



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470368 lOMoAR cPSD| 45470368
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 10 LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian dài học tập, trao đổi kiến thức, tìm tòi và nghiên cứu, nhóm chúng
em đã hoàn thành đề tài " Vận dụng lý luận về hàng hóa của C.Mác đề xuất giải pháp phát
triển cho 1 doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất. "
Nhóm xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Hoàng Thị Vân, cô đã tận tình chỉ dạy,
truyền đạt những kiến thức nền tảng cũng như chia sẻ những kinh nghiệm thực tế để giúp
nhóm hoàn thành tốt đề tài này.
Do điều kiện còn hạn chế về kiến thức cũng như tài liệu nên khó tránh khỏi những
sai sót và khiếm khuyết. Vì vậy, chúng em rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp,
nhận xét của cô và các bạn để nội dung của đề tài được hoàn thiện hơn nữa.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! lOMoAR cPSD| 45470368 LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất hàng hóa tồn
tại một phạm trù lịch sử đó chính là hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có
thể thỏa mãn như cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có vai trò quan trọng trong xã hội, nó ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của con người. Sản xuất hàng hóa ra đời đưa con người thoát khỏi thời kỳ mông
muội, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội. Mục đích
của các nhà sản xuất hàng hóa là giá trị và thu lợi nhuận nên việc vận dụng lý luận hàng
hóa của C.Mác để đề xuất giải pháp phát triển cho doanh nghiệp là cần thiết.
Sau khi cùng nhau bàn bạc và thảo luận, nhóm chúng em quyết định lựa chọn
doanh nghiệp Vinamilk - một doanh nghiệp sản xuất sữa hàng đầu Việt Nam cho đề tài thảo luận này. 1 lOMoAR cPSD| 45470368
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm và thuộc tính của hàng hoá:
1.1.Khái niệm hàng hoá:
Theo quan điểm của C.Mác, hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn
một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Như vậy, sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái hàng hóa khi nhằm đưa ra trao
đổi, mua bán trên thị trường. Nghĩa là, có thể có yếu tố sản phẩm của lao động song
không là hàng hóa khi sản phẩm đó không được đem ra trao đồi hoặc không nhắm mục
đích sản xuất để trao đổi.
Hàng hóa có thể sử dụng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất. Hàng hóa có
thể tồn tại ở dạng vật thể hoặc ở dạng phi vật thể.
Qua đó chúng ta thấy, một sản phẩm là hàng hoá khi thoả mãn các yêu cầu:
- Là sản phẩm của lao động. Chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng hóa.
Những thứ không phải sản phẩm của lao động không phải là hàng hóa.
- Có công dụng, có thể thỏa mãn nhu cầu con người.
- Được mang ra trao đổi, mua bán. 1.
2.Thuộc tính của hàng hoá:
1.2.1.Giá trị sử dụng của hàng hoá:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn một nhu
cầu nào đó của con người, nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần;
cũng có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất.
Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cầu thành
nên hàng hóa đó quy định. Khi khoa học kỹ thuật (KHKT) phát triển, người ta tìm ra
nhiều thuộc tính mới của sản phẩm và sử dụng chúng cho các mục đích khác nhau.
GTSD một phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức sản xuất. Xã hội
càng tiến bộ thì số lượng GTSD càng nhiều, chủng loại càng phong phú, chất lượng
ngày càng cao. GTSD của hàng hóa là GTSD nhằm đáp ứng nhu cầu của người mua. 2 lOMoAR cPSD| 45470368
Do vậy, nếu là người sản xuất, phải chú ý hoàn thiện để GTSD của hàng hóa do mình
sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu của người mua. Phát hiện thêm nhiều công dụng mới.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người
mua. Cho nên, nếu là người sản xuất, tất yếu phải chú ý chăm lo giá trị sử dụng của hàng
hóa do mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
1.2.2.Giá trị của hàng hoá:
Theo C.Mác, giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.
Mối quan hệ tỷ lệ về lượng giữa các giá trị sử dụng khác nhau được C.Mác gọi là giá trị trao đổi.
C.Mác cho rằng, sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì chúng có một
điểm chung. Điểm chung đó ở chỗ, chúng đều là kết quả của sự hao phí sức lao động.
Tức là hàng hóa có giá trị. Khi là hàng hóa, dù khác nhau về giá trị sử dụng, chúng đều
là kết quả của sự hao phí sức lao động của người sản xuất ra hàng hóa ấy, nên hàng hóa có giá trị.
