng đó. vậy, phát triển
thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thhiện các quá trình phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện
tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi
quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù
họp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển
khuynh hướng chung của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại quá trình phát triển không hoàn toàn giống
nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác,
của rất nhiều yếu tố điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó thể làm thay
đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí thể làm cho sự vật,
Tiểu Luận
Trang 12
Nguyễn Thành Đạt
hiện tượng thụt lùi tạm thời, thể dẫn tới sự phát triển về mặt này thoái hóa
ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá
trình phát triển.
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên về sự phát triển sở luận khoa học để định hướng việc nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực
tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “... Lôgích biện chứng đòi
hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi
của nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức giải quyết bất cứ vấn đề trong
thực tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của
nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại một quá trình biện chứng, bao
hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính
quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là
cần phải quan điểm lịch sử - cụ th trong nhận thức giải quyết các vấn đề
của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phbiến và sự phát triển, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng
trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật,
Ph.Ăngghen viết: “... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là xem
xét những sự vật những phản ánh của chúng trong tưởng trong mối liên hệ
qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh sự
tiêu vong của chúng!” . V.I.Lênin cũng cho rằng: “Phép biện chứng đòi hòi nguời
Tiểu Luận
Trang 13
Nguyễn Thành Đạt
ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể
của những mối quan hệ đó”.
3.4. Vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào thực tiễn
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn còn ý nghĩa
quan trọng góp phần thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của
nó và điều này cũng sẽ đòi hỏi mỗi chúng ta sẽ cần phải tìm ra mâu thuẫn của sự
vật và bằng hoạt động thực tiễn mà chúng ta sẽ có thể giải quyết mâu thuẫn. Cần
phải thấy được rằng sự phát triển là một quá trình khó khăn, phức tạp.
Ta có thể rút ra được những bài học về sự phát triển như sau:
Khi bất cứ ai tiến hành xem xét các sự vật, hiện tượng thì mỗi người đều
sẽcần phải đặt trong sự vận động phát triển:
Các chủ thsẽ cần phải nắm
được sự vật không chỉ như là cái mà nó đang có hay đang hiện hữu trước mắt mà
các chủ thể còn cần phải nắm được và hiểu rõ được khuynh hướng phát triển, khả
năng chuyển hóa của các sự vật.
Chúng ta sẽ không được dao động trước những quanh co, những phức
tạpcủa sự phát triển ở trong thực tiễn: Vấn đề không được dao động trước những
quanh co, những phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn cũng đòi phải cần
phải có sự nhìn nhận, sự đánh giá khách quan đối với sự vật, hiện tượng.
n cạnh đó thì sẽ cần chủ động tìm ra được những phương pháp thúc đẩy
sựphát triển của svật, của hiện tượng: Mỗi người đều cần phải tích cực, ch
động nghiên cứu để nhằm mục đích từ đó chúng ta sẽ có thể tự tìm ra được những
mâu thuẫn hiện trong mỗi sự vật, hiện tượng để nhằm từ đó các chủ thể sẽ
thể xác định được những biện pháp phù hợp nhất để nhằm thể thông qua đó
giải quyết được những mâu thuẫn đó nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Những cái mới sẽ phải kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp của
cái cũ nhưng bên cạnh đó thì những cái mới cũng phải kiên quyết loại quả những
Tiểu Luận
Trang 14
Nguyễn Thành Đạt
cái đã quá lạc hậu cản trở gây ảnh hưởng đến sự phát triển. Bởi trong phát
triển có sự kế thừa cũng chính vì thế các chủ thể sẽ rất cần phải chủ động phát
hiện, cổ vũ những cái mới, cái phù hợp để từ đó chúng ta sẽ có thể tìm cách thức
đẩy để nhằm mục đích phát triển cái mới, để cái mới chiếm đóng vai trò chủ đạo
trong cuộc sống.
