






Preview text:
    lOMoAR cPSD| 40799667                                        
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng         
Dẫn Luận Ngôn Ngữ (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia  Thành phố Hồ Chí Minh)                                                                                                          lOMoAR cPSD| 40799667              
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất   
Chúng ta đang sống trong thế giới của từ ngữ. Trong tất cả các phương 
tiện mà con người dùng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy 
nhất thoả mãn được tất cả nhu cầu của con người. Bởi vậy, ngôn ngữ có 
vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống… Mỗi một giây, một phút 
trôi qua đều có người đang nói, đang viết, hoặc đang đọc cái gì đó. Cuộc 
sống của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng ngôn ngữ nhanh 
chóng và hiệu quả. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành công cụ giao tiếp vạn năng 
của con người vì nó hành trình cùng con người, từ lúc con người xuất 
hiện cho tới tận ngày nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ xung và 
hoàn thiện dần theo lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu 
và xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ cổ xưa đến tận ngày nay. Vậy ngôn 
ngữ là gì? vì sao nó lại trở nên quan trọng với đời sống con người đến  vậy?   
Dựa vào những đặc trưng quan trọng của ngôn ngữ loài người, các nhà 
ngôn ngữ học đã đưa ra định nghĩa về ngôn ngữ như sau: “Ngôn ngữ là 
một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản 
và qua trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người; ngôn 
ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy. Truyền đạt truyền 
thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.”   
Con người khác với con vật ở chỗ là con người có ngôn ngữ. Ngôn ngữ 
của con người không phải là một hiện tượng tự nhiên, cũng không phải 
là sự phản xạ có tính bản năng như phản xạ có điều kiện ở một số sinh 
vật. Nó cũng không phải là hiện tượng có tính cá nhân, Tuy rằng ngôn 
ngữ có liên quan tới mỗi cá nhân con người, nhưng lại không lệ thuộc 
vào cá nhân con người. Ngôn ngữ là sản phẩm của tập thể, nó tồn tại và 
phát triển với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Vì là sản 
phẩm của tập thể nên sự tồn tại và phát triển của nó phụ thuộc vào sự 
tồn tại phát triển của cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ ấy.   
(Nguyễn Thiện Giáp – Giáo trình ngôn ngữ học,Nxb ĐHQG, trang 28)                        lOMoAR cPSD| 40799667              
Mặt khác, nói nó là một hiện tượng xã hội vì ngôn ngữ tồn tại trong xã 
hội loài người với tư cách là một công cụ để con người giao tiếp, trao 
đổi thông tin với nhau. Trong cuốn “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Anghen 
cho rằng: “ngôn ngữ là ý thức thực tại, và cũng như ý thức ngôn ngữ chỉ 
sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác”.   
Khi đề cập đến một hiện tượng xã hội người ta thường xem xét chúng 
trên cơ sở hai phạm trù của một cơ cấu xã hội: Cơ sở hạ tầng và kiến 
trúc thượng tầng. Dĩ nhiên không thể xếp ngôn ngữ vào cơ sở hạ tầng vì 
nó không là công cụ sản xuất mà cũng không là quan hệ sản xuất. Nó chỉ 
là phương tiện mà con người dùng để giao tiếp với nhau. Cũng không 
thể xếp ngôn ngữ vào thiết chế kiến trúc thượng tầng vì mọi thiết chế 
của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp luật, thể chế chính trị, tôn 
giáo… đều dựa trên cơ sở hạ tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến 
trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Trong khi với tư cách là công cụ 
giao tiếp và tư duy thì ngôn ngữ không bị biến đổi khi cơ sở hạ tầng thay 
đổi. Mặt khác, ngôn ngữ không mang tính giai cấp như hệ thống triết 
học, luật pháp, chính trị …. mang tính giai cấp, vì tư tưởng của mọi thời   
đại là tư tưởng thống trị. Nói cách khác, ngôn ngữ không phải là tài sản 
riêng của ngôn ngữ nào, nó là tài sản của toàn xã hội.   