Mặt khác, khi đã đề cập tới hàng hóa, có nghĩa là phải đặt sản phẩm của lao động
ấy trong mối liên hệ với người mua, người bán, trong quan hệ xã hội. Do đó, lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa mang tính xã hội, tức hàm ý quan hệ giữa người bán với
người mua, hàm ý trong quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, C.Mác quan niệm đầy đủ hơn:
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá ấy.
Như vậy, bản chất của giá trị là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất,
trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng
hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên
ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi.
1.2.3.Hai điều kiện ra đời của hàng hoá: 3 lOMoAR cPSD| 45470368
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,những
người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi mua bán. Sản xuất hàng hóa hình
thành và phát triển khi có các điều kiện:
Một là, phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động là một trong những điều
kiện cần thiết cho sự hình thành sản xuất hàng hóa. Lao động trong xã hội được phân
chia cho các ngành nghề khác nhau. Điều này sẽ tạo nên sự chuyên môn hóa của lao
động và dẫn đến sự chuyên môn hóa trong sản xuất.
Việc phân công lao động trong xã hội sẽ dựa trên các yếu tố như: Các lợi thế tự
nhiên, năng khiếu, sở trường, kỹ thuật của từng lao động ở các vùng khác nhau;các đặc
điểm về phong tục, ăn ở... của từng khu vực địa lý cụ thể. Phân công lao động giúp cho
việc trao đổi hàng hóa trở thành tất yếu bởi khi đó mỗi người, mỗi đơn vị sẽ chỉ tập trung
sản xuất một hoặc vài sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu của người tiêu dùng thì lại rất
nhiều nên bắt buộc cần phải có sự trao đổi với nhau, góp phần thúc đẩy năng suất lao
động nên sẽ có càng nhiều sản phẩm thặng dư để trao đổi.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất nghĩa là những người
sản xuất có thể tách biệt, độc lập với nhau. Từ đó, các sản phẩm mà họ làm ra sẽ chỉ
thuộc về sở hữu của một mình họ và có thể tự do chi phối. Nếu người đó muốn tiêu dùng
hàng hóa do người khác làm ra thì cần phải tiến hành trao đổi, mua bán theo tỷ lệ nhất
định. Sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất dựa trên ba cơ sở. Trong lịch
sử, điều này xuất hiện là do chế độ tư hữu vật tư sản xuất. Còn hiện nay, việc tách biệt
kinh tế xảy ra do nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau. Cùng với đó là tách
biệt về quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với các tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của cá nhân thì những sản phẩm được sản xuất ra cũng sẽ là của họ và họ có toàn quyền sử dụng
Sự tách biệt này xảy ra là do các mối quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau.
Điều này bắt nguồn từ chế độ tư hữu nhỏ, xác định quyền sở hữu các sản phẩm làm ra
từ lao động sẽ thuộc về người sở hữu tư liệu sản xuất. Do đó, các mối quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất khác nhau tạo nên sự độc lập,đối lập giữa những người sản xuất với nhau.
Tuy nhiên, họ vẫn nằm trong sự phân công lao động của xã hội nên lại có sự phụ thuộc
về sản xuất, tiêu dùng. Như vậy, nếu một người dùng muốn sử dụng sản phẩm của người 4 lOMoAR cPSD| 45470368
khác thì cần thông qua mua - bán, tức là tiến hành trao đổi bằng hình thái hàng hóa. Cơ
sở thứ ba của sự tách biệt kinh tế này là do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và sử dụng
đối với tư liệu sản xuất. Tách biệt kinh tế không chỉ khác về quyền sở hữu mà còn khác
cả về quyền sử dụng khối lượng tư liệu khác nhau ở cùng một chủ sở hữu. Khi tách biệt
kinh tế giữa những người sản xuất tồn tại cùng lúc với sự phân công lao động trong xã
hội thì việc trao đổi hàng hóa sẽ cần đảm bảo lợi ích của họ. Điều này chỉ có thể làm
được khi trao đổi tiến hành trên nguyên tắc ngang giá tức là hàng hóa, các sản phẩm của
lao động sẽ trở thành hàng hóa. Sự tách biệt kinh tế tương đối giữa người sản xuất với
nhau khiến cho sản phẩm làm ra sẽ thuộc quyền sở hữu và chi phối của họ và vì thế họ
cũng có thể mang sản phẩm đó đi bán.
