Ngân hàng câu hỏi ôn tập môn Luật cạnh tranh
Trongkinhdoanh,cạnhtranhđượchiểulàhànhvicủacácdoanhnghiệp(thươngnhân)kinhdoanhcùng loại hàng hóa (dịch vụ) hoặc các hàng hóa (dịch vụ) có thể thay thế cho nhau (về mục đích sử dụng, giá cả, đặc tính) nhằmmua, bán, cung ứng được nhiều hàng hóa(dịch vụ) nhấttrên cùng một thịtrường liên quan. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật cạnh tranh
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NGÂN HÀNG CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN LUẬT CẠNH TRANH
Khái niệm cạnh tranh? Cơ sở tâm lý, văn hóa, kinh tế, pháp lý của cạnh tranh?
- Theo nghĩa rộng, cạnh tranh là những nỗ lực (sự ganh đua) của hai hay nhiều người (hoặc nhóm người)
nhằm đạt được một mục tiêu.
- Trong kinh doanh, cạnh tranh được hiểu là hành vi của các doanh nghiệp (thương nhân) kinh doanh cùng
loại hàng hóa (dịch vụ) hoặc các hàng hóa (dịch vụ) có thể thay thế cho nhau (về mục đích sử dụng, giá
cả, đặc tính) nhằm mua, bán, cung ứng được nhiều hàng hóa (dịch vụ) nhất trên cùng một thị trường liên quan.
+ Cơ sở tâm lý: Đây là những giá trị, niềm tin và thái độ của người dân đối với cạnh tranh. Một cơ sở tâm
lý tốt sẽ khuyến khích người dân tham gia cạnh tranh và đánh giá cao thành tích của những người thắng
cuộc. Trong khi đó, một cơ sở tâm lý xấu hơn có thể gây ra sự chống đối hoặc kết quả không công bằng.
+ Các giá trị văn hóa như sự tôn trọng, độc lập, trung thực và công bằng là cơ sở để tạo dựng một môi
trường cạnh tranh lành mạnh. Các doanh nghiệp và cá nhân cần phải tuân thủ các quy tắc đạo đức và đạo
lý để đảm bảo một cuộc cạnh tranh lành mạnh.
+ Cơ sở kinh tế của cạnh tranh là nguyên tắc cung cầu. Khi có nhiều doanh nghiệp cung cấp sản phẩm
hoặc dịch vụ giống nhau, thị trường sẽ tự động điều chỉnh giá cả để đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng. Các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ phải tìm cách cải thiện chất lượng sản phẩm hoặc giảm giá để thu hút khách hàng.
+ Cơ sở pháp lý của cạnh tranh được quy định trong các quy định pháp luật về cạnh tranh của từng quốc
gia. Đây là những quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp,
ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
1. Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp trong pháp luật Việt Nam?
Điều 5 LCT 2018. Quyền và nguyên tắc cạnh tranh trong kinh doanh
“1. Doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo đảm quyền cạnh tranh
hợp pháp trong kinh doanh.”
→ Theo đó, doanh nghiệp – các chủ thể kinh doanh có quyền tự do cạnh tranh nhưng quyền này không tuyệt
đối. Bên cạnh đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 5 LCT 2018 còn quy định cụ thể:
- Việc kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh tại chương III, IV, V LCT 2018 (thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh; Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền; Tập trung kinh tế).
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại chương VI LCT 2018 (Hành vi xâm phạm thông tin bí
mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha DN khác; gây rối hoạt động kinh doanh của
DN khác; lôi kéo khách hàng bất chính; bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn
đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ DN khác;...)
Quyền tự do kinh doanh còn được ghi nhận tại Hiến pháp “Điều 33 Hiến pháp năm 2013, theo đó mọi người
đều có quyền tự do kinh doanh với bất kể ngành nghề nào, chỉ cần là trong khuôn khổ những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
2. Cơ chế vận hành của cạnh tranh? - Cơ chế tự hành: + Thương nhân:
● Khả năng: cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu của người tiêu dùng (NTD)
● Mong muốn: Tối đa hóa lợi nhuận. + Người tiêu dùng: ● Khả năng: trả tiền
● Mong muốn: dùng tiền để thỏa mãn nhu cầu của mình
- Chính sách của Chính phủ:
+ Bảo vệ người tiêu dùng
+ Chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lừa dối, thiếu đạo đức
+ Chống (kiểm soát các hành vi) hạn chế cạnh tranh: Chống độc quyền
Cơ chế vận hành của cạnh tranh là sự cấu thành bởi các mục đích của các doanh nghiệp cùng kinh doanh một
mặt hàng hoặc các mặt hàng có thể thay thế được cho nhau tranh giành các lợi ích một cách nhiều nhất về phần
mình. Vì vậy, có nghĩa rằng khi doanh nghiệp này đạt được mục đích của mình thì doanh nghiệp kia sẽ mất đi
một phần hoặc tất cả lợi ích mà đáng lẽ có thể có được.
3. Ý nghĩ của cạnh tranh đối với người tiêu dùng?
- Đối với người tiêu dùng, nhờ có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà người tiêu dùng có cơ hội nhận được
những sản phẩm ngày càng phong phú và đa dạng với chất lượng và giá thành phù hợp với khả năng của họ, cụ thể:
+ Giá cả: giá thấp hơn cho NTD và làm thỏa mãn nhu cầu của NTD. Thông qua quy luật cung cầu,
cạnh tranh phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị yếu của NTD.
+ Chất lượng hàng hóa, dịch vụ tăng lên do sức ép cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ.
+ Hình thức, kiểu dáng, mẫu mã, tính năng đa dạng hơn cho NTD lựa chọn.
+ Cạnh tranh tác động liên tục đến giá cả trên thị trường, buộc DN phải chọn phương án kinh doanh
sao cho chi phí nhỏ, hiệu quả cao, chất lượng phù hợp với nhu cầu NTD.
Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng có vị trí trung tâm, họ được cung phụng bởi các bên tham gia
cạnh tranh. Nhu cầu của họ được đáp ứng một cách tốt nhất mà thị trường có thể cung ứng, bởi họ là người có
quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc chơi. Nói khác đi, cạnh
tranh đảm bảo cho người tiêu dùng có được cái mà họ muốn. Một nguyên lý của thị trường là ở đâu có nhu cầu,
có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có mặt các nhà kinh doanh, người tiêu dùng không còn phải sống trong tình
trạng xếp hàng chờ mua nhu yếu phẩm như thời kỳ bao cấp, mà ngược lại, nhà kinh doanh luôn tìm đến để đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất.
Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách hạ giá thành sản phẩm nhằm
lôi kéo khách hàng về với mình. Sự tương tác giữa nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp trong điều kiện cạnh tranh đã làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ đạt được mức rẻ nhất có thể; các doanh
nghiệp có thể thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong khả năng chi tiêu của họ. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh
loại bỏ mọi khả năng bóc lột người tiêu dùng từ phía nhà kinh doanh.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng về trình độ công nghệ của
người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của người tiêu dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu; công
nghệ sẽ quyết định về yếu tố cung của thị trường. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu, người tiêu dùng
sẽ quyết định việc sử dụng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể. Phụ thuộc vào những tính toán về công nghệ, về chi
phí…nhà sản xuất sẽ quyết định mức độ đáp ứng nhu cầu về loại sản phẩm, về giá và chất lượng của chúng.