PHẦN II: TÍNH THỐNG NHẤT GIỮA HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên nhân và kết quả
1.1. Khái niệm
- Nguyên nhân dùng để chỉ tác động lẫn nhau của các mặt trong một
sự vật hoặc giữa sự vật với nhau gây ra một biến đổi nhất định. - Kết
quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các
mặt trongmột sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra - Nguyên
cớ: là cái cớ tác động làm cho sự vật diễn ra nhanh hay chậm
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- không có nguyên nhân nào không dẫn tới két quả nhất định
vàngược lại không có kết quả nào không có nguyên nhân
- nguyên nhân sinh ra kết quả do vậy nguyên nhân bao giờ cũng
cótrước kết quả còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên
nhân
- Nguyên nhân có thể dẫn tới nhiều kết quả
- Ngược lại một kết quả do nhiều nguyên nhân sinh ra
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
trongnhũng điều kiện hoàn cảnh cụ thể
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân theo 2 chiều hướng
+ Tích cực: thúc đẩy hoạt động nguyên nhân
+ Tiêu Cực: cản trở hoạt động nguyên nhân
Tiểu Luận
Trang 15
Nguyễn Thành Đạt
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn thì phải luôn chú ý đến kết quả có thể đưa đến
- Một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả vì vậy khi giải quyết
vấn đề cần tìm ra nguyên nhân cơ bản chủ yếu trực tiếp để có
hướng giải quyết đúng.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân vì vậy phát huy tính
tích cựccủa kết quả, thúc đẩy hoạt động nguyên nhân đạt mục đích
2. Nội dung và hình thức
2.1. Định nghĩa
-Nội dung dùng đẻ chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt những yếu tố,
những quá trình tạo nên sự vật hiện tượng.
- Hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của
sự vậthiện tượng.
- Hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của
sự vậthiện tượng đó la hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững
giữa các yếu tố của nó.
2.2. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ thống nhất biện
chứng với nhau nhưng không phải lúc nào cũng phù hợp trùng khít
hoàn toàn. - Nội dung quyết định hình thức -> hình thức tổ chức
phải trên cơ sở của nội dung hiện có.
- Hình thức có tính ổn định tương đối còn nội dung thường
xuyên biến đổi.
- Mỗi nội dung có thể được biểu hiện bằng nhiều hình thức
nhưng mỗi hình thức đều có giá trị khác nhau.
- Là sự phù hợp biện chứng -> một nội dung có thể thể hiện
dưới nhiều hình thứcvà ngược lại.
Tiểu Luận
Trang 16
Nguyễn Thành Đạt
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nội dung và hình thức luôn thống nhất hữu cơ với nhau vì vậy
trong thực tiễn và nhận thức không được tách rời giữa nội dung và
hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật hiện
tượng thì trước hết phải căn cứ vào nội dung muốn thay đổi sự vật
hiện tượng trước hết phải thay đổinội dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức,
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
- Cần thay đổi những hình thức không còn phù hợp với nội
dung đểthúc đẩy nội dung phát triển.
KẾT LUẬN
Năng lực duy biện chứng sức mạnh không thể thiếu được của mỗi con
người trong nhận thức hoạt động thực tiễn, đòi hỏi bắt buộc mỗi người
trong quá trình tiến hành nhiệm vụ nhận thức cải tạo thế giới khách quan, là
đòi hỏi của thực tiễn hội đối với bản thân trong giai đoạn hiện nay. Để nâng
cao năng lực tư duy của bản thân thông qua rèn luyện phương pháp biện chứng
duy vật, giáo viên cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung phương pháp
dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa luận thực tiễn, thường xuyên kiểm tra dưới
nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện
phương pháp biện chứng duy vật cho mỗi bản thân, sẽ góp phần quan trọng vào
việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực duy biện
chứng giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa
học.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Công Nghê Thông Tin, Trường Đại
Học Phenikaa đã tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập hoàn thành đề tài
nghiên cứu này. Đặc biệt,em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Đồng Thị
Tiểu Luận
Trang 17
Nguyễn Thành Đạt
Tuyền đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn chúng em trong quá trình
làm bài.