Ngoài ra, sự tách biệt kinh tế này còn khiến cho mối quan hệ trao đổi của người sở
hữu sẽ mang hình thái trao đổi, mua bán hàng hóa. Bởi sự tách biệt về kinh tế sẽ khiến
những người sản xuất có được sự độc lập về lợi ích kinh tế với nhau. Cho nên, các sản
phẩm được sản xuất ra sẽ mang hình thức trao đổi dựa theo nguyên tắc ngang giá mới
đạt được sự công bằng và đảm bảo được lợi ích của mỗi người.
1.2.4. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá:
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong
một hàng hoá, cùng quy định tính chất hàng hóa của sản phẩm và hai thuộc tính cùng
quy định lẫn nhau. Nếu một vật có GTSD, nhưng không có giá trị (tức không do lao
động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa.
Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có GTSD (tức
không có công dụng) cũng không trở thành hàng hoá.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, với tư cách là GTSD thì các hàng hóa khác nhau về chất (vải mặc, sắt
thép, lúa gạo...). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất 5 lOMoAR cPSD| 45470368
về chất, đều là "những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi", tức đều là sự kết
tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hóa (vài mặc, sắt thép, lúa gạo... đều do
lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và GTSD có sự tách rời nhau cả về mặt không
gian và thời gian. Bởi vậy ngay từ khi được sản xuất ra hai thuộc tính yêu cầu hàng hóa
phải đi vào hai chỗ khác nhau, đó là mâu thuẫn.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc
họ cũng phải chú ý đến GTSD. Ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới GTSD để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng của mình, nhưng muốn có GTSD họ phải trả giá trị cho người
sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện GTSD phải thực hiện giá trị của nó. Nếu
không thực hiện giá trị sẽ không thực hiện được GTSD. Mâu thuẫn giữa GTSD và giá
trị hàng hóa cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
2. Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá:
2.1. Lượng giá trị hàng hoá:
Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, trừu tượng của người sản xuất ra hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao
phí để tạo ra hàng hóa.
Lượng lao động đã hao phí được tính bằng thời gian lao động. Thời gian lao động
này phải được xã hội chấp nhận, không phải là thời gian lao động của đơn vị sản xuất
cá biệt, mà là thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị
sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo
trung bình, cường độ lao động trung bình.
Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng với thời gian lao động cá
biệt của những người cung cấp đại bộ phận hàng hoá trên thị trường 6 lOMoAR cPSD| 45470368
Trong thực hành sản xuất, người sản xuất thường phải tích cực đổi mới, sáng tạo
nhằm giảm thời gian hao phí lao động cá biệt tại đơn vị sản xuất của mình xuống mức
thấp hơn mức hao phí trung bình cần thiết. Khi đó sẽ có được ưu thế trong cạnh tranh.
Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao
hàm: hao phí lao động quá khứ ( chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu
dùng để sản xuất ra hàng hóa đó ) + hao phí lao động mới kết tinh thêm.
2.2. Cấu thành lượng giá trị:
Dưới góc độ KTCT, C. Mác xác định có hai bộ phận cấu thành lượng giá trị hàng hóa, bao gồm:
Thời gian lao động quá khứ: là thời gian lao động sản xuất TLSX (nguyên nhiên,
vật liệu, máy móc, thiết bị…), đã kết thúc khi người ta bắt đầu sản xuất hàng hóa nào
đó. Trong quá trình sản xuất, chúng sẽ chuyển dần giá trị sang sản phẩm mới. Kí hiệu là c.
Thời gian lao động sống: tức thời gian người lao động trực tiếp sản xuất ra hàng
hóa. Với thời gian lao động sống, người lao động tạo ra giá trị mới cho hàng hóa và
thường gồm hai phần: phần giá trị do lao động cần thiết tạo ra (ký hiệu v) và phần giá
trị do lao động thặng dư tạo ra (ký hiệu m)
Bởi vậy, kết cấu giá trị hàng hóa có ba bộ phận: c + v + m. Việc phân chia lượng
giá trị hàng hóa thành giá trị cũ và giá trị mới để Mác nghiên cứu tiếp về nguồn gốc của giá trị thặng dư.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị:
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng
hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tùy thuộc vào năng suất lao
động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động. 7 lOMoAR cPSD| 45470368
Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động giản
đơn và lao động phức tạp:
2.3.1. Năng suất lao động:
Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần
thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Khi tất cả các yếu tố khác không đổi: Năng suất lao động xã hội tăng > Số lượng
hàng hóa được sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian tăng; nghĩa là thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị hàng hoá giảm > lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm.