2. Bản chất xã hội của ngôn ngữ   
Các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh rằng, ngôn ngữ là một hiện tượng 
xã hội đặc biệt. Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ:   
Trước hết, ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp 
giữa mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, phương tiện 
giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức công tác chung 
trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Trong tất cả các phương tiện 
mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy nhất 
thoả mãn được tất cả nhu cầu của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành 
một công cụ giao tiếp vạn năng vì nó hành trình cùng con người từ lúc 
con người xuất hiện cho tới tận ngày nay. Chúng ta biết rằng, để đáp ứng 
nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất nhiều                  lOMoAR cPSD| 40799667              
các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có 
những hệ thống tín hiệu có thể vượt qua các biên giới quốc gia, các ranh 
giới của thể chế chính trị để phục vụ loài người, ví dụ như hệ thống ký 
hiệu Toán học, Hoá học…. Nhưng người dùng chúng lại rất chọn lọc, ít   
nhất phải có trình độ học vấn nhất định hoặc phải là những nhà chuyên 
môn có trình độ cao. Tính chọn lọc cao như vậy là xa lạ với từng dân tộc 
người. Bởi ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị 
xã hội, trình độ học vấn… mà nó phục vụ cộng đồng một cách vô tư. 
Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ phải được hiểu là một 
phương tiện không kén người dùng và có thể chuyển tải được tất cả các 
nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu. Từ việc bộc lộ 
cảm xúc, thái độ của người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm, 
nhu cầu trao đổi các kinh nghiệm thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức .…   
Trong khi đó các phương tiện khác chỉ đáp ứng một phần nào đó rất nhỏ 
những nhu cầu bộc lộ và giao tiếp của con người. Tóm lại, ngôn ngữ là 
một phương tiện giao tiếp vạn năng vì về mặt số lượng, nó phục vụ đông 
đảo các thành viên trong cộng đồng. Về mặt chất lượng, nó giúp các 
thành viên trong cộng đồng bộc lộ hết nhu cầu giao tiếp. Do đó ngôn 
ngữ trở thành phương tiện giao tiếp giữa mọi người, phương tiện trao 
đổi ý kiến trong xã hội, phương tiện giúp cho chúng ta hiểu biết lẫn 
nhau, từ đó cùng nhau tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt  động của con người.   
Thứ hai, ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội. Chính vì thể hiện ý thức xã hội 
nên ngôn ngữ mới có thể làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người. 
Ngôn ngữ đã ký hiệu hoá các tư tưởng của con người, hệt như mối quan 
hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện trong lý thuyết của tín hiệu 
học hiện đại. Trong mối quan hệ này, tư tưởng và tư duy là cái được 
biểu hiện còn ngôn ngữ là cái biểu hiện. Chính nhờ có ngôn ngữ mà thực 
tại được phân cắt ra thành các khái niệm. Nếu không có ngôn ngữ thì 
con người không có phương tiện để phân cắt thực tại ra thành các khái 
niệm. Trong tiến trình phát triển nhận thức của loài người, đầu tiên các 
từ có nội dung nghèo nàn, mờ nhạt nhưng nhờ có ảnh hưởng của tiến                      lOMoAR cPSD| 40799667              
trình văn hoá nhân loại mà các từ được cấp thêm nét nghĩa tinh tế hơn 
cho phù hợp với tư duy của con người về sự vật mà từ phản ánh. Trong 
tiến trình này, từ chỉ còn là một cái vỏ, nơi đổ đầy tư duy của chúng ta 
về một sự vật cụ thể. Ngôn ngữ nói chung thể hiện ý thức của xã hội loài 
người nhưng mỗi hệ thống ngôn ngữ cụ thể lại phản ánh bản sắc của 
cộng đồng nói ngôn ngữ đó như các phong tục tập quán, thói quen của  cả một cộng đồng.   
Thứ ba, ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hoá và là một bộ phận cấu 
thành quan trọng của văn hoá; khả năng giao tiếp của con người tuỳ 
thuộc vào kiến thức ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp và kiến thức văn hoá. 