Em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn
thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức hạn chế không có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu trình
bày. Rất kính mong sự góp ý của quý thầy để bài tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn. Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của cô đã
giúp đỡ em trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính
trị Quốc gia – Sự thật – 2017.
Một số chuyên đề về Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(tập 1), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.
| 1/19

Preview text:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN BÀI TẬP LỚN ĐỀ TÀI:
Nêu tính thống nhất giữa hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển? Nêu ví dụ minh họa?
Giảng viên bộ môn : ĐỒNG THỊ TUYỀN
Sinh viên : NGUYỄN THÀNH ĐẠT
Lớp : F. Triết học Mác – lê -nin_1.2(15FS).1_LT Hà Nội, tháng 7 năm 2022 Tiểu Luận Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................2
NỘI DUNG.........................................................................................3
Phần I: Phép biện chứng duy vật và những nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật...................................................................3
1. Phép biện chứng duy vật................................................................3
1.1 Chủ nghĩa duy vật – Chủ nghĩa duy vật biện chứng................3
1.2 Phép biện chứng – phép biện chứng duy vật...........................5
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến................................................6
2.1 Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến...........................6
2.2 Tính chất của các mối liên hệ...................................................7
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................9
2.4 Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào thực tiễn.....10
3. Nguyên lý về sự phát triển.............................................................10
3.1 khái niệm sự phát triển.............................................................10
3.2 Tính chất của sự phát triển.......................................................11
3.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................12
3.4 Vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào thực tiễn..................13
Phần II: Tính thống nhất giữa hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật..................................................................................14
1. Nguyên nhân và kết quả
1.1 khái niệm..................................................................................14
1.2 Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả...............................14
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................15
2. Nội dung và hình thức....................................................................15
2.1 Định nghĩa................................................................................15
2.2 Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức..................................16
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................16
KẾT LUẬN.......................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................18 Trang 1 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận LỜI NÓI ĐẦU
Khi nghiên cứu Triết học Mác – Lênin, không thể không nhắc đến phép biện
chứng duy vật, bởi đây là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và
phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, được coi là “khoa học về
mối liên hệ phổ biến” và cũng là “khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Từ
những nhận định trên, chúng ta có thể thấy rõ rằng, nguyên lí về “mối liên hệ
phổ biến” luôn được gắn liền với phép duy vật biện chứng, và giữa hai nguyên lí
cơ bản của phép biện chứng duy vật thì “mối liên hệ phổ biến” có thể được coi
là nguyên lí cơ bản nhất, then chốt nhất. Như vậy, có thể khẳng định rằng, mọi
sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới này đều có mối liên hệ với
nhau, từ những phần tử vật chất nhỏ nhất như nguyên tử, phân tử,... cho đến các
hiện tượng xã hội mang tính vĩ mô, thuộc các phạm trù khác nhau như: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Bên cạnh đó, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã khẳng định, chỉ có một thế giới
duy nhất và thống nhất – thế giới vật chất, tồn tại trong mối liên hệ thống nhất
biện chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận động biến đổi
và phát triển không ngừng. Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận
thức đúng về quá trình vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan. Những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác xít
nói chung, nguyên lý về sự phát triển nói riêng làm rõ. Nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng phổ quát nhất của thế giới,
mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có sự vận động và phát
triển. Phát triển là những cái mới ra đời thay thế cái cũ, những vẫn trên cơ sở kế
thừa những hạt nhân hợp lý của cái cũ, cải tạo và phát triển chúng hợp lý để nó
trở thành điều kiện, tiền đề vững chắc cho cái mới phát triển nhanh, mạnh, vững
hơn. Phát triển là đặc trưng phổ biến, phát triển là một tất yếu khách quan. Hơn
nữa mọi nhận thức và thực tiễn trong cuộc sống đều phát triển. Giống như các
kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử đã có sự phát triển, xuất hiện cái mới
phù hợp, hoàn chỉnh hơn.