Ví dụ: trước đây ngày làm việc là 8h, người lao động sản xuất ra 8 sản phẩm, hao
phí 1h /1 sản phẩm. Nay cũng 8h, CĐLĐ tăng lên 1,5 lần, người lao động tạo ra 12 sản
phẩm, giá trị tổng hàng hóa tăng lên nhưng giá trị 1 hàng hoá không đổi.
Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động lại
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người
công nhân; Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ. + Mức độ ứng dụng
những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất; Trình độ tổ chức quản lý;
Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; Các điều kiện tự nhiên..
2.3.2. Mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động:
Khái niệm: Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất
kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao
động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được
nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình
đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy 8 lOMoAR cPSD| 45470368
mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị của
hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
3. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa:
Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh
trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang
tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng).
3.1. Lao động cụ thể:
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng riêng.
Lao động cụ thể của người thợ may tạo ra quần áo, chăn, màn… Lao động cụ thể
của người thợ mộc tạo ra bàn ghế, giường, tủ… Chúng ta thấy trên thị trường có nhiều
loại hàng hóa, nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau chính là nhờ việc có nhiều lao động
cụ thể khác nhau. Lao động cụ thể không trực tiếp tạo ra giá trị nhưng có vai trò bảo
tồn và di truyền giá trị tư liệu sản xuất sang sản phẩm mới.
Lao động cụ thể là sản phẩm của phân công lao động xã hội và phản ánh trình độ
phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội càng phát triển, mở rộng thì lao
động cụ thể càng phong phú, đa dạng và hoàn thiện. Lao động cụ thể uôn hình muôn vẻ,
tạo ra những giá trị sử dụng rất đa dạng.
Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn. Khi con người còn tồn tại, người ta còn
phải lao động và do đó còn lao động cụ thể. Lao động cụ thể tồn tại không phụ thuộc
vào bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào.
Hình thức, mức độ hoàn thiện của lao động cụ thể luôn thay đổi nhờ sự phát triển,
mở rộng phân công lao động và đặc biệt là sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Sự phát
triển của khoa học công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, phát sinh nhiều loại
lao động cụ thể mới, đồng thời làm thay đổi các loại lao động cụ thể cũ theo hướng hoàn
thiện hơn, tinh xảo hơn, năng suất cao hơn.
3.2. Lao động trừu tượng: 9 lOMoAR cPSD| 45470368
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những
hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu
hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
=> Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của
hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Cần lưu ý, ở đây không phải có hai thứ lao động khác nhau mà đều là lao động của
người sản xuất hàng hóa, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể,
vừa là lao động trừu tượng. Giữa hai mặt này có những mâu thuẫn như sau:
+ Lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội, vì dù bạn đang làm bất cứ
ngành gì bạn cũng phải hao phí sức lực.
+ Lao động cụ thể đại diện cho lao động tư nhân, lao động trừu tượng đại diện cho lao động xã hội.
Lao động trừu tượng là nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Việc phát hiện
ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận, nó
đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự. Giúp ta giải thích
được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối
lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm
xuống. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính
chất xã hội của người sản xuất hàng hóa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và
tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa. Như trên đã chỉ ra, mỗi người
sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao
động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một
bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân 10 lOMoAR cPSD| 45470368
công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa.
Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể
căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất -
lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó
gần như là một yếu tố có "sức sản xuất" vô hạn, còn tăng cường độ lao động, làm cho
lượng sản phẩm sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một
đơn vị hàng hóa không đổi. 11 lOMoAR cPSD| 45470368
PHẦN II: LIÊN HỆ LĨNH VỰC SẢN XUẤT TẠI VINAMILK 1.
Tổng quan về vinamilk
- Tên đơn vị: CÔNG TY CÓ PHẦN SỮA VIỆT NAM
- Địa chỉ trụ sở chính: Số 10 Tân Trào, Phường Tân Phú, Quận 7, TP.HCM.
- Ngành nghề kinh doanh: Chế biến, sản xuất và kinh doanh Sữa đậu nành, Sữa
tươi, Nước giải khát, Sữa hộp, Sữa bột, Bột dinh dưỡng và các sản phẩm từ Sữa khác.
Cho thuê bất động sản. Cung cấp các dịch vụ phòng khám đa khoa. Các hoạt động hỗ
trợ trồng trọt và chăn nuôi.
- Vinamilk là một trong 50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam được bình chọn bởi
tạp chí Forbes. Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, Vinamilk là công ty lớn
thứ 15 tại Việt Nam vào năm 2007.
