_.1.Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường trái phiếu
- Thị trường trái phiếu ở Việt Nam được hình thành từ những năm 1990 và có
lịch sử giao dịch trước thị trường cổ phiếu. Sau đó với sự ra đời của hệ thống kho
bạc Nhà nước và đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán, đồng thời từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp lý đã tạo điều kiện cho thị trường trái phiếu Việt
Nam từng bước phát triển.
- Từ những năm 1990, trái phiếu Chính phủ và một số trái phiếu doanh nghiệp
Nhà nước được phát hành. Trái phiếu này chủ yếu do các công ty bảo hiểm và
ngân hàng quốc doanh nắm giữ đến khi đáo hạn. Năm 1991, thị trường trái phiếu
bằng đầu bằng việc phát hành tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 tháng tại Hải Phòng
sau đó là việc phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước lớn.
- Năm 2000 được xem là một cột mốc quan trọng cho thị trường trái phiếu
Việt Nam với sự ra đời của sàn giao dịch trái phiếu thứ cấp đầu tiên ngay khi
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh được thành lập. Lúc này cùng
với Ngân hàng Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
cũng được giao tổ chức đấu thầu một số loại trái phiếu chính phủ dài hạn. Sự kiện
này càng thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam.
Sau năm 2000 giao dịch của trái phiếu Chính phủ là độc quyền duy nhất trên thị trường
- Từ sau năm 2000, giao dịch của trái phiếu Chính phủ dường như là độc
quyền duy nhất trên thị trường. Sau đó, từ 2007 khi Việt Nam gia nhập WTO thì đã
tạo sự bùng nổ với các trái phiếu do doanh nghiệp phát hành. Tuy nhiên, thời điểm
này so với các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia.. thì quy
mô thị trường trái phiếu của Việt Nam vẫn còn thấp. Tổng dư nợ thị trường trái
phiếu tính tới tháng 3/2013 tại Việt Nam chỉ trên 20%.
- Để tạo đà cho sự phát triển, các nhà chính sách đã đẩy mạnh sự hiện diện
của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cũng như một cổng thông tin tập trung về thị
trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) để hỗ trợ doanh nghiệp phát hành trái
phiếu. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường trái phiếu
cũng ngày càng được hoàn thiện. Tất cả những chính sách này đều nhằm hướng tới
mục tiêu xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt cũng như phát triển thị
trường trái phiếu một cách bền vững.
- Vào năm 2017, khi thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển đã giúp cho thị
trường trái phiếu Việt Nam đa dạng hóa hơn về mặt sản phẩm cũng như các đối
tượng đầu tư. Cho đến nay hàng hóa trên thị trường trái phiếu Việt Nam đã hoàn
thiện hơn, bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái
phiếu do Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu doanh nghiệp…
- Theo đánh giá của bộ Tài Chính, cuối năm 2017, dư nợ của thị trường TPDN
rơi vào khoảng 6,19% GDP. Đến hết tháng 9/2018, tổng giá trị phát hành trái phiếu
là 79.515 tỷ đồng, tăng 83% so với năm 2015 là 43.500 tỷ đồng, và tăng 32% so
với cùng kỳ năm 2017, chiếm 1,48% GDP.
- Ở cùng thời kỳ, trái phiếu chính phủ tăng 44% so với 2015, và chỉ tăng
14,7% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 21,5% GDP. Như vậy, quy mô và số lượng
trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đang không ngừng được mở rộng hàng năm. -
Chính sự gia tăng này đã giúp thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển mạnh nhằm
đáp ứng yêu cầu huy động vốn của Chính phủ, chính quyền địa phương, các ngân
hàng chính sách và doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường
trái phiếu cũng được ban hành đầy đủ, đồng bộ từ cấp Luật, Nghị định đến Thông
tư hướng dẫn.