Thực tế đã cho thấy, mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ
công nghệ của doanh nghiệp. Những gì mà doanh nghiệp chưa thể đáp ứng sẽ là các đề xuất từ phía thị trường
để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai. Do đó, có thể nói nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng (đại diện
cho thị trường) có vai trò định hướng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Kinh tế học đánh giá hiệu quả của một thị trường dựa vào khả năng đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng. Thị
trường sẽ được coi là hiệu quả nếu nó cung cấp hàng hoá, dịch vụ đến tay người tiêu dùng với giá trị cao nhất.
Thị trường sẽ kém hiệu quả nếu chỉ có một người bán mà cô lập với các nhà cạnh tranh khác, các khách hàng khác.
cạnh tranh dẫn đến giá thấp hơn cho người tiêu dùng và làm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Thông qua
quy luật cung cầu, cạnh tranh có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng. Sự lựa chọn và sức tiêu thụ hàng hoá của họ là thước đo chính xác cho yêu cầu về chất
lượng và độ phù hợp của một sản phẩm. Cạnh tranh gây tác động hên tục đến giá cả sản phẩm trên thị trường,
buộc các doanh nghiệp phải phản ứng tự phát để chọn phương án kinh doanh sao cho chi phí nhỏ hiệu quả cao,
chất lượng tốt để phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. Bởi vậy, trong điều kiện có cạnh tranh, người
tiêu dùng là thượng đế, là trung tâm thị trường quyết định sự sống còn của sản phẩm, buộc các nhà kinh doanh
phải thỏa mãn nhu cầu của họ. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn sản phẩm mà họ muốn mua.
4. Ý nghĩa của cạnh tranh đối với nền kinh tế?
Chính sách công: xuất phát từ chức năng cạnh tranh đem lại cho nền kinh tế. (chức năng điều tiết ngành, các
ngành phải phân bổ 1 cách hợp lý và liên kết với nhau 1 cách hiệu quả).
- NN có vai trò định hướng và dẫn dắt thị trường,
- Điều chuyển, điều tiết các nguồn lực kinh tế xã hội ⇒ Cạnh tranh giúp nguồn lực kinh tế XH chuyển từ nơi
hiệu quả thấp đến nơi hiệu quả cao:
Như một 1 quy luật sinh tồn của tự nhiên, cạnh tranh đảm bảo phân phối thu nhập và các nguồn lực kinh tế tập
trung vào tay những DN giỏi, có khả năng và bản lĩnh trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ
những khả năng lạm dụng quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Vai trò điều
phối của cạnh tranh thể hiện thông qua các chu trình của quá trình cạnh tranh. Dẫu biết rằng, cạnh tranh là một
chuỗi các quan hệ và hành vi liên tục không có điểm dừng diễn ra trong đời sống của thương trường, song được
các lý thuyết kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển của các chu trình theo hình xoắn ốc. Theo đó, chu trình sau
có mức độ cạnh tranh và khả năng kinh doanh cao hơn so với chu trình trước. Do đó, khi một chu trình cạnh
tranh được giả định là kết thúc, người chiến thắng sẽ có được thị phần(kèm theo chúng là nguồn nguyên liệu,
vốn và lao động…) lớn hơn điểm xuất phát.Thành quả này lại được sử dụng làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh
tranh tiếp theo. Cứ thế, kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh và cạnh tranh hiệu quả sẽ làm cho doanh
nghiệp có sự tích tụ dần trong quá trình kinh doanh để nâng cao dần vị thế của người chiến thắng trên thương
trường. Trong cuộc cạnh tranh dường như có sự hiện diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi nguồn lực kinh tế
từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có khả năng sử dụng một cách tốt
hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị kinh tế của thị trường được sử dụng một cách tối ưu.
- Cạnh tranh thúc đẩy việc ứng dụng sự tiến bộ khoa học - công nghệ - kỹ thuật trong kinh doanh. Nhu cầu tìm
kiếm lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đáp ứng ngày càng tốt hơn đòi hỏi của thị trường,
mong giành phần thắng về mình. Cứ như thế, cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển
không ngừng của khoa học, kỹ thuật trong đời sống kinh tế và xã hội. Trên thực tế, sự thay đổi và phát triển liên
tục của các thế hệ máy vi tính và sự phát triển của hệ thống viễn thông quốc tế hiện đại cho thấy rõ vai trò của
cạnh tranh trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học, kỹ thuật.
- Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và có nhiều vai trò tích
cực khác đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Đối với bản thân các doanh nghiệp, cạnh tranh
làm giảm lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hướng né tránh cạnh tranh.
- Trong một nền kinh tế có sự cạnh tranh nó giúp cho các doanh nghiệp sẽ hoạt động một cách linh hoạt, đổi mới
một cách liên tục để phù hợp với xu hướng và mong muốn của khách hàng từ đó làm cho nền kinh tế cũng thay
đổi một cách tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tức là cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, có thể coi là nguồn gốc của sự đổi
mới liên tục trong đời sống kinh tế - xã hội. Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là quyền tự do
trong kinh doanh và sự độc lập trong sở hữu và hoạt động của doanh nghiệp. Khi sự tự do kinh doanh bị tiêu
diệt, mọi sự thi đua chỉ là những cuộc tụ họp theo phong trào, không thể là động lực thúc đẩy sự phát triển,
Cạnh tranh đòi hỏi nhà nước và pháp luật phải tôn trọng tự do trong kinh doanh. Trong sự tự do kinh doanh,
quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn trọng lợi ích của chủ thể khác và của xã hội luôn được đề cao như một
kim chỉ nam của sự phát triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia tăng của
quy mô và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế.
5. Ý nghĩa của cạnh tranh đối với các thương nhân?
- Thứ nhất, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cạnh tranh đòi hỏi phải có sức mạnh
và kĩ năng, buộc các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất
lượng ngày càng cao với giá thành ngày càng hạ. Doanh nghiệp nào có tiềm lực, có chiến lược kinh
doanh đúng đắn, hiệu quả sẽ tiếp tục vươn lên tồn tại, doanh nghiệp nào không đáp ứng được nhu cầu thị
trường sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
- Thứ hai, cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng khoa học, kỹ thuật mới, cải tiến công nghệ nhằm kinh
doanh có hiệu quả. Sẽ có nhiều sản phẩm tốt hơn sẵn có trên thị trường. Doanh nghiệp nào có sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị trường với giá phải chăng thì nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận cao
- Thứ ba, cạnh tranh dẫn đến giá thấp hơn cho người tiêu dùng và làm thoả mãn nhu cầu của người tiêu
dùng. Cạnh tranh gây tác động liên tục đến giá cả sản phẩm trên thị trường, buộc các doanh nghiệp phải
phản ứng tự phát để chọn phương án kinh doanh sao cho chi phí nhỏ hiệu quả cao, chất lượng tốt để phù
hợp với mong muốn của người tiêu dùng.
- Thứ tư, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp cũng như các quốc gia phải sử dụng các nguồn lực đặc biệt
là nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhất. Các doanh nghiệp phải cân nhắc khi sử dụng các nguồn lực
vào kinh doanh, phải tính toán để sử dụng các nguồn lực này sao cho hợp lí và có hiệu quả nhất.