Khi chúng ta học bất kỳ một ngoại ngữ nào thì chúng ta thường không 
chú ý ngay dến sự khác nhau giữa ngôn ngữ này và ngôn ngữ mẹ đẻ của 
mình mà chúng ta thường bị ấn tượng và được trợ giúp nhiều bởi đặc 
trưng giữa hai ngôn ngữ. Con người dù họ nói bất cứ ngôn ngữ nào và 
họ sống ở bất cứ nơi đâu thì họ cũng có một số điểm chung về sinh vật 
học và văn hoá. Có thể nói văn hoá là một dạng tồn tại có gia công, bởi 
nó chịu sự tác động của con người trong quá trình sử dụng ngôn ngữ tự 
nhiên để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển văn hoá. Nói cách khác 
ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hoá. Với bất kỳ một quốc gia nào, 
một dân tộc nào, một nền văn hoá nào, thì ngôn ngữ cũng là một phần 
quan trọng. Thêm vào đó, nếu trong quá trình giao tiếp, nếu chúng ta có 
một vốn kiến thức về ngôn ngữ phong phú, có kỹ năng giao tiếp và kiến 
thức về văn hoá sâu rộng thì khả năng giao tiếp của chúng ta sẽ được 
nâng cao. Ngược lại, nếu thiếu một trong ba yếu tố này, chúng ta sẽ 
không thể tự tin khi giao tiếp. Tất nhiên nhận định này cũng chỉ mang ý 
nghĩa tương đối vì vốn kiến thức của con người thì có hạn. Có thể chúng 
ta hiểu biết về lĩnh vực này nhưng lại không am hiểu về lĩnh vực khác.   
Phương tiện giao tiếp ấy được bổ xung và hoàn thiện dần theo lịch sử 
tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc tiếp 
xúc văn hoá có từ cổ xưa đến tận ngày nay. Có thể nói, ngày nay không 
con ngôn ngữ nào chưa ảnh hưởng của nên văn hoá ngoại lai. Nói cách                      lOMoAR cPSD| 40799667              
khác, tất cả các ngôn ngữ đang tồn tại hiện nay đều đã từng trải qua 
những quá trình tiếp xúc văn hoá với ngôn ngữ khác bên ngoài.   
Cuối cùng, sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại 
và phát triển của xã hội. Xã hội ngày càng đa dạng phức tạp, phong phú 
hơn thì ngôn ngữ cũng phải đa dạng phong phú hơn để phù hợp và kịp 
thời phản ánh sự tiến bộ của xã hội. Nhìn lại quá trình phát triển của xã 
hội loài người chúng ta thấy, tổ chức xã hội đầu tiên của loài người là thị 
tộc. Đó là tập hợp những người cùng dòng máu. Một số thị tộc thân 
thuộc kết hợp với nhau tạo thành bộ lạc. Các bộ lạc liên kết với nhau tạo 
thành các bộ tộc hay liên minh các bộ lạc. Các dân tộc hiện đại được 
hình thành từ các bộ lạc, dân tộc như thế. Thực ra sự phát triển từ các thị 
tộc bộ lạc nguyên thuỷ đến các dân tộc ngày nay không theo một con 
đường thẳng đuột mà trải qua những chặng đường quanh co khúc khuỷu, 
rất phức tạp. Trong đó quá trình thống nhất và phân ly chằng chéo lẫn 
nhau. Ngôn ngữ phát sinh và phát triển cùng với xã hội loài người cho 
nên nó cũng trải qua những chặng đường khúc khuỷu, quanh co, cũng 
phải theo quy luật thống nhất và phân ly như thế, qua mỗi chặng đường, 
ngôn ngữ cũng được thay đổi về chất. Nhìn lại toàn bộ quá trình phát 
triển của ngôn ngữ có thể thấy những bước sau: Ngôn ngữ bộ lạc, Ngôn 
ngữ khu vực, ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ văn hoá dân tộc và ngôn ngữ  cộng đồng tương lai.       