- Sản phẩm của Công ty sữa Việt Nam Vinamilk đều được bán khắp 63 tỉnh thành
trên cả nước với khoảng 220.000 điểm phân phối, xuất khẩu sang 43 quốc gia trên thế
giới như Đức, Nhật Bản, Canada, Mỹ, Pháp… và còn là thương hiệu tiên phong mở lối
cho thị trường thực phẩm Organic cao cấp tại Việt Nam, với các sản phẩm từ sữa tươi chuẩn USDA Hoa Kỳ.
2. Thực trạng sản xuất tại vinamilk:
2.1. Đặc điểm hàng hóa: Đa dạng sản phẩm:
+ Sữa tươi: Là sản phẩm chủ lực, Vinamilk cung cấp nhiều loại sữa tươi khác nhau,
từ sữa tươi nguyên chất đến sữa tươi có đường, sữa tươi dành cho các đối tượng khác
nhau như trẻ em, người lớn tuổi.
+ Sữa chua: Với nhiều hương vị và loại hình đóng gói đa dạng, sữa chua Vinamilk
đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng.
+ Sữa đặc: Sản phẩm truyền thống, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.
+ Các sản phẩm từ sữa khác: Bơ, phô mai, sữa bột,...
+ Vinamilk Green Farm – tinh hoa từ mô hình trang trại bền vững :nơi thực hành
về nông nghiệp thân thiện với môi trường và tạo nên tiếng vang, được người tiêu dùng quan tâm, yêu thích. Chất lượng cao: +
Nguồn nguyên liệu: Vinamilk sử dụng nguồn sữa tươi nguyên chất từ các
trang trại đạt chuẩn, đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. 12 lOMoAR cPSD| 45470368
+ Công nghệ hiện đại: Áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo quy trình
sản xuất khép kín, từ khâu thu mua nguyên liệu đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
+ Kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt: Các sản phẩm của Vinamilk đều trải qua quá
trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ trước khi được đưa ra thị trường.
2.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng:
Từ nhiều năm trước đến nay, Vinamilk đã đi theo định hướng chuẩn quốc tế, cho
trang trại, nhà máy và ở tất cả các khâu liên quan đến chất lượng sản phẩm. Song song,
vinamilk đầu tư cho hoạt động R&D, hợp tác với các nhà khoa học, viện nghiên cứu
dinh dưỡng hàng đầu thế giới nhằm đưa ra những sản phẩm dinh dưỡng chất lượng cao,
đáp ứng được nhu cầu phát triển toàn diện và phù hợp với khẩu vị và thể trạng của người Việt Nam.
Danh mục sản phẩm phong phú với 250 chủng loại là thế mạnh của Vinamilk.
Vinamilk vẫn đang tiếp tục nghiên cứu phát triển để mang lại cho người tiêu dùng những
giải pháp dinh dưỡng theo hướng toàn diện, cải thiện sức khoẻ cả thể chất lẫn tinh thần,
ứng dụng các thành tựu khoa học thế giới.
Đón đầu và tạo nên xu hướng cũng chính là tiêu chí mà Vinamilk trung thành.
Vinamilk không bỏ qua bất kỳ nhu cầu nào của người tiêu dùng. Vì sao chỉ chọn một
khi chúng ta có thể làm tốt tất cả? Vinamilk có năng lực đáp ứng cho các phân khúc,
nhu cầu, xu hướng dinh dưỡng tiên tiến nhất để mang đến sản phẩm chăm sóc sức khỏe người Việt.
Ngoài ra, Sản phẩm của Vinamilk đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và
an toàn thực phẩm. Đảm bảo Các quy trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm giúp người tiêu dùng an tâm trong nhu cầu chọn lựa sản phẩm an toàn cho sức khỏe. 2.3. Trang trại:
Sau nhiều năm không ngừng đầu tư và phát triển, Vinamilk đã xây dựng hệ thống
trang trại bò sữa đạt tiêu chuẩn quốc tế trong và ngoài nước, tiến tới chủ động được
nguyên liệu sữa tươi chất lượng, đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm sữa cho cả thị trường
trong nước và xuất khẩu. 13 lOMoAR cPSD| 45470368
Năm 2007, trang trại bò sữa tập trung đầu tiên của Vinamilk được ra đời tại
Tuyên Quang đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không chỉ với Vinamilk mà còn với
ngành chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam nói chung. Tiếp đó, Vinamilk liên tiếp nhập khẩu
những giống bò sữa chất lượng nhất thế giới từ Mỹ, New Zealand, Úc về các trang trại tại Việt Nam.