_.2. Điều kiện phát hành trái phiếu ở VN
- Để được phát hành trái phiếu ở Việt Nam thì phải tuân thủ điều 10 Nghị định
163/2018/NĐ-CP quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp quy định về điều
kiện phát hành trái phiếu:
_.2.1. Đối với trái phiếu không chuyển đổi hoặc trái phiếu không kèm theo
chứng quyền:
a) Doanh nghiệp phát hành là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm
hữu
hạn được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam;
b) Có thời gian hoạt động tối thiểu từ 01 năm kể từ ngày được cấp lần
đầuGiấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc Giấy phép có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật. Đối với
doanh nghiệp được tổ chức lại hoặc chuyển đổi, thời gian hoạt động được tính là
thời gian hoạt động của doanh nghiệp bị chia (trong trường hợp chia doanh
nghiệp), thời gian hoạt động của doanh nghiệp bị tách (trong trường hợp tách
doanh nghiệp), thời gian hoạt động dài nhất trong số các doanh nghiệp bị hợp nhất
(trong trường hợp hợp nhất doanh nghiệp), thời gian hoạt động của doanh nghiệp
nhận sáp nhập (trong trường hợp sáp nhập công ty), thời gian hoạt động của doanh
nghiệp trước và sau khi chuyển đổi (trong trường hợp chuyển đổi công ty);
c) Có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm
toán
bởi tổ chức kiểm toán đủ điều kiện theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Nghị định
này;
d) Đảm bảo tuân thủ giới hạn về số lượng nhà đầu tư khi phát hành, giao
dịch trái phiếu theo quy định tại khoản 2 Điều 4 và khoản 8 Điều 6 Nghị định này;
đ) Có phương án phát hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt
chấp thuận theo quy định tại Điều 14 Nghị định này;
e) Thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành trong 03
năm
liên tiếp trước đợt phát hành trái phiếu (nếu có);
g) Đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
_.2.2.Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng
quyền:
a) Doanh nghiệp phát hành là công ty cổ phần;
b) Đáp ứng các điều kiện phát hành quy định tại điểm b, điểm c, điểm d,
điểm đ, điểm e, điểm g khoản 1 Điều này;
c) Đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài theo quy
định
của pháp luật trong trường hợp thực hiện chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu hoặc
thực hiện quyền mua của chứng quyền;
d) Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu tháng;
đ) Ti phiếu chuyển đổi, chứng quyền phát hành kèm theo trái phiếu không
được chuyển nhượng trong tối thiểu 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt phát hành,
trừ trường hợp chuyển nhượng cho hoặc chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định
của pháp luật.
_.2.3. Doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng.
- Doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng, ngoài việc đáp ứng điều kiện
phát hành theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này còn phải đáp ứng điều kiện
chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng theo quy định tại Điều 10a
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán.
_.2.4. Điều kiện phát hành trái phiếu thành nhiều đợt phát hành
- Ngoài phát hành trái phiếu một đợt còn có phát hành trái phiếu nhiều đợt. Và
để doanh nghiệp phát hành trái phiếu thành nhiều đợt phát hành phải đáp ứng các
điều kiện sau:
a) Các điều kiện phát hành quy định tại Điều 10 Nghị định Nghị định
163/2018/NĐ-CP ;
b) nhu cầu huy động vốn làm nhiều đợt phù hợp với mục đích phát
hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
c) Có phương án phát hành trái phiếu trong đó nêu rõ số lượng đợt phát
hành;dự kiến khối lượng, thời điểm phát hành và kế hoạch sử dụng vốn của từng
đợt phát hành. Đảm bảo thời gian phát hành của từng đợt không được kéo dài q
90 ngày;
d) Thực hiện công bố thông tin về đợt phát hành trái phiếu theo quy định
tạikhoản 2 Điều 22 của Nghị định Nghị định 163/2018/NĐ-CP .
_.2.5.Thời hạn
- Doanh nghiệp phát hành trái phiếu đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 11 Nghị định 163/2018/NĐ-CP được phát hành trái phiếu làm nhiều đợt,
nhưng tối đa không quá 12 tháng kể từ ngày phát hành đầu tiên của đợt phát hành
đầu tiên.