Nhận thấy được tầm quan trong của hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật, em quyết định chọn đề tài: “Nêu tính thống nhất giữa hai
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển?
NỘI DUNG
PHẦN I: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ Trang 2 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng duy vật
1.1. Chủ nghĩa duy vật – Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Như chúng ta đã biết, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Các vấn đề cơ bản của triết học được chia thành hai mặt. Một là, giữa ý thức và
vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Hai là, con
người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Để giải quyết câu hỏi thứ nhất, triết học đã được chia thành hai trường phái lớn:
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Còn đối với câu hỏi số hai, quan điểm
về nhận thức thời kì bấy giờ đã được chia thành hai trường phái: nếu khả tri luận
bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người thì bất
khả tri luận lại gồm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.
Đi sâu hơn phân tích về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, lịch sử hình
thành và phát triển của triết học đã ghi nhận hai luồng ý kiến trái chiều đối với
việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của môn khoa học này, một bên
là các nhà duy vật với quan điểm: “Bản chất thế giới là vật chất, vật chất là tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất là cái có trước và quyết định ý thức”; một
bên là các nhà duy tâm với quan điểm ngược lại hoàn toàn khi cho rằng “Bản chất
thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, ý thức quyết định
vật chất”. Học thuyết của các nhà duy vật và các nhà duy tâm đều được hợp thành
các môn phái khác nhau, là nội dung nghiên cứu cũng như phát triển của chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt chiều dài lịch sử.
Một mặt, nguồn gốc hình thành nên chủ nghĩa duy tâm chính là từ nhận thức
và xã hội: đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một
đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp thống trị, áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy Trang 3 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
tâm cũng có sự gắn bó mật thiết và mối quan hệ tương đồng với tín ngưỡng, tôn
giáo, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Hai hình thức cơ bản của
chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan. Nếu chủ nghĩa duy tâm chủ quan chỉ thừa nhận “ý thức của con người là
tính thứ nhất” và phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chỉ khẳng định
“ hiện tường là phức hợp những cảm giác của cá nhân”, thì chủ nghĩa duy tâm
khách quan ngoài việc cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức còn cho rằng ý
thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước, tồn tại độc lập với
thế giới tự nhiên và con người, được thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau như
“ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối” hay “lý tính thế giới”...
Mặt khác, chủ nghĩa duy vật lại có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của
khoa học. Cho nên, chủ nghĩa duy vật ưu việt hơn vì nó gắn liền với thực tại khách
quan và là sự khái quát hóa tri thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực, được coi
là hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng xã hội
tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền với sự phát triển
của nhân loại nói chung cũng như sự kế thừa của các tiến bộ khoa học nói riêng.
Và chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chính là hình thức phát triển cao nhất, hiện
đại nhất, tân tiến nhất của chủ nghĩa duy vật, do hai nhà tư tưởng vĩ đại C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập,được V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển. Đây có thể coi
là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.
Tóm lại, chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật của chủ nghĩa Mác
– Lênin nói riêng có nhiệm vụ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên nền tảng
thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, nếu thế giới quan duy vật là cơ
sở gắn liền với thực tiễn và thực tại khác quan thì phương pháp biện chứng (hay
còn gọi là phép biện chứng) ở đây là gì? Đây là câu hỏi mà chúng ta sẽ cùng tìm hiểu tiếp sau đây. Trang 4 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
1.2. Phép biện chứng – phép biện chứng duy vật
Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta được làm quen với khái niệm
biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận động, phát
triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong cả tự nhiên, xã hội
và tư duy. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan – biện chứng của thế giới
vật chất và biện chứng chủ quan – sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong
đời sống ý thức của con người. Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái
quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học
nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực
tiễn. Như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan và cũng đối lập với
phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng
thái cô lập và bất biến. Theo quan điểm của Mác, cũng như của Hêghen thì phép
biện chứng bao gồm cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức(hay nhận thức luận).