Năm 2019, Vinamilk khánh thành “resort” bò sữa Vinamilk Tây Ninh và khởi
công xây dựng trang trại bò sữa Lao-Jagro rộng 5.000 ha tại cao nguyên Xiêng Khoảng,
Lào. Mô hình “resort” bò sữa của Vinamilk đánh dấu một cột mốc mới với các trang trại
bò sữa được đầu tư xây dựng như “resort” và ứng dụng các công nghệ chăn nuôi, quản
lý hiện đại bậc nhất trên thế giới.
Năm 2021, trong bối cảnh Covid-19 ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất,
những trang trại sinh thái Green Farm đầu tiên của Vinamilk vẫn chính thức được ra mắt
tiếp đó là sự ra đời của hệ thống Trang Trại Sinh Thái Vinamilk Green Farm là một bước
tiến của Vinamilk trên hành trình xanh, thân thiện với thiên nhiên
Những điểm nổi bật trong hệ thống trang trại của Vinamilk:
+ Công nghệ hiện đại: Áp dụng công nghệ 4.0 vào quản lý trang trại, từ hệ thống
quản lý khẩu phần, dàn vắt sữa tự động, robot cho ăn đến hệ thống kiểm soát môi trường chuồng trại.
+ Giống bò sữa chất lượng cao: Nhập khẩu các giống bò sữa từ các quốc gia có
nền chăn nuôi phát triển như Mỹ, New Zealand, Úc.
+ Môi trường sống lý tưởng: Các trang trại được thiết kế với diện tích đồng cỏ
rộng lớn, đảm bảo nguồn thức ăn tươi sạch và môi trường sống trong lành cho bò sữa.
+ Sản xuất hữu cơ: Vinamilk đã xây dựng trang trại bò sữa Organic đầu tiên tại
Việt Nam, áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ nghiêm ngặt từ khâu chọn giống, thức ăn đến quá trình chăm sóc.
+ Bền vững: Tận dụng tối đa các nguồn năng lượng tái tạo, xử lý chất thải tốt. 2.4. Quy mô 14 lOMoAR cPSD| 45470368
Hiện nay, công ty Vinamilk đã đầu tư xây dựng và vận hành 13 nhà máy sản xuất
sữa trải dài khắp Việt Nam. Không dừng lại ở đó, Vinamilk còn đầu tư xây dựng nhà
máy sữa Angkor tại Campuchia (Vinamilk sở hữu 100%), Vinamilk nắm 22,8% cổ phần
tại nhà máy sữa Miraka (New Zealand), sở hữu 100% cổ phần nhà máy Driftwood (Mỹ)
và đầu tư công ty con tại Ba Lan làm cửa ngõ giao thương các hoạt động thương mại
của Vinamilk tại châu Âu.
Sản phẩm của Vinamilk hiện cũng có mặt ở hơn 40 nước trên thế giới, như
Campuchia, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Canada,
Mỹ, Úc... Toàn bộ quá trình sản xuất của nhà máy đều đạt chuẩn GMP và các tiêu chuẩn
quốc tế khắt khe như tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 17025, ISO 14000, tiêu chuẩn 22000 và
tiêu chuẩn FSSC 22000, trong đó GMP là tiêu chuẩn bắt buộc đối với các nhà máy sản
xuất dược phẩm và được khuyến khích áp dụng cho cả các công ty thực phẩm nói chung.
2.4.1. Quy mô số lượng sản phẩm được sản xuất, số loại sản phẩm đã được phát triển
Hiện nay, Vinamilk đang có 13 nhà máy trong nước được đầu tư quy mô và ứng
dụng công nghệ hàng đầu thế giới. Hệ thống nhà máy này giúp Vinamilk có thể phát
triển hơn 250 loại sản phẩm sữa thuộc 13 nhóm ngành hàng từ sữa đặc, sữa nước, sữa
bột, sữa chua, kem, nước giải khát... Trong đó, phải kể đến Nhà máy sữa Việt Nam và
Nhà máy sữa bột Việt Nam. Hai nhà máy này đưa vào vận hành năm 2013 và được đánh
giá giá là siêu nhà máy, góp phần tạo nên sự đột phá lớn cho công ty.
Cụ thể, với Nhà máy sữa Việt Nam có công nghệ tự động hiện đại, công suất cực
lớn 800 triệu lít/năm (khoảng 2,2 triệu lít/ngày) có tổng vốn đầu tư là hơn 4.100 tỷ đồng.
