Nguồn gốc, bản chất Nhà nước , liên hệ thực tiễn | môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội

Nguồn gốc, bản chất Nhà nước , liên hệ thực tiễn | môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội  với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40367505
Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước
2. Nguồn gốc nhà nước
2.1. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc bộ lạc và quyền
lực xã hội
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của xã hội loài
người, trong đó không tồn tại giai cấp và nhà nước
Bầy người nguyên thuỷ là hình thức tập hợp đầu tiên, tự nhiên và hết sức đơn giản
của con người
Trải qua hàng triệu năm sống thành bầy, con người nguyên thuỷ bước vào giai đoạn
xã hội có tổ chức cao hơn là giai đoạn công xã nguyên thuỷ. Đơn vị tế bào của
công xã nguyên thuỷ là tổ chức thị tộc gồm những người cùng huyết thống. Các thị
tộc có quan hệ hôn nhân tạo thành các bào tộc. Nhiều bào tộc có quan hệ kinh tế -
địa vực hợp thành bộ lạc. Vì vậy, tổ chức thị tc – bộ lạc là hình thái biểu hiện cơ
bản của công xã nguyên thuỷ
Nền tảng vật chất của công xã nguyên thuỷ là lao động sản xuất tập thể và quyền sở
hữu chung đối với tài sản của thị tộc. Nguyên tắc phân phối bình quân là nguyên
tắc đặc trưng của thị tộc. Trong thị tộc có sự phân công lao động nhưng đó là sự
phân công tự nhiên để thực hiện các loại công việc cho thích hợp chứ không xuất
phát từ địa vị khác nhau của con người
Để tổ chức và điều hành hoạt động xã hội, thị tộc cũng cần đến quyền lực và một
hệ thống quản lý thực hiện quyền lực đó là: Hội đồng thị tộc (bao gồm tất cả những
thành viên đã trưởng thành của thị tộc, có quyền bàn bạc dân chủ và quyết định
những vấn đề quan trọng), Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự (là những người đứng đầu
thị tộc do hội nghị toàn thể thị tộc bầu ra. Họ không có đặc quyền riêng và họ điều
hành công việc của thị tộc theo quyết nghị của Hội đồng thị tộc và sự điều hành của
họ không dựa trên một cơ quan cưỡng chế nào mà dựa trên uy tín của họ đối với
cộng đồng)
Như vậy, trong xã hội thị tộc – bộ lạc đã xuất hiện quyền lực xã hội với những đặc
điểm là: không tách rời khỏi xã hội; phục vụ lợi ích của cả cộng đồng và không có
bộ máy cưỡng chế
2.2. Sự tan rã của công xã nguyên thuỷ và sự xuất hiện nhà nước
Công cụ lao động mới (kim loại thay thế gỗ, đá) xuất hiện làm tăng năng xuất lao
động và xuất hiện sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá (3 lần phân
công lao động lớn đó là chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp tách khỏi
công nghiệp; buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện). Điều này đã dẫn đến
quá trình phân hoá tài sản và xuất hiện chế độ tư hữu Các con đường hình thành
chế độ tư hữu: những người có địa vị trong cộng đồng thị tộc – bộ lạc như tù
lOMoARcPSD| 40367505
trưởng, thủ lĩnh quân sự, tăng lữ… lợi dụng ưu thế của mình chiếm đoạt sản phẩm
dư thừa của tập thể; Do chiến tranh giữa các bộ lạc khiến cho lượng của cải và tù
binh rơi vào tay bộ lạc chiến thắng; Do lao động sản xuất, các gia đình nhỏ tách
khỏi gia đình phụ hệ lớn và trở thành một đơn vị kinh tế độc lập tự tích luỹ tài sản
qua các thế hệ
Công xã nông thôn xuất hiện thay thế cho công xã nguyên thuỷ đang dần dần tan
rã. Quá trình chuyển cư mạnh mẽ do những hoạt động thương nghiệp, sự thay đổi
nghề nghiệp… đã xuất hiện những công xã láng giềng và xã hội hình thành những
tập đoàn người có địa vị kinh tế – xã hội khác hẳn nhau: tập đoàn thứ nhất bao gồm
các quý tộc thị tộc – bộ lạc, các tăng lữ, thương nhân giàu có và một số ít thợ thủ
công, nông dân tích luỹ được nhiều của cải. Họ không đông về số lượng nhưng
nắm giữ phần lớn tài sản của xã hội. Đó là giai cấp chủ nô; tập đoàn thứ hai bao
gồm đông đảo nông dân và thợ thủ công. Họ có chút ít tài sản và luôn bị chèn ép,
chịu sự chi phối của tập đoàn thứ nhất. Đó là giai cấp bình dân; Tập đoàn thứ ba
gồm các tù binh, người phạm ti, người bị phá sản. Họ không có tài sản và quyền
tự do, phải phụ thuộc hoàn toàn vào người ch sở hữu họ. Đó là giai cấp nô lệ. Sự
hình thành các giai cấp trên đòi hỏi xuất hiện một thứ quyền lực công cộng đặc biệt
không còn hoà nhập với xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị. Đó chính là n
nước
Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan từ sự tan rã của chế độ công
nguyên thuỷ. Tiền đề kinh tế cho sự ra đời của nhà nước là chế độ tư hữu tài sản.