6. Khái niệm thị trường hàng hóa liên quan và việc xác định thị trường hàng hóa liên quan?
● KN thị trường liên quan: là thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả các sản phẩm hay dịch vụ được
người tiêu dùng coi là có khả năng thay thế cho nhau do các đặc tính của sản phẩm, giá cả cũng như mục
đích sử dụng của chúng
● Xác định thị trường hàng hoá liên quan:
- xác định thị trường sản phẩm liên quan
+ thứ nhất, khả năng thay thế về cầu
+ thứ hai, khả năng thay thế về cung
- xác định thị trường địa lí liên quan
+ thứ nhất, khả năng thay thế về cầu
+ thứ hai, khả năng thay thế về cung
7. Khái niệm thị trường địa lí liên quan và việc xác định thị trường địa lí liên quan?
● KN thị trường địa lý liên quan: Là một khu vực địa lý cụ thể nơi các doanh nghiệp có liên quan tham gia
bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ trong những điều kiện cạnh tranh tương tự và các điều kiện cạnh
tranh tại khu vực này phải khác biệt đáng kể so với các điều kiện cạnh tranh tại các khu vực lân cận.
● xác định thị trường địa lý liên quan
- thứ nhất, khả năng thay thế về cầu
- thứ hai, khả năng thay thế về cung
8. Thị phần và việc xác định thị phần của doanh nghiệp?
- Thị phần (tiếng anh gọi là market share) là một phần sản lượng tiêu thụ mà một doanh nghiệp nào đó đã
chiếm lĩnh được trong một thị trường nhất định.Số liệu về tỷ trọng thị trường dùng để đo lường mức độ
tập trung hóa của người bán trong một thị trường.
- Thị phần của một doanh nghiệp được tính theo công thức:
Thị phần = Tổng doanh thu bán hàng của doanh nghiệp / Tổng doanh thu của thị trường
Thị phần = Tổng sản phẩm bán ra của doanh nghiệp/Tổng sản phẩm tiêu thụ của thị trường -
Ngoài ra, còn có công thức tính thị phần tương đối:
+ Thị phần tương đối (A)= Số sản phẩm bán ra của doanh nghiệp/Số sản phẩm bán ra của đối thủ cạnh tranh
+ Thị phần tương đối (A)= Phần doanh số của doanh nghiệp/Phần doanh số của đối thủ cạnh tranh. Theo đó:
● Nếu A > 1, thì lợi thế cạnh tranh thuộc về doanh nghiệp
● Nếu A < 1, thì lợi thế cạnh tranh thuộc về đối thủ
● Nếu A = 1, thì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp bằng lợi thế cạnh tranh của đối thủ trên thị trường.
9. Chính sách cạnh tranh? Các công cụ để thực hiện chính sách cạnh tranh?
- Chính sách cạnh tranh là tổng thể các biện pháp, công cụ vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo tự do cạnh
tranh và điều tiết cạnh tranh trong nền kinh tế, duy trì môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng phù
hợp với lợi ích chung của xã hội
- Chính sách cạnh tranh là một phần của chính sách kinh tế sẽ bao gồm hàng loạt các cải cách và chính
sách mà chính phủ đưa ra ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của doanh nghiệp và cấu trúc ngành trong quá trình cạnh tranh.
- Công cụ thực hiện chính sách CT: + Pháp luật CT + Công cụ hành chính + Thuế, phí, lệ phí
+ Tiêu chuẩn hàng hoá, dịch vụ
+ Tự do hoá thương mại, mở cửa thị trường + Cổ phần hoá DNNN…
10. Tại sao một nền kinh tế lại cần có chính sách cạnh tranh?
- Tạo lập, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng, minh bạch.
- Thúc đẩy cạnh tranh, bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ
- Tạo điều kiện để xã hội, người tiêu dùng tham gia quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về cạnh tranh.
11. Phân biệt “Chính sách cạnh tranh” và “Luật cạnh tranh”
Chính sách cạnh tranh: Là các quyết định, hướng
Luật cạnh tranh: là những quy định được đưa ra và
dẫn của chính phủ hoặc tổ chức quốc tế nhằm tạo ra
áp dụng bởi các cơ quan nhà nước để giám sát, kiểm
môi trường cạnh tranh hợp lý và công bằng cho các
soát và giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không lành
doanh nghiệp. Chính sách cạnh tranh có thể bao gồm
mạnh trong kinh doanh và thị trường. Luật cạnh tranh
các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và
thường có tính chất pháp lý và có thể có các biện
vừa, các biện pháp xử lý đối với hành vi độc quyền,
pháp trừng phạt nếu vi phạm.
tạo điều kiện để doanh nghiệp mới có thể tham gia
vào thị trường cạnh tranh,... Nga
12. Phân loại thị trường cạnh tranh?
● Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là dạng thị trường mà trên đó nhiều doanh nghiệp cùng hoạt
động, đồng thời mỗi doanh nghiệp không có khả năng chi phối hay ảnh hưởng đến giá cả thị trường.
● Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: là một thị trường trong đó có nhiều hãng sản xuất các
hàng hóa và dịch vụ, nhưng mỗi hãng chỉ có khả năng kiểm soát một cách độc lập đối với giá cả của họ
● Thị trường cạnh tranh tự do: được hiểu là trạng thái thị trường không có độc quyền, cũng không
có doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đủ lớn để có thể thực hiện được các hành vi lũng đoạn.
Trong trường hợp này, nếu hình thành doanh nghiệp độc quyền hoặc doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường thì Nhà nước cần can thiệp để phá vỡ trạng thái ấy, bảo đảm duy trì kết cấu thị
trường chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ để các hoạt động cạnh tranh được diễn ra dễ dàng
● Thị trường cạnh tranh có sự điều tiết: Là thị trường cạnh tranh mà ở đó Nhà nước bằng các
chính sách và công cụ pháp luật can thiệp vào đời sống thị trường để điều tiết, hướng các quan hệ
cạnh tranh vận động và phát triển trong một trật tự, đảm bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh.
13. Phân biệt thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
Những điểm chính của sự khác biệt giữa cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo trong kinh tế được
mô tả dưới đây:
➢ Thị trường cạnh tranh, trong đó có một số lượng lớn người mua và người bán, và người bán cung cấp
các sản phẩm giống hệt nhau cho người mua; nó được gọi là cạnh tranh hoàn hảo. Cạnh tranh không
hoàn hảo xảy ra khi một hoặc nhiều điều kiện của cuộc thi hoàn hảo không được đáp ứng.
➢ Cạnh tranh hoàn hảo là một tình huống giả định, không áp dụng trong thế giới thực. Ngược lại, Cạnh
tranh không hoàn hảo là một tình huống được tìm thấy trong thế giới ngày nay.
➢ Khi nói đến cạnh tranh hoàn hảo, có rất nhiều người chơi trên thị trường, nhưng trong cạnh tranh không
hoàn hảo, có thể có ít người chơi, tùy thuộc vào loại cấu trúc thị trường.
➢ Trong cạnh tranh hoàn hảo, người bán sản xuất hoặc cung cấp các sản phẩm giống hệt nhau. Ngược lại,
trong cạnh tranh không hoàn hảo, các sản phẩm được cung cấp bởi người bán có thể đồng nhất hoặc khác biệt.
➢ Nếu chúng ta nói về cạnh tranh hoàn hảo, không có rào cản nào đối với sự ra vào của các công ty mà
ngược lại trong trường hợp cạnh tranh không hoàn hảo.
➢ Trong cạnh tranh hoàn hảo, người ta cho rằng các công ty không ảnh hưởng đến giá của sản phẩm. Do
đó, họ là những người làm giá nhưng trong cạnh tranh không hoàn hảo, các công ty là người tạo ra giá.
14. Phân biệt thị trường cạnh tranh tự do và thị trường cạnh tranh có sự điều tiết?
● Thị trường cạnh tranh tự do
Thị trường cạnh tranh tự do là khái niệm được hiểu theo hai nghĩa sau:
Thứ nhất, thị trường cạnh tranh tự do được hiểu là trạng thái thị trường không có sự can thiệp của Nhà nước và
các yếu tố cung – cầu được tự do hoạt động.