Preview text:

_.1.Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường trái phiếu -
Thị trường trái phiếu ở Việt Nam được hình thành từ những năm 1990 và có
lịch sử giao dịch trước thị trường cổ phiếu. Sau đó với sự ra đời của hệ thống kho
bạc Nhà nước và đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán, đồng thời từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp lý đã tạo điều kiện cho thị trường trái phiếu Việt
Nam từng bước phát triển. -
Từ những năm 1990, trái phiếu Chính phủ và một số trái phiếu doanh nghiệp
Nhà nước được phát hành. Trái phiếu này chủ yếu do các công ty bảo hiểm và
ngân hàng quốc doanh nắm giữ đến khi đáo hạn. Năm 1991, thị trường trái phiếu
bằng đầu bằng việc phát hành tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 tháng tại Hải Phòng và
sau đó là việc phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước lớn. -
Năm 2000 được xem là một cột mốc quan trọng cho thị trường trái phiếu
Việt Nam với sự ra đời của sàn giao dịch trái phiếu thứ cấp đầu tiên ngay khi
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh được thành lập. Lúc này cùng
với Ngân hàng Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
cũng được giao tổ chức đấu thầu một số loại trái phiếu chính phủ dài hạn. Sự kiện
này càng thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam.
Sau năm 2000 giao dịch của trái phiếu Chính phủ là độc quyền duy nhất trên thị trường -
Từ sau năm 2000, giao dịch của trái phiếu Chính phủ dường như là độc
quyền duy nhất trên thị trường. Sau đó, từ 2007 khi Việt Nam gia nhập WTO thì đã
tạo sự bùng nổ với các trái phiếu do doanh nghiệp phát hành. Tuy nhiên, thời điểm
này so với các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia.. thì quy
mô thị trường trái phiếu của Việt Nam vẫn còn thấp. Tổng dư nợ thị trường trái
phiếu tính tới tháng 3/2013 tại Việt Nam chỉ trên 20%. -
Để tạo đà cho sự phát triển, các nhà chính sách đã đẩy mạnh sự hiện diện
của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cũng như một cổng thông tin tập trung về thị
trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) để hỗ trợ doanh nghiệp phát hành trái
phiếu. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường trái phiếu
cũng ngày càng được hoàn thiện. Tất cả những chính sách này đều nhằm hướng tới
mục tiêu xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt cũng như phát triển thị
trường trái phiếu một cách bền vững. -
Vào năm 2017, khi thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển đã giúp cho thị
trường trái phiếu Việt Nam đa dạng hóa hơn về mặt sản phẩm cũng như các đối
tượng đầu tư. Cho đến nay hàng hóa trên thị trường trái phiếu Việt Nam đã hoàn
thiện hơn, bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái
phiếu do Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu doanh nghiệp… -
Theo đánh giá của bộ Tài Chính, cuối năm 2017, dư nợ của thị trường TPDN
rơi vào khoảng 6,19% GDP. Đến hết tháng 9/2018, tổng giá trị phát hành trái phiếu
là 79.515 tỷ đồng, tăng 83% so với năm 2015 là 43.500 tỷ đồng, và tăng 32% so
với cùng kỳ năm 2017, chiếm 1,48% GDP. -
Ở cùng thời kỳ, trái phiếu chính phủ tăng 44% so với 2015, và chỉ tăng
14,7% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 21,5% GDP. Như vậy, quy mô và số lượng
trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đang không ngừng được mở rộng hàng năm. -
Chính sự gia tăng này đã giúp thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển mạnh nhằm
đáp ứng yêu cầu huy động vốn của Chính phủ, chính quyền địa phương, các ngân
hàng chính sách và doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường
trái phiếu cũng được ban hành đầy đủ, đồng bộ từ cấp Luật, Nghị định đến Thông tư hướng dẫn.
