







Preview text:
                                                                                             
Câu 5. Nội dung các cặp phạm trù cơ bản của phép duy vậy biện chứng. ý nghĩa phương pháp luận 
1. Cái riêng và cái chung 
1.1. Phạm trù cái riêng, cái chung 
Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để 
chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tò”, những quan hệ,... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng. 
Trong mỗi sự vật, hiện tượng ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là những đặc tính, những tính chất,... chỉ 
tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác. 
1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung 
Theo quan điểm duy vật biện chứng:  - 
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan. Trong đó, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, 
thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng, tức là 
không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể.  - 
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời  cái chung.  - 
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, 
bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất; còn cái chung biểu hiện 
tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.  - 
Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định. 
=> Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung đã được V.I. Lênin khái quát ngắn gọn: 
“Như vậy, các mặt đối lập (cái riêng đối lập với cái chung) là đồng nhất: cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa 
đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung. 
Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ cái chung nào 
cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái 
chung, v.v., v.v.. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyên hóa mà liên hệ với những cái riêng 
thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình), v.v.”. 
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận 
- Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. 
- Không nhận thức được cái chung thì trong thực tiễn khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất 
định vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ những cái 
riêng tói cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài những cái riêng.  Mặt khác:  - 
cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, 
máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung đế giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.  - 
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải biết vận dụng các điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa 
giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể 
chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định. 
Câu 6. Bản chất của nhận thức; vai trò của thực tiễn đối với nhận thức; nguyên tắc thống 
nhất giữa lý luận và thực tiễn. 
1. Bản chất của nhận thức 
Nhận thức là gì? Bản chất của nhận thức nằm ở đâu? 
Ở một góc độ nhất định, nhận thức là một loại hình đặc biệt của ý thức. 
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của nhận thức sẽ được làm sáng tỏ dựa trên những 
nguyên tắc cơ bản sau đây: 
- Nguyên tắc (1): Thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất ở bên ngoài và độc lập với ý thức. Nhận thức là 
sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người một cách chủ động và sáng tạo (xác định khách thể và 
chủ thể của nhận thức). 
- Nguyên tắc (2): Thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người: “Về nguyên tắc, không có cái gì là 
không thể biết, có chăng chỉ là cái chưa biết được mà thôi”. 
- Nguyên tắc (3): Nhận thức không phải là một hành động nhất thời, thụ động mà là một quá trình biện 
chứng phát triển theo quy luật nội tại của nó; là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, 
đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, là quá trình không ngừng 
nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn.     
- Nguyên tắc (4): Nhận thức có nguồn gốc từ thế giới vật chất nhưng cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của 
nhận thức là thực tiễn. Con người là chủ thể của nhận thức trước hết vì con người là chủ thể trong hoạt  động của mình 
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: 
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu 
óc của con người trên cơ sở thực tiễn.   
* Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? 
- Thực tiễn : là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích,mang tính lịch sử - xh của con người nhằm cải biến  tự nhiên và xh. 
- Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú trong đó có 3 hình thức cơ bản 
là: hoạt động sản xuất vật chất,hđ chính trị- xh, hđ thực nghiệm xh. 
- Mỗi hình thức hđ cơ bản của thực tiễn có 1 chức năng quan trọng khác nhau,ko thể thay thế cho 
nhau,song chúng có mối quan hệ chặt chẽ,tác động qua lại lẫn nhau.Trong đó hđ sản xuất vc đóng vai trò 
quan trọng nhất,quyết định đối với các hđ thực tiễn khác. 
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của 
chân lý,kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận 
thức;nó đề ra nhu cầu,nhiệm vụ,cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. 
1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức: 
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự vật, hiện tượng của thế 
giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn 
luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. 
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn  thiện hơn. 
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức. 
2. Thực tiễn là động lực của nhận thức: 
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực tiễn 
lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực 
tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. 
3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức : 
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng 
của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan , đáp ứng những 
nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do 
yêu cầu của thực tiễn. 
4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức 
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát  triển và ngược lại. 