Thứ hai, thị trường cạnh tranh tự do được hiểu là trạng thái thị trường không có độc quyền, cũng không có
doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đủ lớn để có thể thực hiện được các hành vi lũng đoạn. Trong trường hợp
này, nếu hình thành doanh nghiệp độc quyền hoặc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thì Nhà nước cần
can thiệp để phá vỡ trạng thái ấy, bảo đảm duy trì kết cấu thị trường chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ để các hoạt
động cạnh tranh được diễn ra dễ dàng. Thị trường cạnh tranh tự do gồm 2 kết cấu: -
Kết cấu thị trường cạnh tranh tự do không có sự can thiệp của Nhà nước
Kết cấu thị trường này hình thành trên cơ sở lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith, theo đó sự phát triển
kinh tế phụ thuộc vào quy luật tự nhiên bởi vì các hiện tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội luôn tồn tại một
trật tự nhất định. Chính vì vậy, thị trường cạnh tranh tự do tự có thể điều chỉnh được mối quan hệ giữa người
mua và người bán, giữa doanh nghiệp, thị trường và người tiêu dùng. Bởi vậy, Nhà nước không cần can thiệp
vào thị trường mà để cho thị trường tự điều chỉnh. Nói cách khác, sự can thiệp của Nhà nước với tư cách là bàn
tay hữu hình không đóng vai trò thiết yếu, thậm chí không cần thiết trong nền kinh tế thị trường. -
Kết cấu thị trường cạnh tranh tự do có sự can thiệp của Nhà nước
Thị trường cạnh tranh tự do dễ bị làm méo mó bởi sự độc quyền bằng cách kiểm soát phần lớn nguồn cung
(hoặc người mua độc quyền bằng cách kiểm soát nguồn cầu). Chính phủ hoặc các cơ quan có thẩm quyền sẽ can
thiệp vào thị trường tự do nếu những hành động “cố tình làm méo mó” tác động xấu làm ảnh hẳng đến hoạt
động chung của thị trường.
● Thị trường cạnh tranh có sự điều tiết
Khái niệm: Là thị trường cạnh tranh mà ở đó Nhà nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can thiệp vào
đời sống thị trường để điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và phát triển trong một trật tự, đảm bảo
sự phát triển công bằng và lành mạnh.
Nguyên nhân hình thành
Yêu cầu về sự điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh xuất phát từ nhận thức của con người về mặt trái của
cạnh tranh tự do và sự bất lực của bàn tay vô hình trong việc điều tiết đời sống kinh tế.
Với sự giục giã của lợi nhuận và khả năng sáng tạo những thủ pháp cạnh tranh trong kinh doanh, các doanh
nghiệp khi tham gia thương trường đã không ngừng tiến hành cải tiến và nâng cao trình độ công nghệ, trình độ
quản lí lao động, quản lí sản xuất kinh doanh để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Bên cạnh những tính toán để nâng cao khả năng kinh doanh một cách chính đáng, còn phát sinh nhiều toan tính
không lành mạnh nhằm tiêu diệt đối thủ để chiếm lĩnh vị trí thống trị thị trường, giảm bớt sức ép của cạnh tranh,
nhiều thủ đoạn chiếm đoạt thị phần của người khác một cách bất chính, lừa dối khách hàng để trục lợi….
Những biểu hiện không lành mạnh ấy ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn độ phức tạp trong biểu hiện, làm ô
nhiễm môi trường kinh doanh của thị trường.
Cho đến nay, học thuyết về mô hình tự do cạnh tranh dường như đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của nó, bởi hầu hết
các nước đều đã làm quen và hài lòng với mô hình cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước.
Lí luận cũng như thực tiễn của thị trường phải làm rõ vấn đề xác định chính xác mức độ và phương pháp, công
cụ can thiệp của Nhà nước để điều tiết môi trường cạnh tranh nhằm vừa bảo vệ trật tự cạnh tranh vừa tôn trọng
quyền tự do và tự chủ của các doanh nghiệp trên thương trường.
Mọi sự can thiệp một cách thô bạo vào thị trường vừa làm méo mó diện mạo của cạnh tranh vừa xâm hại đến
quyền tự do của các chủ thể kinh doanh.
15. Pháp luật cạnh tranh? Cấu trúc của pháp luật cạnh tranh?
Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể kinh
doanh trên thương trường đồng thời bao gồm cả các quy định đảm bảo thực thi luật cạnh tranh trong thực tế. Đó
là các quy định về; Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thi hành luật cạnh tranh; trình tự thủ tục xử lí vụ
việc cạnh tranh; các biện pháp xử lí vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Xét về nội dung điều chỉnh, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh những quan hệ sau:
- Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh trên thị trường.
- Quan hệ giữa cơ quan thi hành luật cạnh tranh với các chủ thể kinh doanh khi họ thực hiện các hành vi hạn chế
cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
● Cấu trúc của pháp luật cạnh tranh
❖ Cấu trúc nội dung: Pháp luật cạnh tranh có những nội dung chính là:
+ Pháp luật kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh
+ Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh;
+ Pháp luật về tố tụng cạnh tranh.
❖ Nguồn của pháp luật cạnh tranh:
+ Thứ nhất, các văn bản luật được Quốc hội thông qua bao gồm:
- Hiến pháp năm 2013 (bao gồm các quy định liên quan đến chính sách kinh tế).
- Luật cạnh tranh năm 2018 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018).
- Bộ luật dân sự năm 2015 (bao gồm các quy định liên quan đến hợp đồng vô hiệu, đến quyền
yêu cầu đình chỉ hành vi, bồi thường thiệt hại...).
- Ngoài ra, các quy định gián tiếp điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp còn
được thể hiện trong một số quy định của Luật thương mại năm 2005, Luật doanh nghiệp năm
2014, Luật đấu thầu năm 2013; Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật đầu tư năm 2014, Luật viễn
thông năm 2009, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi năm 2010)...
+ Thứ hai, các văn bản dưới luật do Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
hướng dẫn thi hành Luật cạnh tranh và các luật khác có liên quan đến hoạt động cạnh tranh.
16. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh? Mục đích, ý nghĩa và đặc trưng của
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh? Khái niệm:
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là những quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Các văn bản pháp luật quy định trực tiếp về cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam: – Luật cạnh tranh 2018
– Số 06: VBHN/BCT- Nghị định quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh Đặc điểm:
– Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh thường đặt ra các điều Khoản mở để từ đó xác định các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh không được thực hiện.
– Tính chất tiếp cận từ mặt trái: Trong khi các văn bản pháp luật về kinh tế khác tập trung quy định cụ thể các
quyền và nghĩa vụ – những việc được làm và phải làm – của chủ thể tham gia kinh doanh, thì pháp luật cạnh
tranh chỉ khoanh vùng các hành vi bị ngăn cấm trong hoạt động cạnh tranh, chứ không hướng dẫn các đối tượng
điều chỉnh cần làm những gì hoặc phải làm những gì.
– Tính chất không triệt để trong nội dung điều chỉnh: các quy định của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh,
không bao giờ quy định đầy đủ và triệt để toàn bộ các hành vi phản cạnh tranh tồn tại trong nền kinh tế xã hội.