Tiền đề xã hội cho sự ra đời của nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp.
Ph.Ăngghen đưa ra ba hình thức cơ bản và điển hình của sự xuất hiện nhà nước ở
Châu u như sau: Nhà nước Aten ra đời từ sự phát triển và đi lập giai cấp nội bộ xã
hội thị tộc; nhà nước Giecmanh ra đời do chiến thắng của người Giecmanh đối với
đế chế La Mã cổ đại và nhà nước Rôma ra đời do tác đng thúc đẩy của cuộc đấu
tranh của những người bình dân sống ngoài các thị tộc Rôma chống lại giới quý tộc
Các nhà nước phương Đông ra đời sớm hơn cả về thời gian và mức độ chín muồi
của các điều kiện kinh tế – xã hội do những yêu cầu thường trực về tự vệ và bảo vệ
lợi ích chung của cộng đồng
3. Bản chất nhà nước
Bản chất nhà nước là một thể thống nhất bao gồm hai phương diện: giai cấp và xã
hội
3.1. Tính giai cấp của nhà nước
Nhà nước là bộ máy chuyên chính giai cấp, tức là công c để thực hiện, củng cố và
bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của giai cấp thống trị hay của quyền lực
cầm quyền trong xã hội về các mặt kinh tế, chính trị và sự tác động về tư tưởng.
Ngay từ khi ra đời, nhà nước đã thể hiện là công cụ bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho
lOMoARcPSD| 40367505
giai cấp thống trị xã hội mặc dù sự xuất hiện của nhà nước còn là do nhu cầu thiết
lập ổn định, trật tự của xã hội.
Tính giai cấp nhà nước được thể hiện: nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành,
quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào; bảo vệ lợi ích của giai cấp nào là
chủ yếu. Tính chất giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà
nước.
Sự thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt: thống trị về kinh tế, chính trị và
tư tưởng.
Phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, mức độ thể hiện, thực hiện
tính giai cấp không hoàn toàn như nhau. Các yếu tố này bao gồm: tương quan lực
lượng giai cấp, lực lượng xã hội, bối cảnh quốc tế, truyền thống, phong tục, tâm lý
dân tộc, hoàn cảnh lịch sử, quan điểm chính trị, đạo đức của nhà cầm quyền, ý thức
giác ngộ của nhân dân… 3.2. Tính xã hội của nhà nước
Tính xã hội của nhà nước được thể hiện, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, nhà nước còn phải quan tâm đến việc bảo đảm, bảo vệ, giải quyết lợi ích
ở mức độ nhất định cho các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội và các vấn đề
chung của toàn xã hội tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất k
nhà nước nào. Nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm đến quyền lợi
của giai tầng khác, không giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội không hoàn toàn giống nhau ở các nhà
nước và ngay cả trong một nhà nước nhưng vào những giai đoạn lịch sử khác nhau
do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế văn hoá - xã hội, bối cảnh quốc
tế, trình độ nhận thức và quan điểm đạo đức chính trị của nhà cầm quyền, trình độ
và nhu cầu của các cá nhân, xã hội… Theo quy luật chung, tính xã hội, tính nhân
loại của các nhà nước ngày càng được thể hiện rõ cùng với sự phát triển không
ngừng của đời sống hiện đại.