_.2. Điều kiện phát hành trái phiếu ở VN -
Để được phát hành trái phiếu ở Việt Nam thì phải tuân thủ điều 10 Nghị định
163/2018/NĐ-CP quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp quy định về điều
kiện phát hành trái phiếu:
_.2.1. Đối với trái phiếu không chuyển đổi hoặc trái phiếu không kèm theo chứng quyền: a)
Doanh nghiệp phát hành là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu
hạn được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam; b)
Có thời gian hoạt động tối thiểu từ 01 năm kể từ ngày được cấp lần
đầuGiấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc Giấy phép có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật. Đối với
doanh nghiệp được tổ chức lại hoặc chuyển đổi, thời gian hoạt động được tính là
thời gian hoạt động của doanh nghiệp bị chia (trong trường hợp chia doanh
nghiệp), thời gian hoạt động của doanh nghiệp bị tách (trong trường hợp tách
doanh nghiệp), thời gian hoạt động dài nhất trong số các doanh nghiệp bị hợp nhất
(trong trường hợp hợp nhất doanh nghiệp), thời gian hoạt động của doanh nghiệp
nhận sáp nhập (trong trường hợp sáp nhập công ty), thời gian hoạt động của doanh
nghiệp trước và sau khi chuyển đổi (trong trường hợp chuyển đổi công ty); c)
Có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán
bởi tổ chức kiểm toán đủ điều kiện theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Nghị định này; d)
Đảm bảo tuân thủ giới hạn về số lượng nhà đầu tư khi phát hành, giao
dịch trái phiếu theo quy định tại khoản 2 Điều 4 và khoản 8 Điều 6 Nghị định này;
đ) Có phương án phát hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt và
chấp thuận theo quy định tại Điều 14 Nghị định này; e)
Thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành trong 03 năm
liên tiếp trước đợt phát hành trái phiếu (nếu có);
g) Đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
_.2.2.Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền:
a) Doanh nghiệp phát hành là công ty cổ phần;
b) Đáp ứng các điều kiện phát hành quy định tại điểm b, điểm c, điểm d,
điểm đ, điểm e, điểm g khoản 1 Điều này;
c) Đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định
của pháp luật trong trường hợp thực hiện chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu hoặc
thực hiện quyền mua của chứng quyền;
d) Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu tháng;
đ) Trái phiếu chuyển đổi, chứng quyền phát hành kèm theo trái phiếu không
được chuyển nhượng trong tối thiểu 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt phát hành,
trừ trường hợp chuyển nhượng cho hoặc chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật.
_.2.3. Doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng. -
Doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng, ngoài việc đáp ứng điều kiện
phát hành theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này còn phải đáp ứng điều kiện
chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng theo quy định tại Điều 10a
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán.
_.2.4. Điều kiện phát hành trái phiếu thành nhiều đợt phát hành -
Ngoài phát hành trái phiếu một đợt còn có phát hành trái phiếu nhiều đợt. Và
để doanh nghiệp phát hành trái phiếu thành nhiều đợt phát hành phải đáp ứng các điều kiện sau: a)
Các điều kiện phát hành quy định tại Điều 10 Nghị định Nghị định 163/2018/NĐ-CP ; b)
Có nhu cầu huy động vốn làm nhiều đợt phù hợp với mục đích phát
hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt; c)
Có phương án phát hành trái phiếu trong đó nêu rõ số lượng đợt phát
hành;dự kiến khối lượng, thời điểm phát hành và kế hoạch sử dụng vốn của từng
đợt phát hành. Đảm bảo thời gian phát hành của từng đợt không được kéo dài quá 90 ngày; d)
Thực hiện công bố thông tin về đợt phát hành trái phiếu theo quy định
tạikhoản 2 Điều 22 của Nghị định Nghị định 163/2018/NĐ-CP . _.2.5.Thời hạn -
Doanh nghiệp phát hành trái phiếu đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 11 Nghị định 163/2018/NĐ-CP được phát hành trái phiếu làm nhiều đợt,
nhưng tối đa không quá 12 tháng kể từ ngày phát hành đầu tiên của đợt phát hành đầu tiên.