Quy định của luật thường đặt ra điều Khoản mở cho phép cơ quan công quyền có thể bổ sung các hành vi mới
xuất hiện có ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh và xét thấy cần điều chỉnh, ngăn chặn. Mục đích:
– Thực hiện việc duy trì năng lực cạnh tranh thực tế của các doanh nghiệp.
– Có mục tiêu ngăn ngừa và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trái với đạo đức, tập quán kinh doanh. Ý nghĩa
– Bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh
– Bảo vệ lợi ích chính đáng cho các chủ thể kinh doanh ( chủ thể cạnh tranh), cho người tiêu dùng và lợi ích công cộng
– Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
– Luật chống Cạnh tranh không lành mạnh không cho phép cạnh tranh chống nhau, mà chỉ cho phép cạnh tranh
bên nhau nhằm thu hút người tiêu thụ.
17. Pháp luật về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh? Mục đích, ý nghĩa và đặc trưng
của pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh?
Định nghĩa về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật cạnh tranh:
“Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí
độc quyền và tập trung kinh tế.”
● Đặc trưng: Định nghĩa trên tạo nên cơ cấu pháp luật về các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh theo thông
lệ quốc tế, bao gồm 3 bộ phận: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng địa vị thống lĩnh thị trường, và tập trung kinh tế.
1. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Điều 8 Luật cạnh tranh quy định về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
"Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2. Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc
doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ."
2. Lạm dụng địa vị thống lĩnh thị trường
Để xác định sức mạnh kinh tế của một hay một nhóm doanh nghiệp trên thị trường, người ta tính đến các yếu tố sau:
– Năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như khả năng huy động vốn.
– Năng lực về công nghệ của doanh nghiệp.
– Khả năng sử dụng các nhãn hiệu, thương hiệu nổi tiếng.
– Quy mô của hệ thống đại lý, phân phối.
– Tỷ lệ thị phần của doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp trên thị trường liên quan.
Nhìn chung, các yếu tố trên đây là tương đối khó xác định về phương diện định lượng. Vì vậy, pháp luật thường
đặt trọng tâm của việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường vào yếu tố thị phần.
3. Tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế là xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong kinh tế thị trường.Theo Điều 16 Luật cạnh tranh quy định:
"Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
1. Sáp nhập doanh nghiệp;
2. Hợp nhất doanh nghiệp;
3. Mua lại doanh nghiệp;
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
5. Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật."
Theo đó, Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa
vụ hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình để hình thành một doanh nghiệp mới đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị hợp nhất.
● Mục đích: nhằm mục đích kiểm soát những hành vi có thể làm giảm sức ép cạnh tranh, cản trở cạnh
tranh và để bảo vệ cơ cấu, tương quan cạnh tranh trên thị trường, pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế
cạnh tranh; cấm không cho phép chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi đi ngược với đạo đức tập
quán kinh doanh tốt đẹp, gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng vì mục tiêu cạnh tranh.
● Ý nghĩa: góp phần tích cực vào việc tạo lập, duy trì và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, phân bổ hiệu
quả các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; cùng
với đó là đảm bảo tính hợp lý về mặt kinh tế, phát huy được các tác động tích cực, hạn chế giảm thiểu
các tác động phản cạnh tranh của các hành vi kinh doanh trên thị trường.
18. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế? Mục đích, ý nghĩa và đặc trưng của pháp luật
kiểm soát tập trung kinh tế?
● Trong quá trình kinh doanh, các chủ thể kinh doanh có quy mô lớn luôn tìm cách nâng cao áp lực cạnh
tranh; buộc các doanh nghiệp nhỏ yếu phải phụ thuộc vào mình; mặc khác, các doanh nghiệp yếu hơn
phải sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn; hoặc hợp nhất với nhau nếu muốn tồn tại, đó chính là hoạt động tập trung kinh tế ( TTKT)
● Các tiêu chí xác định hoạt động TTKT bị kiểm soát
Luật Cạnh Tranh Việt Nam đã quy định nhiều điều khoản tạo hành lang pháp lý; cho phép các cơ quan quản lý
nhà nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Cụ thể là:
➢ Quy định về ngưỡng thông báo TTKT
Thông báo về tập trung kinh tế giúp Nhà nước đánh giá các trường hợp có khả năng gây tác động; hoặc
có thể gây tác động đến cạnh tranh; từ đó ra quyết định cho thực hiện hay không được thực hiện đối với hoạt động TTKT đó.
Tại Việt Nam, việc kiểm soát TTKT theo hình thức tiến kiểm; yêu cầu các doanh nghiệp phải thông báo đến cơ
quan quản lý cạnh tranh khi đạt tới ngưỡng nhất định.
➢ Các hoạt động TTKT bị cấm
Để kiểm soát, ngăn cản việc hình thành một DN có vị trí thống lĩnh; gây ảnh hưởng lớn đối với nền kinh
tế; thì pháp luật cạnh tranh của Việt Nam kiểm soát và cấm tập trung kinh tế; theo hướng hạn chế những tác
động tiêu cực của tập trung kinh tế đến thị trường. Theo đó các hoạt động TTKT bị cấm là: Doanh nghiệp thực
hiện tập trung kinh tế gây tác động; hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sẽ đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể; của việc tập trung kinh tế dựa theo nhiều tiêu chí được quy định tại điều 15 Nghị định 35/2020/NĐ-CP;
quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh.
➢ Quy định về TTKT có điều kiện.
Đây là một quy định mới so với Luật cạnh tranh 2004; thể hiện sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh của
DN. Thay vì cấm, lúc này pháp luật cạnh tranh đã cho phép tập trung kinh tế; với điều kiện phải thực hiện một
số biện pháp; nhằm ngăn ngừa khả năng gây tác động đến cạnh tranh trên thị trường. Điều kiện này được quy
định cụ thể tại Điều 42 Luật Cạnh tranh 2018.
➢ Quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm soát hoạt động TTKT
* Thẩm quyền
Thẩm quyền kiểm soát hoạt động TTKT thuộc về Ủy ban cạnh tranh Quốc gia thuộc Bộ Công Thương.
* Trình tự, thủ tục kiểm soát hoạt động TTKT
Thủ tục và các bước thông báo tập trung kinh tế cũng được quy định rõ; tại từ Điều 33 đến Điều 41 Luật Cạnh
tranh 2018 và tại Nghị định số 35/2020/NĐ-CP; quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh
Trong quá trình thông báo TTKT, sau khi việc TTKT được thẩm định sơ bộ; trường hợp TTKT thuộc trường
hợp phải thẩm định chính thức; theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 Nghị định 35/2020/NĐ-CP; thì phải nộp hồ
sơ và thông qua bước thẩm định chính thức. Sau khi kết thúc thẩm định chính thức việc TTKT, UBCTQG ra quyết định về:
– Tập trung kinh tế được thực hiện: Nếu kết quả là tập trung kinh tế được thực hiện; DN tập trung kinh tế được
làm thủ tục tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật về DN; và quy định khác của pháp luật có liên quan.
– Tập trung kinh tế có điều kiện: Nếu kết quả là tập trung kinh tế có điều kiện; DN được phép tập trung kinh tế;
nhưng phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 42 Luật cạnh tranh 2018.
– Tập trung kinh tế thuộc trường hợp bị cấm: Trường hợp này, DN không được phép tập trung kinh tế.
➢ Quy định về xử lý hoạt động TTKT vi phạm
Điều 44 LCT 2018 liệt kê một số hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế. Đối với mỗi hành vi này
thì trong LCT 2018 cũng đưa ra thẩm quyền và các hình thức xử lý cụ thể. Theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều
110 LCT 2018; thì tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh có thể bị áp dụng một số hình thức xử phạt sau: – Cảnh cáo; – Phạt tiền;
– Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; hoặc văn bản tương đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
– Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
– Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm
Ngoài những hình thức xử phạt trên; tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh còn có thể
bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu; quả theo quy định pháp luật hiện hành.