1. Bản chất của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN)
Điều 2 Hiếu pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
lOMoARcPSD| 40367505
Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước;
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân
tộctrên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc;
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp
quyền.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN).
Nhà nước CHXHCN Việt Nam nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đó là kiểu nhà nước có bản chất hoàn toàn khác với kiểu nhà nước bóc lột và
là kiểu nhà nước cao nhất trong lịch sử, là nhà nước ca dân, do dân và vì dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và vì nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”(Điều 2, Hiến pháp
1992).Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước và
quản lý xã hội, đảm bảo quyền ứng cử cũng như quyền bầu cử của nhân dân, thực
sự có quyền lựa chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan
quyền lực nhà nước.
2. Các đặc trưng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay thể hiện cụ
thể bản chất của nhà nước xã hi chủ nghĩa, bao gồm các đặc trưng sau:
a) Tính giai cấp công nhân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt
Nam
Tính giai cấp công nhân ca Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự
lãnh đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp công nhân được thể hiện
trong quá trình đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở
khả năng nhận thức và tư tưởng đổi mới, phát triển.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai
cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động
của toàn xã hội.
lOMoARcPSD| 40367505
b) Tính dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà
nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu
hiện tập trung của khối đoàn kết dân tc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng
trước pháp luật. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều
kiện, hỗ trợ về mọi mặt để phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã
hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được
triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó
được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân và tính thời đại.
c) Tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân thiết lập nên Nhà nước bằng
quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ
yếu thông qua Quốc hội và Hi đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn
thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm
quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham gia góp ý vào các dự án chính sách,
pháp luật.
Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ ca Nhà nước
nhằm chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại
đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng
cường bộ máy cưỡng chế để đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá
nhân con người.
d) Tính thời đại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà
nước ta là một Nhà nước xã hội ch nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà
nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
phương tiện để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước Việt Nam còn
lOMoARcPSD| 40367505
quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y
tế, văn hóa…
Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối
ngoại với phương châm: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế
giới”. Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ
của nhau.
| 1/6

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40367505
Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước
2. Nguồn gốc nhà nước
2.1. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc – bộ lạc và quyền
lực xã hội
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của xã hội loài
người, trong đó không tồn tại giai cấp và nhà nước
Bầy người nguyên thuỷ là hình thức tập hợp đầu tiên, tự nhiên và hết sức đơn giản của con người
Trải qua hàng triệu năm sống thành bầy, con người nguyên thuỷ bước vào giai đoạn
xã hội có tổ chức cao hơn là giai đoạn công xã nguyên thuỷ. Đơn vị tế bào của
công xã nguyên thuỷ là tổ chức thị tộc gồm những người cùng huyết thống. Các thị
tộc có quan hệ hôn nhân tạo thành các bào tộc. Nhiều bào tộc có quan hệ kinh tế -
địa vực hợp thành bộ lạc. Vì vậy, tổ chức thị tộc – bộ lạc là hình thái biểu hiện cơ