Phép biện chứng, tính đến ngày nay, đã tiến bộ và phát triển qua ba giai đoạn,
ba trình độ cơ bản. Thứ nhất là phép biện chứng chất phác thời cổ đại, xuất hiện
trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Thứ hai là
phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, xuất phát từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen.
Và cuối cùng là phép biện chứng duy vật, trình độ tiến bộ nhất của phép biện
chứng được nghiên cứu và phát triển đến ngày nay. Đây cũng là một bộ phận lý
luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa
Mác – Lênin; là “khoa học về mối liên hệ phổ biến” và cũng là “khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội
loài người và tư duy”. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có
hai đặc trưng cơ bản. Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin
là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học.
Đây có thể nói là một sự khác biệt, một bước tiến rất lớn về trình độ phát triển so
với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học, bởi, có thể nói Trang 5 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
một phần nguyên nhân là do sự tiến bộ trong trình độ khoa học – kỹ thuật – công
nghệ của xã hội loài người, do con người đã đạt được rất nhiều phát minh, thành
tựu mới, vượt xa những tư tưởng, học thuyết đã được thừa nhận trước đây. Hai là,
trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất giữa
nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy
vật, do đó nó không chỉ dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận
thức và cải tạo thế giới. Đây có thể nói không chỉ là mục tiêu của Triết học Mác –
Lênin mà còn là mục tiêu chung của các môn, các ngành nghiên cứu khoa học
nhằm thỏa man nhu cầu cũng như ý chí của con người, giúp con người nhận thức
và từ đó cải tạo, phát triển thế giới. Phép biện chứng duy vật được coi là thế giới
quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong cả lĩnh vực
nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
Từ những đặc điểm cơ bản trên cũng như từ sự nghiên cứu phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, người đọc phần nào hiểu được vai trò của hai
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển.
Vậy, khi sử dụng phép biện chứng duy vật cũng như hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật để nghiên cứu một lĩnh vực nhất định, nó sẽ đem lại kết
quả như thế nào, ví dụ như trong vấn đề về tính thông nhất giữa hai nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa duy vật chính là nội dung chính mà bài tiểu luận này sẽ nghiên
cứu và đưa ra câu trả lời.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện Trang 6 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên
hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất,
khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng ... Như
vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù,
vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời,
cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù
là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn
bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa
dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong
giới tự hiên, xã hội và tư duy.
2.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất
cơ bản của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và
làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng)
là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình .
VD: Mối liên hệ giữa con vật cụ thể (một cái riêng) với quá trình đồng hóa- dị
hóa; biến dị - di truyền; quy luật sinh học; sinh – trưởng thành – già – chết...->
(cái chung) -> cái vốn có của con vật đó, tách rời khỏi mối liên hệ đó không còn
là con vật, con vật đó sẽ chết... Mối liên hệ đó mang tính khách quan, con người
không thể sáng tạo ra được mối liên hệ đó, mà có thể nhận thức, tác động... Trang 7 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu
trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong
của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống
mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
VD: Không gian và thời gian; sự vật, hiện tượng; tự nhiên, xã hội, tư duy đều
có mối liên hệ, chẳng hạn quá khứ, hiện tại, tương lai liên hệ chặt chẽ với nhau...
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của chù nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính
khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú,
đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được
thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối
liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát
triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng
nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất
và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ
thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong
những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên
hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp
và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối Trang 8 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những
điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
VD: Mối liên hệ con người, con cá... với nước khác nhau, cùng con người
nhưng mỗi giai đoạn phát triển khác nhau nhu cầu về nước cũng khác, con người
sống ở nơi lạnh, nơi nóng nhu cầu về nước khác nhau; cây xanh có cây cần nhiều
nước, ánh sáng, cây cần ít nước, ánh sáng...-> Mối liên hệ rất đa dạng, phong phú..
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan và phổ biển của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn
cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ
trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu
quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với
quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó".