- Như vậy,thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức,là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với 
sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm 
tính đúng đắn của mình.   
2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận khoa học đối với chúng ta 
trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải tuân thủ yêu 
cầu cơ bản của nguyên tắc này là: 
Thứ nhất, mọi lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải phục vụ thực tiễn, được kiểm nghiệm trong thực tiễn, được bổ 
sung, phát triển qua thực tiễn. 
Thứ hai, mọi thực tiễn phải được soi sáng bởi lý luận, phải được lý luận dẫn đường. Nếu xa rời yêu cầu cơ bản của 
nguyên tắc này thì tất yếu sẽ mắc bệnh hoặc là bệnh kinh nghiệm hoặc là bệnh giáo điều. 
Hiện nay vẫn còn đó căn bệnh giáo điều, bảo thủ, trì trệ, chủ quan, duy ý chí,… trong nhận thức và hoạt động thực 
tiễn ở cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội XI năm 2011, Đảng ta nêu rõ: “Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai 
lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật 
khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp 
cách mạng tiến lên.[17]” Vì vậy, để đạt được mục tiêu Dân giàu, n c mạnh, dân chủ, công  ng, văn minh, thì viêc     
ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều, bảo thủ, trì trệ, bệnh chủ quan, duy ý chí trong nhận thức và hoạt động thực 
tiễn là viêc phải được tiến hành thường xuyên của Đảng ta. 
Câu 1. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế- xã hội. ý nghĩa phương pháp luận đối 
với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. 
1.1. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội  - 
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật 
biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản 
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến 
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể 
được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai 
đoạn lịch sử nhất định.  -  Nội dung: 
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm: 
+ Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - 
xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình 
thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội. 
+ Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi 
hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn 
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. 
⇨ Tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, cái gọi là 
xã hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc 
đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những tổng hợp các quan hệ sản 
xuất theo loại đó mà mỗi tổng thể ấy đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong  lịch sử nhân loại 
Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, 
dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã 
hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất 
với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.   
1.2 Các loại hình thái kinh tế - xã hội 
Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuần tự xuất hiện 05 hình thái kinh tế xã hội từ thấp  đến cao: 
- Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy) 
- Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ (giai cấp chủ nô mang sứ mệnh lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông nô 
- Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ và nông dân 
- Hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm tri thức, tiểu tư sản 
- Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân) 
3. Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội 
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết một cách khoa học những vấn đề duy vật 
biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận 
động và phát triển của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế – 
xã hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.     
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất định lại có tính đặc thù riêng biệt 
thông qua những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào nước ta có 
lúc đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, 
nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành phần kinh tế tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, 
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp v.v… 
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới và từ đó đến nay đường lối đổi mới đó đã từng 
bước đi vào hiện thực và đạt được nhiều kết quả to lớn nhất định. 
+ Xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên xây dựng và 
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhưng có sự quản lý của nhà nước và kinh tế quốc doanh luôn giữ vai  trò chủ đạo. 
+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, bảo vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã 
hội. Cho nên nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoặc dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, v.v… 
+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và vận dụng những giá trị mới của văn minh nhân loại. Tạo môi trường cho 
hoạt động tự do sáng tạo của mọi con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. 
Câu 2. Quan điểm của triết học Mác-Lenin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; ý nghĩa 
phương pháp luận trong nhận thức thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Việt Nam và trên thế  giới. 
2.1. quan điểm của triết học Mác về Giai cấp và đấu tranh giai cấp 
a. Giai cấp 
- Định nghĩa giai cấp 
+ Định nghĩa: Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp: “Người ta gọi giai cấp, 
những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ sản xuất xã hội nhất định 
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì các quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối 
với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy khác nhau về cách thức hưởng thụ và 
về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể 
chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội  nhất định”1. 
+ Đặc trưng của giai cấp: 
* Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định  trong lịch sử. 
* Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất. 
* Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội. 
* Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về phương thức phân phối sản phẩm. 
+ Thực chất của quan hệ giai cấp: Là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của 
tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong chế độ kinh tế - xã hội nhất định. 