bản của công xã nguyên thuỷ
Nền tảng vật chất của công xã nguyên thuỷ là lao động sản xuất tập thể và quyền sở
hữu chung đối với tài sản của thị tộc. Nguyên tắc phân phối bình quân là nguyên
tắc đặc trưng của thị tộc. Trong thị tộc có sự phân công lao động nhưng đó là sự
phân công tự nhiên để thực hiện các loại công việc cho thích hợp chứ không xuất
phát từ địa vị khác nhau của con người
Để tổ chức và điều hành hoạt động xã hội, thị tộc cũng cần đến quyền lực và một
hệ thống quản lý thực hiện quyền lực đó là: Hội đồng thị tộc (bao gồm tất cả những
thành viên đã trưởng thành của thị tộc, có quyền bàn bạc dân chủ và quyết định
những vấn đề quan trọng), Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự (là những người đứng đầu
thị tộc do hội nghị toàn thể thị tộc bầu ra. Họ không có đặc quyền riêng và họ điều
hành công việc của thị tộc theo quyết nghị của Hội đồng thị tộc và sự điều hành của
họ không dựa trên một cơ quan cưỡng chế nào mà dựa trên uy tín của họ đối với cộng đồng)
Như vậy, trong xã hội thị tộc – bộ lạc đã xuất hiện quyền lực xã hội với những đặc
điểm là: không tách rời khỏi xã hội; phục vụ lợi ích của cả cộng đồng và không có bộ máy cưỡng chế
2.2. Sự tan rã của công xã nguyên thuỷ và sự xuất hiện nhà nước
Công cụ lao động mới (kim loại thay thế gỗ, đá) xuất hiện làm tăng năng xuất lao
động và xuất hiện sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá (3 lần phân
công lao động lớn đó là chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp tách khỏi
công nghiệp; buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện). Điều này đã dẫn đến
quá trình phân hoá tài sản và xuất hiện chế độ tư hữu Các con đường hình thành
chế độ tư hữu: những người có địa vị trong cộng đồng thị tộc – bộ lạc như tù lOMoAR cPSD| 40367505
trưởng, thủ lĩnh quân sự, tăng lữ… lợi dụng ưu thế của mình chiếm đoạt sản phẩm
dư thừa của tập thể; Do chiến tranh giữa các bộ lạc khiến cho lượng của cải và tù
binh rơi vào tay bộ lạc chiến thắng; Do lao động sản xuất, các gia đình nhỏ tách
khỏi gia đình phụ hệ lớn và trở thành một đơn vị kinh tế độc lập tự tích luỹ tài sản qua các thế hệ
Công xã nông thôn xuất hiện thay thế cho công xã nguyên thuỷ đang dần dần tan
rã. Quá trình chuyển cư mạnh mẽ do những hoạt động thương nghiệp, sự thay đổi
nghề nghiệp… đã xuất hiện những công xã láng giềng và xã hội hình thành những
tập đoàn người có địa vị kinh tế – xã hội khác hẳn nhau: tập đoàn thứ nhất bao gồm
các quý tộc thị tộc – bộ lạc, các tăng lữ, thương nhân giàu có và một số ít thợ thủ
công, nông dân tích luỹ được nhiều của cải. Họ không đông về số lượng nhưng
nắm giữ phần lớn tài sản của xã hội. Đó là giai cấp chủ nô; tập đoàn thứ hai bao
gồm đông đảo nông dân và thợ thủ công. Họ có chút ít tài sản và luôn bị chèn ép,
chịu sự chi phối của tập đoàn thứ nhất. Đó là giai cấp bình dân; Tập đoàn thứ ba
gồm các tù binh, người phạm tội, người bị phá sản. Họ không có tài sản và quyền
tự do, phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ sở hữu họ. Đó là giai cấp nô lệ. Sự
hình thành các giai cấp trên đòi hỏi xuất hiện một thứ quyền lực công cộng đặc biệt
không còn hoà nhập với xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị. Đó chính là nhà nước
Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan từ sự tan rã của chế độ công xã
nguyên thuỷ. Tiền đề kinh tế cho sự ra đời của nhà nước là chế độ tư hữu tài sản.
Tiền đề xã hội cho sự ra đời của nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp.
Ph.Ăngghen đưa ra ba hình thức cơ bản và điển hình của sự xuất hiện nhà nước ở
Châu u như sau: Nhà nước Aten ra đời từ sự phát triển và đối lập giai cấp nội bộ xã
hội thị tộc; nhà nước Giecmanh ra đời do chiến thắng của người Giecmanh đối với
đế chế La Mã cổ đại và nhà nước Rôma ra đời do tác động thúc đẩy của cuộc đấu
tranh của những người bình dân sống ngoài các thị tộc Rôma chống lại giới quý tộc
Các nhà nước phương Đông ra đời sớm hơn cả về thời gian và mức độ chín muồi
của các điều kiện kinh tế – xã hội do những yêu cầu thường trực về tự vệ và bảo vệ
lợi ích chung của cộng đồng
3. Bản chất nhà nước
Bản chất nhà nước là một thể thống nhất bao gồm hai phương diện: giai cấp và xã hội
3.1. Tính giai cấp của nhà nước
Nhà nước là bộ máy chuyên chính giai cấp, tức là công cụ để thực hiện, củng cố và
bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của giai cấp thống trị hay của quyền lực
cầm quyền trong xã hội về các mặt kinh tế, chính trị và sự tác động về tư tưởng.