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn, khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng
cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng
nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định
rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ Trang 9 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý
các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải
tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc
phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
2.4. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào thực tiễn
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho
phù hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ,
thầy cô… thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè
thì có những hành động , thái độ thoải mái,tự nhiên .Ngay cả quan hệ với một con
người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng
ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận:
“đối nhân xử thế”.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta
cần xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách
giải quyết, xử lý tốt .
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng;
đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua
những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên:
từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy,
khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói
chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay Trang 10 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu
cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái
của sự vật, hiện tượng mới.
3.2. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là
quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là
thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện
tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi
quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù
họp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển
là khuynh hướng chung của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống
nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác,
của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay
đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, Trang 11 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa
ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực
tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “... Lôgích biện chứng đòi
hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong
thực tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của
nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao
hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính
quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là
cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề
của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng
trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật,
Ph.Ăngghen viết: “... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem
xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ
qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự
tiêu vong của chúng!” . V.I.Lênin cũng cho rằng: “Phép biện chứng đòi hòi nguời Trang 12 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể
của những mối quan hệ đó”.
3.4. Vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào thực tiễn
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn còn có ý nghĩa
quan trọng góp phần thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của
nó và điều này cũng sẽ đòi hỏi mỗi chúng ta sẽ cần phải tìm ra mâu thuẫn của sự
vật và bằng hoạt động thực tiễn mà chúng ta sẽ có thể giải quyết mâu thuẫn. Cần
phải thấy được rằng sự phát triển là một quá trình khó khăn, phức tạp.
Ta có thể rút ra được những bài học về sự phát triển như sau:
– Khi bất cứ ai tiến hành xem xét các sự vật, hiện tượng thì mỗi người đều
sẽcần phải đặt nó trong sự vận động và phát triển: Các chủ thể sẽ cần phải nắm
được sự vật không chỉ như là cái mà nó đang có hay đang hiện hữu trước mắt mà
các chủ thể còn cần phải nắm được và hiểu rõ được khuynh hướng phát triển, khả
năng chuyển hóa của các sự vật.
– Chúng ta sẽ không được dao động trước những quanh co, những phức
tạpcủa sự phát triển ở trong thực tiễn: Vấn đề không được dao động trước những
quanh co, những phức tạp của sự phát triển ở trong thực tiễn cũng đòi phải cần
phải có sự nhìn nhận, sự đánh giá khách quan đối với sự vật, hiện tượng.
– Bên cạnh đó thì sẽ cần chủ động tìm ra được những phương pháp thúc đẩy
sựphát triển của sự vật, của hiện tượng: Mỗi người đều cần phải tích cực, chủ
động nghiên cứu để nhằm mục đích từ đó chúng ta sẽ có thể tự tìm ra được những
mâu thuẫn hiện có trong mỗi sự vật, hiện tượng để nhằm từ đó các chủ thể sẽ có
thể xác định được những biện pháp phù hợp nhất để nhằm có thể thông qua đó
giải quyết được những mâu thuẫn đó nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Những cái mới sẽ phải kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp lý của
cái cũ nhưng bên cạnh đó thì những cái mới cũng phải kiên quyết loại quả những Trang 13 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
cái đã quá lạc hậu cản trở và gây ảnh hưởng đến sự phát triển. Bởi vì trong phát
triển có sự kế thừa cũng chính vì thế mà các chủ thể sẽ rất cần phải chủ động phát
hiện, cổ vũ những cái mới, cái phù hợp để từ đó chúng ta sẽ có thể tìm cách thức
đẩy để nhằm mục đích phát triển cái mới, để cái mới chiếm đóng vai trò chủ đạo trong cuộc sống.