Trong tương lai gần, Vinamilk sẽ nâng công suất thiết kế của Nhà máy sữa Việt Nam
đạt hơn 1 tỷ lít sữa/năm.
Ngoài ra, cùng với các nhà máy khác trên cả nước, Vinamilk hiện tại có thể cung
ứng được 5,1 triệu lít sữa nước mỗi ngày (tương đương hơn 28 triệu hộp sữa), đáp ứng
nhu cầu của thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.
2.4.2. Quy mô số lượng nhà máy, trang trại sản xuất 15 lOMoAR cPSD| 45470368
Hiện nay, công ty Vinamilk đã đầu tư xây dựng và vận hành 13 nhà máy sản xuất
sữa trải dài khắp Việt Nam. Không dừng lại ở đó, Vinamilk còn đầu tư xây dựng nhà
máy sữa Angkor tại Campuchia (Vinamilk sở hữu 100%), Vinamilk nắm 22,8% cổ phần
tại nhà máy sữa Miraka (New Zealand), sở hữu 100% cổ phần nhà máy Driftwood (Mỹ)
và đầu tư công ty con tại Ba Lan làm cửa ngõ giao thương các hoạt động thương mại
của Vinamilk tại châu Âu.
Vinamilk đã có hệ thống 10 trang trại đang hoạt động, đều có quy mô lớn với
toàn bộ bò giống nhập khẩu từ Úc, Mỹ, và New Zealand. Hệ thống trang trại Vinamilk
trải dài khắp Việt Nam tự hào là những trang trại đầu tiên tại Đông Nam Á đạt chuẩn
quốc tế Thực Hành Nông Nghiệp Tốt Toàn cầu (Global G.A.P.). Trang trại bò sữa
organic tại Đà Lạt vừa khánh thành vào tháng 03/2017 là trang trại bò sữa organic đầu
tiên tại Việt Nam đạt được tiêu chuẩn Organic Châu Âu do Tổ chức Control Union (Hà Lan) chứng nhận.
2.5. Quá trình sản xuất:
Quy trình sản xuất của Vinamilk diễn ra nghiêm ngặt với nhiều khâu sản xuất
khác nhau để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. 2.5.1. Các khâu sản xuất a. Chăn nuôi bò:
Để có được những ly sữa chất lượng, nguồn sữa bò nguyên liệu cần đảm bảo chất
lượng. Để chủ động nguồn sữa bò phục vụ cho quy trình sản xuất sữa, Vinamilk đã
đầu tư chăn nuôi bò sữa, lặp các trang trại chăn nuôi bò sữa theo tiêu chuẩn quốc tế để
đảm bảo nguồn nguyên liệu sản xuất sữa có chất lượng tốt nhất.
Những con bò đủ tiêu chuẩn về sức khỏe sẽ được tiến hành vắt sữa. Quá trình vắt
sữa có thể thực hiện bằng tay, hoặc bằng máy đều được. Sau đó sẽ được vận chuyển
đến nơi kiểm tra chất lượng.
b. Nhận và kiểm tra nguồn nguyên liệu sản xuất sữa:
Sữa sau khi được vận chuyển đến sẽ được lấy mẫu và mang đi kiểm tra chất
lượng. Chỉ những lô sữa đảm bảo chất lượng, đáp ứng được các yêu cầu được đặt ra
mới tiếp tục được chuyển đến khâu chế biến để chế biến, sản xuất sữa thành phẩm.
c. Làm lạnh và bảo quản sữa bò:
Sau khi đã được xét nghiệm, kiểm tra chất lượng và đạt chuẩn. Sữa bò nguyên liệu
sẽ được chuyển đi đong đếm thể tích và làm lạnh. Trước khi làm lạnh, trong quá trình 16 lOMoAR cPSD| 45470368
lọc phải đun sữa ở mức nhiệt từ 30 – 40 độ C để giảm đi độ nhớt của sữa. Sau đó, sữa
sẽ được làm lạnh ở nhiệt độ từ 2 – 4 độ C ở các bồn inox đạt tiêu chuẩn bảo quản sữa. d. Gia nhiệt:
Khâu tiếp theo của quy trình sản xuất sữa Vinamilk là gia nhiệt. Đây là quá trình
được thực hiện để hỗ trợ cho quá trình ly tâm, làm sạch sữa.