+ Ý nghĩa định nghĩa giai cấp của Lênin: 
* Định nghĩa giai cấp của Lênin cho thấy, giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, tồn tại gắn với 
những hệ thống sản xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.     
* Định nghĩa giai cấp của Lênin là định nghĩa khoa học, có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn, là cơ sở để nhận 
thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho giai cấp vô sản cơ sở khoa 
học để nhận thức vai trò lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và xây dựng xã hội mới. 
- Nguồn gốc của giai cấp  + Nguồn gốc: 
* Nguồn gốc sâu xa: Là sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên, xuất hiện “của dư”, tạo 
khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của người khác. 
* Nguồn gốc trực tiếp: Do xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt là những tư liệu sản xuất chủ  yếu của xã hội. 
+ Con đường hình thành giai cấp: Trong lịch sử xã hội, con đường hình thành giai cấp rất phức tạp, có nhiều con  đường 
* Những người có chức, có quyền lợi dụng quyền lực để chiếm đoạt tài sản công làm của riêng. 
* Những tù binh bị bắt được trong chiến tranh được sử dụng làm nô lệ để sản xuất. 
* Các tầng lớp xã hội tự do trao đổi, bị phân hóa thành các giai cấp khác nhau... 
+ Điều kiện phân hóa giai cấp: Các cuộc chiến tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bao lực trong xã  hội... 
- Kết cấu xã hội - giai cấp 
+ Khái niệm: Kết cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp, tồn tại trong một 
giai đoạn lịch sử nhất định. 
+ Kết cấu xã hội - giai cấp: 
Trong kết cấu xã hội - giai cấp bao gồm: Giai cấp cơ bản, giai cấp không cơ bản và các tầng lớp, nhóm xã hội nhất  định. 
* Giai cấp cơ bản: Là những giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị, là sản phẩm của phương thức sản xuất  thống trị nhất định. 
* Giai cấp không cơ bản: Là những giai cấp gắn với phương thức sản xuất tàn dư, hoặc mầm mống trong xã hội. 
* Các tầng lớp, nhóm xã hội nhất định (tầng lớp trí thức, nhân sĩ, tu hành...): Có vai trò trong quan hệ kinh tế, chính 
trị, văn hóa, phục vụ cho các giai cấp khác nhau, phần lớn là phục vụ cho giai cấp thống trị. 
+ Đặc điểm của kết cấu xã hội - giai cấp: Kết cấu xã hội - giai cấp luôn có sự vận động, biến đổi không ngừng, diễn 
ra không chỉ khi xã hội có sự chuyển biến các phương thức sản xuất, mà trong cả quá trình phát triển của mỗi  phương thức sản xuất. 
b. Đấu tranh giai cấp 
- Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp 
+ Định nghĩa đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn 
bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định. 
+ Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều 
hòa được giữa các giai cấp, xuất phát từ tính tất yếu kinh tế, nguyên nhân là do sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa 
giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. 
+ Thực chất của đấu tranh giai cấp: Là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp 
áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị. 
+ Đặc trưng của đấu tranh giai cấp:     
* Đấu tranh giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp trong lịch sử tất 
yếu dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử. 
* Trong đấu tranh giai cấp, liên minh giai cấp là tất yếu. 
- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp 
+ Đấu tranh giai cấp là phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 
Đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh cao sẽ dẫn đến cách mạng xã hội. Thông qua cách mạng xã hội mà quan hệ 
sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được xác lập, từ 
đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội. 
+ Đấu tranh giai cấp có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ lực lượng sản xuất phản động, cải tạo bản thân các giai cấp  cách mạng. 
+ Đấu tranh giai cấp làm cho tất cả mọi mặt đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng...) phát triển nhanh  chóng. 
Tóm lại: Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp. 