PHẦN II: TÍNH THỐNG NHẤT GIỮA HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên nhân và kết quả 1.1. Khái niệm
- Nguyên nhân dùng để chỉ tác động lẫn nhau của các mặt trong một
sự vật hoặc giữa sự vật với nhau gây ra một biến đổi nhất định. - Kết
quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các
mặt trongmột sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra - Nguyên
cớ: là cái cớ tác động làm cho sự vật diễn ra nhanh hay chậm
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- không có nguyên nhân nào không dẫn tới két quả nhất định
vàngược lại không có kết quả nào không có nguyên nhân
- nguyên nhân sinh ra kết quả do vậy nguyên nhân bao giờ cũng
cótrước kết quả còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân
- Nguyên nhân có thể dẫn tới nhiều kết quả
- Ngược lại một kết quả do nhiều nguyên nhân sinh ra
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
trongnhũng điều kiện hoàn cảnh cụ thể
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân theo 2 chiều hướng
+ Tích cực: thúc đẩy hoạt động nguyên nhân
+ Tiêu Cực: cản trở hoạt động nguyên nhân Trang 14 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận -
Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn thì phải luôn chú ý đến kết quả có thể đưa đến -
Một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả vì vậy khi giải quyết
vấn đề cần tìm ra nguyên nhân cơ bản chủ yếu trực tiếp để có
hướng giải quyết đúng. -
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân vì vậy phát huy tính
tích cựccủa kết quả, thúc đẩy hoạt động nguyên nhân đạt mục đích
2. Nội dung và hình thức 2.1. Định nghĩa
-Nội dung dùng đẻ chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt những yếu tố,
những quá trình tạo nên sự vật hiện tượng. -
Hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vậthiện tượng. -
Hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của
sự vậthiện tượng đó la hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững
giữa các yếu tố của nó.
2.2. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức -
Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ thống nhất biện
chứng với nhau nhưng không phải lúc nào cũng phù hợp trùng khít
hoàn toàn. - Nội dung quyết định hình thức -> hình thức tổ chức
phải trên cơ sở của nội dung hiện có. -
Hình thức có tính ổn định tương đối còn nội dung thường xuyên biến đổi. -
Mỗi nội dung có thể được biểu hiện bằng nhiều hình thức
nhưng mỗi hình thức đều có giá trị khác nhau. -
Là sự phù hợp biện chứng -> một nội dung có thể thể hiện
dưới nhiều hình thứcvà ngược lại. Trang 15 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nội dung và hình thức luôn thống nhất hữu cơ với nhau vì vậy
trong thực tiễn và nhận thức không được tách rời giữa nội dung và
hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt. -
Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật hiện
tượng thì trước hết phải căn cứ vào nội dung muốn thay đổi sự vật
hiện tượng trước hết phải thay đổinội dung của nó. -
Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức,
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. -
Cần thay đổi những hình thức không còn phù hợp với nội
dung đểthúc đẩy nội dung phát triển. KẾT LUẬN
Năng lực tư duy biện chứng là sức mạnh không thể thiếu được của mỗi con
người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, là đòi hỏi bắt buộc ở mỗi người
trong quá trình tiến hành nhiệm vụ nhận thức và cải tạo thế giới khách quan, là
đòi hỏi của thực tiễn xã hội đối với bản thân trong giai đoạn hiện nay. Để nâng
cao năng lực tư duy của bản thân thông qua rèn luyện phương pháp biện chứng
duy vật, giáo viên cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và phương pháp
dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên kiểm tra dưới
nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện
phương pháp biện chứng duy vật cho mỗi bản thân, sẽ góp phần quan trọng vào
việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện
chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Công Nghê Thông Tin, Trường Đại
Học Phenikaa đã tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập và hoàn thành đề tài
nghiên cứu này. Đặc biệt,em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Đồng Thị Trang 16 Nguyễn Thành Đạt Tiểu Luận
Tuyền đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn chúng em trong quá trình làm bài.
Em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn
thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức hạn chế và không có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và trình
bày. Rất kính mong sự góp ý của quý thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn. Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của cô đã
giúp đỡ em trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính
trị Quốc gia – Sự thật – 2017.
Một số chuyên đề về Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(tập 1), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008. Trang 17 Nguyễn Thành Đạt