Sữa sẽ được gia nhiệt ở nhiệt độ lên đến 40 độ C bằng cách bơm sữa vào những
thiết bị trao đổi nhiệt có dạng tấm.
e. Ly tâm để làm sạch sữa nguyên liệu:
Sau khi gia nhiệt, sữa sẽ được tiến hành ly tâm làm sạch. Cặn sữa cũng như xác
của vi sinh vật đều sẽ được loại bỏ ở khâu ly tâm làm sạch này. Sữa bò sau khi ly tâm
sẽ đủ tiêu chuẩn để chuyển đến các khâu chế biến khác. f. Phối trộn sữa:
Nguồn sữa nguyên liệu sẽ được phối trộn với chất ổn định, lượng chất ổn định sẽ
được phân chia theo từng mẻ. Sữa nguyên liệu sẽ được đưa vào bồn trộn với thể tích
khoảng 500 – 600 lít và gia nhiệt ở mức nhiệt từ 65 – 70 độ C, sau đó sẽ được giảm
xuống mức 40 – 45 độ C để cho đường vào trộn. g. Làm lạnh sữa:
Sữa sau khi đã được phối trộn xong sẽ được làm lạnh ở mức nhiệt dưới 8 độ C.
Sau đó, sữa sẽ được tiêu chuẩn hóa, điều chỉnh hàm lượng của các chất để đảm bảo sau
khi hoàn thành, sữa sẽ đạt tiêu chuẩn như đã được công bố trên bao bì.
h. Đồng hóa sữa và tiệt trùng:
Đồng hóa là khâu làm giảm đi kích thước của các cầu mỡ nhằm mục đích tăng khả
năng phân tán sữa. Hạn chế tình trạng váng sữa nổi lên bề mặt trong thời gian bảo quản.
Sữa cũng được tiến hành tiệt trùng để loại bỏ những vi sinh vật cũng như các bào
tử hay các enzym có trong sữa để kéo dài thời gian bảo quản sữa ở nhiệt độ thường và
hạn chế sự thay đổi các tính chất của sữa. i. Đóng gói:
Sau khi sữa đã được tiệt trùng, công đoạn cuối cùng là dây chuyền đóng gói sữa
vào hộp, bịch để phân phối ra thị trường. Để quá trình vận chuyển đơn giản, nhanh gọn
hơn. Sữa sẽ được sắp xếp và đóng gói vào những chiếc thùng giấy kích thước lớn với số
lượng nhất định. Những chiếc thùng giấy chất lượng cũng góp phần bảo quản sữa không
bị tác động, va chạm trong suốt quá trình vận chuyển. 17 lOMoAR cPSD| 45470368 2.5.2. Ưu điểm:
Công nghệ hiện đại: Vinamilk đầu tư mạnh vào công nghệ sản xuất, sử dụng các
thiết bị hiện đại, dây chuyền sản xuất tự động, khép kín, đảm bảo chất lượng sản phẩm
đồng đều, hạn chế tối đa sự cố và ô nhiễm.
Nguồn nguyên liệu chất lượng: Công ty có hệ thống thu mua sữa tươi trực tiếp từ
nông dân, đảm bảo nguồn sữa tươi sạch, tươi ngon. Bên cạnh đó, Vinamilk cũng nhập
khẩu một số nguyên liệu từ các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển để đa dạng hóa sản phẩm.
Quy trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ: Từ khâu thu mua nguyên liệu đến khi sản
phẩm đến tay người tiêu dùng, Vinamilk đều thực hiện các biện pháp kiểm soát chất
lượng nghiêm ngặt, đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ sinh.
Đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp: Công ty sở hữu đội ngũ nhân viên giàu kinh
nghiệm, được đào tạo bài bản, luôn cập nhật những kiến thức mới về công nghệ sản xuất
và quản lý chất lượng.
Đa dạng hóa sản phẩm: Vinamilk không ngừng nghiên cứu và phát triển các sản
phẩm mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, từ trẻ em đến người lớn tuổi. 2.5.3. Hạn chế:
Chi phí sản xuất cao: Việc đầu tư vào công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất
lượng chặt chẽ và đa dạng hóa sản phẩm khiến chi phí sản xuất của Vinamilk khá cao.
Vấn đề môi trường: Quá trình sản xuất sữa, đặc biệt là các hoạt động xử lý nước
thải, có thể gây ra một số tác động tiêu cực đến môi trường nếu không được kiểm soát chặt chẽ.
Phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu: Vinamilk vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào
nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước. Nếu xảy ra các biến động về thời tiết, dịch bệnh
hoặc các vấn đề khác liên quan đến chăn nuôi bò sữa, có thể ảnh hưởng đến nguồn cung
và chất lượng sản phẩm. 18