Thẩm quyền thủ tục xử phạt được quy định chi tiết tại Nghị định số 75/2019/NĐ-CP; về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực cạnh tranh;
● Mục đích: nhằm xác định và ngăn ngừa, hoặc đưa ra các biện pháp khắc phục đối với những vụ việc có
khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường, đảm bảo các hoạt động TTKT không
gây ra hoặc không tiềm ẩn nguy cơ gây ra tác động tiêu cực tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, bảo
vệ sự hiệu quả của nền kinh tế thị trường, từ đó bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. ●
19. Pháp luật cạnh tranh dưới góc độ Kinh tế-Luật?
Theo các lý thuyết về kinh tế, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh
hồn và là động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được mô tả bởi ba đặc trưng căn bản sau đây:
- Một, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh
- Hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp. Nói cách khác,
cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh
doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng
- Ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm.
Dưới góc độ luật học, Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh
giữa các chủ thể kinh doanh trên thương trường đồng thời bao gồm cả các quy định đảm bảo thực thi luật
cạnh tranh trong thực tế. Đó là các quy định về; Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thi hành luật
cạnh tranh; trình tự thủ tục xử lí vụ việc cạnh tranh; các biện pháp xử lí vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
20. Đối tượng điều chỉnh của Luật cạnh tranh?
Luật cạnh tranh 2018 (Điều 2, Điều 8) đã mở rộng đối tượng điều chỉnh tới cả các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước có liên quan (không phải là thương nhân) bên cạnh hai nhóm chủ thể truyền thống là thương nhân
và hiệp hội thương nhân, trong đó bao gồm cả các cơ quan quản lý Nhà nước. Đồng thời, Luật cạnh tranh 2018
đã có quy định bao quát và cụ thể hơn trong Điều 8 về Các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến cạnh tranh.
Theo đó, cơ quan nhà nước bị cấm thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường sau đây: a) Ép buộc,
yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện hoặc không thực hiện việc sản
xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ
với doanh nghiệp cụ thể, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn
cấp theo quy định của pháp luật; b) Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp; c) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị
các hiệp hội ngành, nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm hạn
chế cạnh tranh trên thị trường; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh.
21. Phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh?
Luật cạnh tranh 2018 sau khi được ban hành thanh thế cho Luật cạnh tranh 2004 đã mở rộng phạm vi
điều chỉnh tại Điều 1 của Đạo luật. Theo đó, Luật cạnh tranh 2018 không chỉ điều chỉnh với những hành vi hạn
chế cạnh tranh hay tập trung kinh tế được xác lập, thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam mà còn điều chỉnh cả các
hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng gây tác động
hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam1.
Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn. Trong thời gian qua, trên thị trường đã xuất hiện nhiều thương vụ mua bán doanh nghiệp lớn
diễn ra ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng lại có tác động tới thị trường cạnh tranh tại Việt Nam như thương vụ
Grab mua lại Uber, Tập đoàn Abbott mua lại Công ty dược phẩm CFR, Tập đoàn Central Group (Thái Lan) mua
lại Hệ thống siêu thị Big C tại Việt Nam... Với xu thế toàn cầu hóa kinh tế và mở cửa thị trường, phạm vi hoạt
động của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng trên phạm vi lãnh thổ của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó,
thực tiễn sẽ phát sinh các hành vi phản cạnh tranh tuy diễn ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia, nhưng có tác động tới
môi trường cạnh tranh trong nước đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý để điều tra và xử lý. Ngoài ra, cũng trong thời
gian gần đây, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã hoặc đang đàm phán để gia nhập đều
có quy định về nghĩa vụ thực thi luật và chính sách về cạnh tranh nhằm bảo đảm điều chỉnh các hành vi phản
cạnh tranh gây ảnh hưởng đến quan hệ thương mại, đầu tư, phúc lợi người tiêu dùng tại các nước thành viên.
Như vậy, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh 2018 còn nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thiện
pháp luật cạnh tranh tiệm cận với hệ thống pháp luật cạnh tranh các quốc gia trên thế giới, đặc biệt trong bối
cảnh nền kinh tế số như hiện nay.
22. Xử lý xung đột pháp luật cạnh tranh?
● Nguyên tắc sử dụng điều khoản xác định hiệu lực hoặc dẫn chiếu
Điều khoản xác định hiệu lực áp dụng hoặc dẫn chiếu áp dụng là điều khoản quy định một cách rõ ràng trong
trường hợp có sự xung đột, mâu thuẫn thì luật nào sẽ được chọn áp dụng. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn,
xung đột mà văn bản pháp luật cụ thể có điều khoản xác định hiệu lực hoặc điều khoản dẫn chiếu thì căn cứ vào
đó có thể xác định được luật áp dụng và cơ quan có thẩm quyền thực thi.
● Vận dụng nguyên tắc pháp lý ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành
Trong thực tiễn và lý luận pháp lý có đưa ra nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành so với luật chung.
Đây là một nguyên tắc pháp lý có thể được áp dụng trong những trường hợp nhất định và trong những điều kiện
xác định. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần phải xác định một cách rõ ràng đâu là luật chuyên ngành,
đâu là luật chung hay nói cách khác phải xác định đâu là luật chung đâu là luật riêng. Mối quan hệ giữa các văn
bản pháp luật hiện nay rất đa dạng và phức tạp. Trong quan hệ này có thể một văn bản pháp luật được coi là luật
chung nhưng trong quan hệ khác văn bản pháp luật đó có thể được coi là luật riêng. Trong quan hệ với các luật
khác, Luật cạnh tranh là luật chung hay luật riêng cũng là một trong những vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Nếu
đứng trên quan điểm Luật cạnh tranh là hiến pháp của nền kinh tế thị trường, áp dụng chung cho tất cả các
doanh nghiệp trong mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế thì lúc đó Luật cạnh tranh sẽ là luật chung và các
pháp luật chuyên ngành khác là luật riêng. Vì vậy, khi áp dụng sẽ ưu tiên áp dụng luật riêng. Còn nếu đứng trên
quan điểm Luật cạnh tranh chỉ quy định và điều chỉnh riêng đối với vấn đề cạnh tranh mà không quy định và
điều chỉnh đối với những vấn đề khác trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế thì khi đó Luật cạnh tranh lại
1 Điều 2 Luật cạnh tranh 2004 xác định chỉ điều chỉnh đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh và các hiệp hội ngành nghề hoạt động
tại Việt Nam. Như vậy, Luật Cạnh tranh 2004 chưa có quy định để kiểm soát các hành vi bên ngoài lãnh thổ nhưng có tác động hoặc
khả năng gây tác động hạn hế
c cạnh tranh tới môi trường cạnh tranh tại Việt Nam
được coi như luật riêng. Vì vậy, mọi vấn đề liên quan đến cạnh tranh phải được áp dụng theo các quy định của Luật cạnh tranh.