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác để giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay   
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác để giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay cần quán 
triệt một số vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận sau:   
Một là, phải bám sát điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đấu tranh giai cấp là một 
quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Quá 
trình này không phụ thuộc vào việc người ta có quan niệm như thế nào về nó. Mà muốn đưa ra những kết luận khái 
quát đúng đắn về nó, cần phải nghiên cứu những sự kiện lịch sử cụ thể, phân tích sự vận động của các sự kiện lịch 
sử đó một cách tỉ mỉ, chi tiết với một thái độ khách quan, biện chứng. Những phân tích của C.Mác về các sự kiện 
lịch sử ở Pháp những năm 1848 - 1850, 1851 và 1871 đã chứng tỏ điều đó.   
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo điều kiện để 
mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội có thể phát huy hết tiềm năng của mình, góp phần làm cho dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng, không nên đặt vấn đề đấu tranh 
giai cấp vì nó sẽ dẫn đến phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng. Đây là một quan điểm không đúng, vì sự tồn tại của 
các thành phần kinh tế tức là còn sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có nghĩa là còn tồn tại các giai cấp trong xã hội, 
do vậy không thể loại bỏ đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp cũng là một tất yếu khách quan trong mọi xã hội có 
giai cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng: xã hội Việt Nam hiện nay không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu 
thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai cấp. Nhưng, cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong xã hội Việt 
Nam hiện nay thành hai lực lượng đối kháng về mặt lợi ích. Việc nhận thức đúng đắn tính chất, nội dung của cuộc 
đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta xử lý một cách khoa học mối quan hệ xã hội - giai cấp, đưa sự 
nghiệp đổi mới tới thắng lợi.   
Hai là, Việt Nam là nước đã giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và sau khi có chính quyền, cuộc đấu 
tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục trong điều kiện mới, với tính chất gay go, phức tạp, có mặt ngày càng 
gay gắt hơn. Mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân cũng thay đổi, từ mục tiêu tất cả để giành chính quyền 
chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là phát triển kinh tế nhằm giữ vững thành quả cách mạng. Do vậy, thực 
chất cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là phát triển lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao, đồng thời từng 
bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Bởi theo C.Mác, nguyên 
nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực  lượng sản xuất.   
Nguyên nhân sâu xa ra đời giai cấp cũng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khách quan đầu tiên 
để xã hội không còn tồn tại giai cấp, xóa bỏ giai cấp cũng là do lực lượng sản xuất phát triển tới trình độ rất cao. 
Trong khi Việt Nam hiện nay đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp, tuy đã qua vài thập kỷ 
xây dựng, phát triển kinh tế nhưng trình độ lực lượng sản xuất vẫn còn thấp kém và phát triển không đồng đều giữa     
các vùng, miền. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là phát triển lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao. Bên cạnh đó, cần 
lựa chọn hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đa dạng, phức tạp của Việt Nam hiện nay.   
Ba là, trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và 
các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư sản, tiểu tư sản, các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã 
hội. Với kết cấu giai cấp đó, tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với tầng lớp 
tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác (có mục đích, có điều khiển) theo con đường xã hội chủ nghĩa với 
khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Trong điều kiện đó, chính quyền giai cấp vô sản phải tiếp tục sử dụng 
phương pháp cách mạng không ngừng, sử dụng chuyên chính vô sản của mình để đập tan mọi âm mưu của các thế 
lực thù địch, đồng thời định hướng chính trị cho phù hợp với mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã 
chọn. Hay nói cách khác, cần sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh, trong đó có hoà bình và bạo lực, 
giáo dục thuyết phục với pháp chế và hành chính. Sử dụng hình thức đấu tranh nào tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn 
cảnh cụ thể. Đặc biệt, điều kiện mới hiện nay, không được cường điệu cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt rè, 
không dám đổi mới; đồng thời, không được coi nhẹ, xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác.   
Muốn đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, muốn đảm bảo thắng lợi trong cuộc đấu tranh 
chống lại các thế lực thù địch, thì giai cấp công nhân Việt Nam phải xây dựng, củng cố và phát huy được khối liên 
minh giữa giai cấp công nhân - nông dân và tầng lớp trí thức. Phải củng cố và tăng cường được sự lãnh đạo của giai 
cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, giai cấp công nhân phải nắm vững công cụ chuyên 
chính của mình, tức là phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành một công cụ trấn áp các thế 
lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân./.      