Sự biến đổi và phát triển của các ngôn ngữ luôn diễn ra trên cả hai mặt 
cấu trúc và chức năng. Quá trình phát triển từ ngôn ngữ bộ lạc đến ngôn 
ngữ cộng đồng tương lai là quá trình phát triển của các ngôn ngữ về mặt 
chức năng. Sự phát triển về mặt cấu trúc của ngôn ngữ thể hiện ở sự 
biến đổi của hệ thống ngữ âm, thành phần hình thái học, từ vựng, ngữ 
nghĩa, và cơ cấu ngữ pháp của nó. Nếu như sự phát triển của ngôn ngữ 
bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh thì nguyên nhân làm cho nó biến 
đổi và phát triển cũng đa dạng và phong phú. Người ta đã từng lý giải sự 
phát triển của ngôn ngữ là do sự phát triển của bộ máy phát âm, do ảnh                      lOMoAR cPSD| 40799667              
hưởng củ điều kiện địa lý và khí hậu, do ảnh hưởng của tâm lý dân tộc, 
do đòi hỏi phải tiết kiệm hơi sức hao phí cho bộ máy phát âm, do chơi 
chữ, do đặc điểm của trẻ em học nói….. chúng ta không phủ nhận tác   
dụng của các yếu tố kể trên đối với sự phát triển của ngôn ngữ, nhưng 
đó chưa phải là nguyên nhân chủ yếu, quyết định phương hướng và cách 
thức phát triển của ngôn ngữ. Với tư cách là hiện tượng xã hội đặc biệt, 
sự phát triển của ngôn ngữ phải do những điều kiện kinh tế, chính trị, 
văn hoá và các điều kiện xã hội khác quy định. Người ta chỉ có thể hiểu 
được một ngôn ngữ và quy luật phát triển của nó khi nào người ta 
nghiên cứu nó theo sát lịch sử của xã hội, lịch sử của nhân dân có ngôn 
ngữ đó, sáng lập và bảo tồn ngôn ngữ đó. Sản xuất phát triển, các giai 
cấp xuất hiện, chữ viết ra đời, các quốc gia hình thành cần giao dịch có 
thư từ có quy thức ít nhiều cho việc hành chính. Nền thương nghiệp 
trưởng thành càng cần giao dịch thư từ có quy tắc hơn nữa. Báo chí xuất 
hiện, văn học tiến lên, tất cả điều đó đã đưa lại những sự biến đỏi lơn lao 
trong quá trình phát triển của ngôn ngữ. Ngoài ra, ảnh hưởng đến sự 
phát triển của ngôn ngữ còn phải kể đến những nhân tố khách quan như: 
hình thức cộng đồng dân tộc người, dân số, trình độ học vấn, hình thức 
thể chế nhà nước, môi trường tộc người, tốc độ phát triển kinh tế xã hội, 
mối liên hệ kinh tế chính trị văn hoá, thế tương quan giữa trình độ phát 
triển của một dân tộc với nước láng giềng, truyền thống văn hoá, mức 
độ phân chia thành tiếng các địa phương. Những yêu cầu của xã hội đặt 
ra sẽ được đáp ứng thông qua việc giải quyết những mâu thuẫn trong nội  bộ của ngôn ngữ.   
Tóm lại bản chất xã hội của ngôn ngữ là: ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư 
cách là phương tiện giao tiếp giữa mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến 
trong xã hội, phương tiện giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau 
tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Ngôn 
ngữ thể hiện ý thức xã hội, chính vì thể hiện ý thức xã hội nên ngôn ngữ 
mới có thể làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người. Ngôn ngữ có khả 
năng hình thành văn hoá và là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn 
hoá; khả năng giao tiếp của con người tuỳ thuộc vào kiến                    lOMoAR cPSD| 40799667              
thức ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp và kiến thức văn hoá. Sự tồn tại và 
phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. 
Xã hội ngày càng đa dạng phức tạp, phong phú hơn thì ngôn ngữ cũng 
phải đa dạng phong phú hơn để phù hợp và kịp thời phản ánh sự tiến bộ  của xã hội.                                                                                                                              