● Sử dụng nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật
Trong nhiều trường hợp để xác định được luật áp dụng và/hoặc cơ quan có thẩm quyền thực thi phải sử dụng
nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
● Lưu ý những trường hợp có sự mâu thuẫn
Khi sử dụng các nguyên tắc trên đây cũng cần lưu ý những trường hợp có sự mâu thuẫn, hay nói cách khác là
trong cùng một trường hợp nhưng có thể có nhiều hơn một sự lựa chọn, nhiều hơn một nguyên tắc áp dụng. Ví
dụ, theo quy định của luật cạnh tranh, trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia từ 30% đến 50% thì phải thông báo cho Cơ quan quản lý cạnh tranh (Điều 20). Trong khi theo quy
định của Luật viễn thông, các doanh nghiệp viễn thông khi tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến
50% trên thị trường dịch vụ liên quan phải thông báo cho cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông trước khi
tiến hành tập trung kinh tế. Như vậy, cùng một vấn đề nhưng hai luật lại quy định hoàn toàn khác nhau. Nhưng
vì đây là hai văn bản luật cùng do Quốc hội ban hành có giá trị pháp lý ngang nhau nên không thể áp dụng
nguyên tắc văn bản có giá trị pháp lý cao hơn để loại trừ áp dụng. Khi căn cứ vào các quy định và nguyên tắc
pháp lý nêu trên thì có ít nhất hai lựa chọn. Nếu căn cứ quy định tại Điều 5, Luật cạnh tranh thì trong trường hợp
này sẽ áp dụng Luật cạnh tranh. Nhưng nếu căn cứ theo quy định tại Khoản 3, Điều 83, Luật ban hành QPPL thì
trong trường hợp này sẽ áp dụng Luật viễn thông vì luật này được ban hành sau. Như vậy, trong trường hợp này
xuất hiện hai sự lựa chọn khác nhau vì vậy giữa các cơ quan liên quan cần có sự hợp tác với nhau.
23. Độc quyền hành chính? Các hành vi bị cấm đối với cơ quan quản lý nhà nước?
● “Độc quyền hành chính” có thể được hiểu là việc một chủ thể kinh doanh có được vị thế độc quyền
nhưng không phải do sức mạnh kinh tế mà do sự tác động của quyền lực nhà nước. Độc quyền hành
chính xuất hiện khi nhà nước và các cơ quan nhà nước lạm dụng quyền lực của mình thực hiện những
hành vi nhằm phá huỷ và ngăn cản cạnh tranh một cách bình thường, và nó là kết quả của quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Bằng những văn bản pháp
quy, các quyết định hành chính và hành vi hành chính, các cơ quan công quyền và công chức nhà nước
khi thi hành công vụ đã can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra những lợi thế đặc biệt cho
một số doanh nghiệp nhất định về thị trường, tín dụng, khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên…nhằm
tạo ra vị thế độc quyền cho các doanh nghiệp này, đồng thời, gây cản trở, khó khăn cho hoạt động kinh
doanh bình thường của các doanh nghiệp khác.
● Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan đến cạnh tranh
1. Cơ quan nhà nước thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường sau đây:
a) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện hoặc không thực hiện
việc sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng
dịch vụ với doanh nghiệp cụ thể, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường
hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật;
b) Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp;
c) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị các hiệp hội ngành, nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hoặc các doanh
nghiệp liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh trên thị trường;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh. Nguyên
24. Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh?
- Theo khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là: hành
vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực
khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.
- K2 Điều 10bis Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ QSHCN: Bất cứ hành động nào trái với tập quán
trung thực trong Công nghiệp & Thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh. *Đặc điểm:
- Là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại; -
Thường mang tính chất đơn phương;
- Trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực và các chuẩn mực kinh doanh khác;
- Chủ yếu xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng;
- Được điều chỉnh bởi luật tư.
- Chủ yếu xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh: Vấn đề quan điểm: Hoa Kỳ - EU
“Các ngài bảo vệ các thực thể tham gia cạnh tranh, chúng tôi bảo vệ cạnh tranh” (You protect
competitors; We protect competition).
- Được điều chỉnh bởi luật tư. Khác với pháp luật chống HCCT bởi: + Tố quyền + Nghĩa vụ chứng minh + Thời hiệu
1.Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tượng
áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam, các hiệp hội ngành nghề. Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu
dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế… không là đối tượng áp dụng các quy định của pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh. Đôi khi, thực tế phát sinh những tình huống một số tổ chức phi kinh tế, các đơn
vị truyền thông… thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp, ví dụ
tung tin không trung thực về doanh nghiệp, về hàng hóa. dịch vụ…. Với việc giới hạn chủ thể thực hiện hành vi,
pháp luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý những tình huống trên. Mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định
hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế,
mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng cho
mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế. Nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp dụng cho bất kỳ ngành nghề,
lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân 2. Hành vi cạnh tranh trái với nguyên tắc thiện
chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh Đặc điểm này là
căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành vi. Tuy nhiên, “trái với chuẩn mực thông thường
về đạo đức kinh doanh” là thuật ngữ trừu tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Không có những căn cứ pháp lý
hoặc cấu thành pháp lý cụ thể để xác định đặc điểm này. Thế nên, Cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng
khái niệm hành vi không lành mạnh để quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là không lành mạnh. Để
khắc phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải quyết hai nội dung sau: Một, vì các phương
pháp cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm thủ đoạn gây nhầm lẫn, gian dối, gièm pha, bóc lột, gây rối, nên Luật
Cạnh tranh 2018 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh bị coi là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của
chúng. Pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước như Cộng hoà liên bang Đức, Nhật bản… đều có cách tiếp cận
tương tự, tức là ngoài việc đưa ra khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh(Điều 1 Luật chống cạnh
tranh không lành mạnh Cộng hòa Liên bang Đức quy định: “người nào trong quan hệ thương mại mà có những
hành vi nhằm mục đích cạnh tranh, song những hành vi này chống lại truyền thống kinh doanh lành mạnh thì
buộc phải chấm dứt hành vi đó và bồi thường thiệt hại”) còn liệt kê và mô tả từng hành vi bị coi là không lành
mạnh trong cạnh tranh. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Luật cạnh tranh
Việt nam và của các nước chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, việc áp dụng sẽ căn cứ vào các quy
định về từng hành vi vi phạm cụ thể như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, dèm pha doanh
nghiệp khác…. Hai, các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh được xác định dựa vào hai căn cứ sau
đây: – Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hoá bằng pháp luật, một khi hành vi đi trái với
các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh. Trong trường hợp này, hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đồng nghĩa với hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể là
hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều cấm của pháp luật (bao gồm các quy định cấm của Luật
Cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác như pháp luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở
hữu trí tuệ…) hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy định như pháp luật khuyến
mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại như sau: “mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được
khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại(Điều 6 Nghị
định số 37/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.). – Các tập quán
kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi được áp dụng đối với những hành vi chưa được pháp luật
dự liệu là cạnh tranh không lành mạnh. Nói cách khác, căn cứ này là biện pháp dự phòng để áp dụng cho những
trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến
quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng và trái với
tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả năng điều chỉnh và khắc phục được tình trạng chóng lạc hậu
của pháp luật cạnh tranh. Cho đến nay, Luật cạnh tranh chưa quy định những tập quán kinh doanh nào được coi
là các chuẩn mực đạo đức thông thường. Tính trái chuẩn mực đạo đức thông thường trong kinh doanh của hành
vi cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với
thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành mạnh cụ thể luôn thay đổi và có sự khác biệt theo
từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như sau: – Quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý niệm
liên quan đến xã hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định nên có thể dẫn đến hiện tượng là
hành vi cạnh tranh bị coi là cạnh tranh không lành mạnh ở nước này, nhưng được coi là lành mạnh ở nước khác.
– Trong đời sống thị trường, những hành vi cạnh tranh luôn được sáng tạo không ngừng về hình thức thể hiện và
phương thức cạnh tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh mới muôn mầu, muôn vẻ
và phát triển không ngừng. Vì vậy, phạm vi của khái niệm cạnh tranh không lành mạnh cũng phải luôn được bổ
sung bởi sự nhận thức của con người về bản chất không lành mạnh của những hành vi mới phát sinh. – Hiện
nay, pháp luật cạnh tranh của các nước, các học thuyết liên quan đến cạnh tranh chưa đưa ra được những tiêu
chuẩn chung về tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh mà chỉ mới dựa vào việc phân tích các hậu quả của hành
vi cạnh tranh đối với đời sống kinh tế, xã hội để xác định sự lành mạnh và mức độ biểu hiện của các hành vi đó.
Theo sự thay đổi và phát triển của thị trường, nhận thức về mức độ ảnh hưởng của từng hành vi trên thị trường
cũng thay đổi. Có những thời điểm nhất định, hành vi nào đó có thể sẽ là nguy hiểm cho xã hội, nhưng ở thời
điểm khác lại không có điều kiện để gây hại cho đối thủ hoặc cho người tiêu dùng. Sự thay đổi đó đã làm cho
phạm vi của khái niệm cạnh tranh không lành mạnh luôn biến đổi.
3.Hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp khác và người tiêu dùng
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích của Nhà nước, của các doanh nghiệp
khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có
thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do
đó, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có cấu thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) như dèm
pha doanh nghiệp khác; một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể
chỉ là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung thực…. Đặc điểm
về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc độ lý thuyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị
trường. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đội tượng cụ thể, song nghiêm trọng
hơn là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh
chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý
cạnh tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy,
cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác nhau. Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc
điểm về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của
con người về tính nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Ở thời kỳ
đầu tiên, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ
cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự đối đầu giữa các đối thủ trên thị trường, vì vậy những hành vi
xâm hại lợi ích người tiêu dùng không nằm trong khái niệm cạnh tranh không lành mạnh. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, những hành vi không lành mạnh được thực hiện với khách hàng (người tiêu dùng),
tưởng chừng như không liên quan đến các đối thủ cạnh tranh nhưng thực tế cũng làm tổn hại và thậm chí phá vỡ
trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện hành(Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật). Do đó, quan niệm về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đã làm cho pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh mở rộng phạm vi sang cả
những hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng, của người tiêu dùng.
25. Phân biệt cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh?
Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh đúng pháp luật của Nhà nước, đúng chuẩn mực đạo đức xã hội. Đây là sự
cạnh tranh hợp pháp và đàng hoàng, không dùng thủ đoạn mờ ám hay bất chính để hại đối thủ. Cạnh tranh lành
mạnh xuất phát từ mỗi nhân viên muốn khẳng định năng lực bản thân, muốn phát triển sự nghiệp đi lên cùng sự
phát triển công ty. Góp phần thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển mạnh, phát triển nhanh và phát triển đúng hướng tích cực.
26. Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn?
Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn:
1) Chủ thể có quyền yêu cầu xử lý hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn là chủ thể kinh doanh đã sử dụng trước
các chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 2 Điều 130 của Luật Sở hữu trí tuệ một cách rộng rãi, ổn định trong hoạt động kinh doanh
hợp pháp tại Việt Nam, được người tiêu dùng biết đến uy tín của chủ thể kinh doanh và hàng hóa, dịch vụ mang chỉ dẫn thương mại đó.
2) Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 2 Điều 130 của Luật Sở hữu trí tuệ gồm các đối tượng sở hữu công nghiệp (nhãn
hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý) và các đối tượng sau đây:
(i) "Nhãn hàng hóa" là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực
tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hoá hoặc trên các chất liệu khác được gắn trên hàng hoá, bao bì thương phẩm của
hàng hóa thể hiện nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa để người tiêu dùng nhận biết, làm căn cứ lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng; để
nhà sản xuất, kinh doanh quảng bá cho hàng hoá của mình và để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát;
(ii) "Khẩu hiệu kinh doanh" là một nhóm từ ngữ xuất hiện bên cạnh tên doanh nghiệp hoặc nhãn hiệu của sản phẩm của
doanh nghiệp nhằm nhấn mạnh mục đích hoặc tiêu chí kinh doanh của doanh nghiệp hoặc đối tượng khách hàng mà sản phẩm hướng tới.
(iii) "Biểu tượng kinh doanh" là ký hiệu, chữ viết, hình vẽ, hình khối được thiết kế một cách độc đáo và được coi là biểu
tượng của doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh;
(iv) “Kiểu dáng bao bì hàng hóa” là thiết kế, trang trí bao bì hàng hóa, gồm hình dạng, đường nét, hình vẽ, chữ, số, màu sắc,
cách trình bày, cách phối hợp màu sắc, cách bố trí, kết hợp giữa các yếu tố nói trên tạo nên ấn tượng riêng hay nét đặc trưng của bao bì hàng hóa.
3) Chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn là chỉ dẫn thương mại chứa các dấu hiệu (yếu tố cấu thành, cách trình bày, cách kết hợp
giữa các yếu tố, màu sắc, ấn tượng tổng quan đối với người tiêu dùng) trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với chỉ dẫn thương mại tương
ứng của chủ thể quyền yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh được sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự.
Việc sử dụng chỉ dẫn nêu trên nhằm mục đích gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ, xuất xứ địa lý, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác
của hàng hóa, dịch vụ, hoặc về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
4) Chủ thể yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn phải cung cấp các chứng cứ chứng minh:
(i) Chủ thể kinh doanh đã sử dụng chỉ dẫn thương mại một cách rộng rãi, ổn định, được nhiều người tiêu dùng tại Việt Nam
biết đến, có thể bao gồm: các thông tin về quảng cáo, tiếp thị, trưng bày triển lãm; doanh thu bán hàng; số lượng sản phẩm bán ra; hệ
thống đại lý phân phối, liên doanh, liên kết; quy mô đầu tư; đánh giá của các cơ quan nhà nước, phương tiện thông tin đại chúng, bình
chọn của người tiêu dùng và các thông tin khác thể hiện uy tín của chủ thể kinh doanh gắn với chỉ dẫn thương mại trong hoạt động
kinh doanh của mình tại Việt Nam;
(ii) Bên bị yêu cầu xử lý đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh
doanh, phương tiện dịch vụ, phương tiện quảng cáo;
(iii) Bên bị yêu cầu xử lý tiếp tục sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn mặc dù đã được chủ thể quyền yêu cầu chấm dứt
việc sử dụng hoặc thay đổi chỉ dẫn đó.
27. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh? - Biểu hiện hành vi:
• Tiếp cận, thu thập TTBMKD bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật;
• Tiết lộ, sử dụng TTBMKD không được phép của chủ sở hữu. -
Lưu ý: So với Luật sở hữu trí tuệ
- Luật SHTT đưa ra định nghĩa và điều kiện để BMKD được tự động bảo hộ (không cấp giấy
chứng nhận) rất khắt khe (Đ4):
+ Là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ; + Chưa được bộc lộ;
+ Có khả năng sử dụng trong kinh doanh. -
Biểu hiện hành vi xâm phạm quyền đối với BMKD theo Luật SHTT rộng hơn: vi phạm
HĐ bảo mật, không thực hiện bảo mật như cam kết, tiếp cận BMKD trong quá trình thực
hiện các thủ tục hành chính... (Đ 127 Luật SHTT).