Ngay từ khi ra đời, nhà nước đã thể hiện là công cụ bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho lOMoAR cPSD| 40367505
giai cấp thống trị xã hội mặc dù sự xuất hiện của nhà nước còn là do nhu cầu thiết
lập ổn định, trật tự của xã hội.
Tính giai cấp nhà nước được thể hiện: nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành,
quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào; bảo vệ lợi ích của giai cấp nào là
chủ yếu. Tính chất giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà nước.
Sự thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt: thống trị về kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, mức độ thể hiện, thực hiện
tính giai cấp không hoàn toàn như nhau. Các yếu tố này bao gồm: tương quan lực
lượng giai cấp, lực lượng xã hội, bối cảnh quốc tế, truyền thống, phong tục, tâm lý
dân tộc, hoàn cảnh lịch sử, quan điểm chính trị, đạo đức của nhà cầm quyền, ý thức
giác ngộ của nhân dân… 3.2. Tính xã hội của nhà nước
Tính xã hội của nhà nước được thể hiện, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, nhà nước còn phải quan tâm đến việc bảo đảm, bảo vệ, giải quyết lợi ích
ở mức độ nhất định cho các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội và các vấn đề
chung của toàn xã hội tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất kỳ
nhà nước nào. Nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm đến quyền lợi
của giai tầng khác, không giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội không hoàn toàn giống nhau ở các nhà
nước và ngay cả trong một nhà nước nhưng vào những giai đoạn lịch sử khác nhau
do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế – văn hoá - xã hội, bối cảnh quốc
tế, trình độ nhận thức và quan điểm đạo đức chính trị của nhà cầm quyền, trình độ
và nhu cầu của các cá nhân, xã hội… Theo quy luật chung, tính xã hội, tính nhân
loại của các nhà nước ngày càng được thể hiện rõ cùng với sự phát triển không
ngừng của đời sống hiện đại.
1. Bản chất của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN)
Điều 2 Hiếu pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. lOMoAR cPSD| 40367505
Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:
– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân
tộctrên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Nhà nước CHXHCN Việt Nam nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đó là kiểu nhà nước có bản chất hoàn toàn khác với kiểu nhà nước bóc lột và
là kiểu nhà nước cao nhất trong lịch sử, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và vì nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”(Điều 2, Hiến pháp
1992).Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước và
quản lý xã hội, đảm bảo quyền ứng cử cũng như quyền bầu cử của nhân dân, thực
sự có quyền lựa chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
2. Các đặc trưng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay thể hiện cụ
thể bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm các đặc trưng sau:
a) Tính giai cấp công nhân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tính giai cấp công nhân của Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự
lãnh đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp công nhân được thể hiện
trong quá trình đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở
khả năng nhận thức và tư tưởng đổi mới, phát triển.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai
cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động và của toàn xã hội. lOMoAR cPSD| 40367505
b) Tính dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà
nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu
hiện tập trung của khối đoàn kết dân tộc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng
trước pháp luật. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều
kiện, hỗ trợ về mọi mặt để phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã
hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được
triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó
được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân và tính thời đại.
c) Tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân thiết lập nên Nhà nước bằng
quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ
yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn
thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm
quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham gia góp ý vào các dự án chính sách, pháp luật.
Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ của Nhà nước
nhằm chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại
đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng
cường bộ máy cưỡng chế để đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá nhân con người.
d) Tính thời đại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà
nước ta là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà
nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
phương tiện để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước Việt Nam còn lOMoAR cPSD| 40367505
quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa…
Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối
ngoại với phương châm: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế
giới”. Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau.