Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tôn Đức Thắng

Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự docạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.-9 nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu

Thông tin:
10 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tôn Đức Thắng

Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự docạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.-9 nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

53 27 lượt tải Tải xuống
NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Tình hình quốc tế
- Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa bản đã phát triển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
- 9 nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giới.
- Đầu thế kỉ XX phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ nhưng chưa hoàn toàn giành
thắng lợi.
- Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác -
Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố đặc biệt quan trọng đối với việc ra đời và
phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Tình hình Việt Nam
- Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã bị chủ nghĩa
bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Hình thành 2 giai cấp: vô sản và tư sản.
3. Nguồn gốc hình thành tư tưởng
- Truyền thống tốt đẹp dân tộc Việt Nam: cơ sở tư tưởng hình thành cách mạng
+ Bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
+ Chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực, sức mạnh, đạo làm người, niềm tự hào
dân tộc
- Tinh hoa văn hóa dân tộc: phương Đông và phương Tây
+ Tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng,
thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc
+ Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tưởng dân chủ sản Pháp, Mỹ,
đặc biệt tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
(Trung Quốc)...
4. Chủ nghĩa Mác Lê Nin
- 1911-1917: đã đến nhiều nước thuộc địa đế quốc, tiếp cận những nhận thức mới về “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái”
- 1919: tham gia Đảng cộng sản Pháp (SFIO)
5. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Từ nhỏ đến khi lên đường tìm đường cứu nước 6/1911
- Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan
- Tiếp thu những văn hóa truyền thống yêu nước từ lúc nhỏ
- Người nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác
ái”. Thế tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những ẩn dấu đằng sau
những từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao và tôi tới Pari để
học hỏi”
b. Thời kì tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác Lê Nin, trở thành người cộng sản
- 07/1911, đặt chân lên nước Pháp.
- Chiến tranh thế giới lần I, từ Anh trở lại Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng hội chủ nghĩa
Tháng Mười nổ ra và thắng lợi
- Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị Vécxây (Pháp). Thực chất
của hội nghị các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”,
“công bằng”, “nhân đạo”
- Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường
cách mạng sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp sản. Hồ Chí Minh rời
bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do
Lênin sáng lập (3-1919)
- Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh trở
thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tưởng cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế
vô sản chân chính
c. Thời kì tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành cơ bản (1920-1930)
- Các bài viết trên báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí
Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực n
Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh những công cụ quan trọng
trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền
thống thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản
- Xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam cách mạng
thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-
1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l-1930)
- 28-11-1929, Quốc tế Cộng sản đã nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông
Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp
nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930
- 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦATƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRẢI
QUA 5 THỜI KỲ
1. Thời kỳ trước năm 1911: hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
- Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Do ảnh hưởng sâu sắc từ những tư tưởng, tình cảm của những người thân trong
gia đình nên những tư tưởng mới của thời đại đã được Hồ Chí Minh nâng lên thành tư tưởng
cốt lõi trong đường lối chính trị của mình.
- Từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc
lột đến cùng cực của đồng bào mình. Khi vào Huế, Người lại tận mắt nhìn thấy tội ác của
thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam Triều. Thêm vào đónhững bài
học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Tất cả đã thôi thúc Người ra đi tìm
một con đường mới để cứu dân, cứu nước.
- Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê
hương, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của
những người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con đường của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám.... Hồ Chí Minh đã tự định ra cho mình một hướng
đi mới: phải tìm hiểu cho bản chất của những từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của nước
Cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình.
2. Thời kỳ 1911 – 1920: tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Năm 1911, Hồ Chí Minh rời tổ quốc sang Phương Tây tìm đường cứu nước.
- Qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, bản, đế quốc, Người đã xúc
động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Người nhận thấy đâu
nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Từ lòng yêu thương đồng bào
mình, Hồ Chí Minh càng đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên toàn thế giới.
Người đã nảy sinh ý thức về scần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh
cho nguyện vọng quyền lợi chung. thể xem đây biểu hiện đầu tiên của ý thức về sự
đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc thuộc địa nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc.
- Với lòng yêu nước nồng nàn và chịu khó học hỏi, năm 1919, thay mặt những người yêu nước
Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị
Versaille đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủbình đẳng của nhân dân
Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới
nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và Đông Dương.
- Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất khi đọc thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn
Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình
cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở Người.
- Việc biểu quyết tán thành Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp, trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tưởng
Nguyễn Ái Quốc.
3. Thời kỳ 1921 – 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
- Trong giai đoạn từ1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc những hoạt động thực tiễn hoạt
động luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn nước Pháp (1921 1923), Liên
(1923 1924), Trung Quốc (1924 1927), Thái Lan (1928 1229). Trong khoảng thời gian
này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách
mệnh (1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) nhiều bài viết khác của Người trong
giai đoạn này sự phát triển tiếp tục hoàn thiện tưởng cách mạng về giải phóng dân
tộc. Những tác phẩm tính chất luận nói trên chứa đựng những nội dung căn bản sau
đây:
+ Bản chất của chế độ thực dân “ăn cướp” “giết người”. vậy, chủ nghĩa thực
dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng
sản một bộ phận của cách mạng sản thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn
liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa cách mạng sản chính quốc
mối quan hệ khắng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết một cuộc dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi bọn
ngoại xâm, giành độc lập, tự do.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải thu phục, lôi
cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối liên minh công nông làm động lực
cho cách mạng.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải đảng lãnh đạo. Đảng phải theo
chủ nghĩa Mac Lênin phải một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh, chiến đấu
tưởng của Đảng, lợi ích sự tồn vong của dân tộc, tưởng giải phóng giai
cấp công nhân và nhân loại.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài
người, vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh
từ thấp lên cao.
4. Thời kỳ 1930 – 1945: vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
- Vào cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối
nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách
mạng Việt Nam. Biểu hiện nhất những quyết định được đưa ra trong hội nghị lần thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 31 –10 –1930,
tại Hương Cảng theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản chỉ trích phê phán đường lối của
Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chính cương vắn tắt Sách lược vắn tắt đã phạm những sai
lầm chính trị rất nguy hiểm, “chỉ lo đến phản đế quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”.
Do đó, đã ra nghị quyết “thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng
- Trên sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái
Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc vấn đề giai cấp, về cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa cách mạng sản, chống lại những biểu hiện “tả”
khuynh và biệt phái trong Đảng.
- Tháng 7 năm 1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả” trong
phong trào Cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất hòa bình,
chống chủ nghĩa Phát xít đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt
Nam, về mặt trận dân tộc thống nhất, về việc tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế
quốc là hoàn toàn đúng đắn.
- Trước khi về nước, trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn
luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam
tiếp tục tiến lên. Khi tình hình thế giới những biến động mới, Người đã chủ động đề nghị
Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động.
- Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từ Matxcơva về Trung Quốc (tháng 10
1938). Tại đây, Người đã những quan điểm chỉ đạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh
đạo trong nước. Ngày 28 - 1 - 1941, sau 30 năm hoạt động nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc
trở về tổ quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, dưới schủ trì của Nguyễn Ái Quốc,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Dưới những quan điểm những đường lối đúng đắn
đã dẫn đến sự thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 -9 –45, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh các quyềnbản của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt
Nam.
5. Thời kỳ 1945 – 1969: tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện
- Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước
ta. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ. Ở miền Bắc,
hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, bóp chết nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của dân
tộc, Hồ Chí Minh đã lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở,
tới bờ bến thắng lợi.
- Năm 1951, do yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn, Trung ương Đảng chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao Động Việt
Nam.
- Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.
- Sau hiệp nghị Genève năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước vẫn bị chia
cắt bởi âm mưu gây chiến, xâm lược của đế quốc Mỹ tay sai. Đứng trước yêu cầu
mới của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ
thù chính của nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc một nhiệm vụ chiến lược
khác nhau, xếp cách mạng Miền Bắc vào phạm trù cách mạng hội chủ nghĩa, còn cách
mạng miền Nam thuộc phạm trù cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
- Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tưởng Hồ Chí
Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung phát triển, hợp thành một hệ thống những
quan điểm lý luận về cách mạng Việt Nam, đó là: tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng và chiến
lược về con người; tưởng về Đảng Cộng sản xây dựng Đảng với cách Đảng cầm
quyền...
CƠ SỞ KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1 Tình hình trong nước:
- Chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của thực dân
Pháp, lần lượt kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của chúng trên toàn
cõi Việt Nam.
- Đầu thế kỷ XX, các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta
có sự biến chuyển và phân hóa.
- Các phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam điều kiện để chủ nghĩa
Mác – Lê Nin xâm nhập, truyền bá vào nước ta.
- Thực tiễn Đãng lãnh đạo Cách Mạng tháng Tám thành công , lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi, là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên
tất cả các phương diện.
1.2 Tình hình quốc tế:
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển
sang giai đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới.
- Cách mạng tháng Mười Nga thành công thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác
Nin ở một nước rộng một phần sáu thế giới.
- Sự ra đời của nhà nước Xô Viết, Quốc tế cộng sản, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân giải phóng
dân tộc Ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu
và con đường cứu nước.
2. Cơ sở lí luận
2.1 Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
- tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần lao động, anh dũng chiến đấu
trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình,nghĩa, nhân ái Việt
Nam.
- Truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ thúc giục
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước vào năm 1911.
2.2 Tinh hoa văn hoá nhân loại
- Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông.
- Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Đông. Người cũng đã tiếp thu kế thừa phê phán tưởng dân chủ, nhân văn của
văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng sản phương Tây cách mạng
Trung Quốc.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu
tưởng dân chủ sản Pháp, Mỹ, đặc biệt tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng
| 1/10

Preview text:

NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Tình hình quốc tế
- Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
- 9 nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giới.
- Đầu thế kỉ XX phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ nhưng chưa hoàn toàn giành thắng lợi.
- Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác -
Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố đặc biệt quan trọng đối với việc ra đời và
phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Tình hình Việt Nam
- Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã bị chủ nghĩa tư
bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Hình thành 2 giai cấp: vô sản và tư sản.
3. Nguồn gốc hình thành tư tưởng
- Truyền thống tốt đẹp dân tộc Việt Nam: cơ sở tư tưởng hình thành cách mạng
+ Bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
+ Chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực, sức mạnh, đạo lý làm người, niềm tự hào dân tộc
- Tinh hoa văn hóa dân tộc: phương Đông và phương Tây
+ Tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng,
thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc
+ Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ,
đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)...
4. Chủ nghĩa Mác Lê Nin
- 1911-1917: đã đến nhiều nước thuộc địa và đế quốc, tiếp cận những nhận thức mới về “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”
- 1919: tham gia Đảng cộng sản Pháp (SFIO)
5. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Từ nhỏ đến khi lên đường tìm đường cứu nướ c 6/1911
- Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan
- Tiếp thu những văn hóa truyền thống yêu nước từ lúc nhỏ
- Người nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác
ái”. Thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau
những từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao và tôi tới Pari để học hỏi”
b. Thời kì tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác
Lê Nin, trở thành người cộng sản
- 07/1911, đặt chân lên nước Pháp.
- Chiến tranh thế giới lần I, từ Anh trở lại Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười nổ ra và thắng lợi
- Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Thực chất
của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”,
“công bằng”, “nhân đạo”
- Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường
cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh rời
bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919)
- Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh trở
thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính
c. Thời kì tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành cơ bản (1920-1930)
- Các bài viết trên báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí
Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là những công cụ quan trọng
trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền
thống thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản
- Xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam cách mạng
thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-
1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l-1930)
- 28-11-1929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông
Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp
nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930
- 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRẢI QUA 5 THỜI KỲ
1. Thời kỳ trước năm 1911: hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
- Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Do ảnh hưởng sâu sắc từ những tư tưởng, tình cảm của những người thân trong
gia đình nên những tư tưởng mới của thời đại đã được Hồ Chí Minh nâng lên thành tư tưởng
cốt lõi trong đường lối chính trị của mình.
- Từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc
lột đến cùng cực của đồng bào mình. Khi vào Huế, Người lại tận mắt nhìn thấy tội ác của
thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam Triều. Thêm vào đó là những bài
học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Tất cả đã thôi thúc Người ra đi tìm
một con đường mới để cứu dân, cứu nước.
- Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê
hương, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của
những người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con đường của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám.... Hồ Chí Minh đã tự định ra cho mình một hướng
đi mới: phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của nước
Cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình.
2. Thời kỳ 1911 – 1920: tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Năm 1911, Hồ Chí Minh rời tổ quốc sang Phương Tây tìm đường cứu nước.
- Qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc, Người đã xúc
động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Người nhận thấy ở đâu
nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Từ lòng yêu thương đồng bào
mình, Hồ Chí Minh càng đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên toàn thế giới. Ở
Người đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh
cho nguyện vọng và quyền lợi chung. Có thể xem đây là biểu hiện đầu tiên của ý thức về sự
đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc thuộc địa nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
- Với lòng yêu nước nồng nàn và chịu khó học hỏi, năm 1919, thay mặt những người yêu nước
Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị
Versaille đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân
Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới và
nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và Đông Dương.
- Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn
Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình
cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở Người.
- Việc biểu quyết tán thành Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp, trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc.
3. Thời kỳ 1921 – 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
- Trong giai đoạn từ1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và hoạt
động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn nước Pháp (1921 – 1923), Liên Xô
(1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927), Thái Lan (1928 – 1229). Trong khoảng thời gian
này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách
mệnh (1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) và nhiều bài viết khác của Người trong
giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân
tộc. Những tác phẩm có tính chất lý luận nói trên chứa đựng những nội dung căn bản sau đây:
+ Bản chất của chế độ thực dân là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy, chủ nghĩa thực
dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng
vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn
liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có
mối quan hệ khắng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi bọn
ngoại xâm, giành độc lập, tự do.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải thu phục, lôi
cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cho cách mạng.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có đảng lãnh đạo. Đảng phải theo
chủ nghĩa Mac – Lênin và phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì
lý tưởng của Đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai
cấp công nhân và nhân loại.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài
người, vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao.
4. Thời kỳ 1930 – 1945: vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
- Vào cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối
nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách
mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất là những quyết định được đưa ra trong hội nghị lần thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 31 –10 –1930,
tại Hương Cảng theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản chỉ trích và phê phán đường lối của
Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai
lầm chính trị rất nguy hiểm, vì “chỉ lo đến phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”.
Do đó, đã ra nghị quyết “thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng”
- Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái
Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện “tả”
khuynh và biệt phái trong Đảng.
- Tháng 7 năm 1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả” trong
phong trào Cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất vì hòa bình,
chống chủ nghĩa Phát xít đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt
Nam, về mặt trận dân tộc thống nhất, về việc tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế
quốc là hoàn toàn đúng đắn.
- Trước khi về nước, trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn
luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam
tiếp tục tiến lên. Khi tình hình thế giới có những biến động mới, Người đã chủ động đề nghị
Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động.
- Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từ Matxcơva về Trung Quốc (tháng 10
– 1938). Tại đây, Người đã có những quan điểm chỉ đạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh
đạo trong nước. Ngày 28 - 1 - 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc
trở về tổ quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Dưới những quan điểm và những đường lối đúng đắn
đã dẫn đến sự thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 -9 –45, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
5. Thời kỳ 1945 – 1969: tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện
- Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước
ta. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ. Ở miền Bắc,
hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, bóp chết nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của dân
tộc, Hồ Chí Minh đã lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở,
tới bờ bến thắng lợi.
- Năm 1951, do yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn, Trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam.
- Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.
- Sau hiệp nghị Genève năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước vẫn bị chia
cắt bởi âm mưu gây chiến, xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đứng trước yêu cầu
mới của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ
thù chính của nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc một nhiệm vụ chiến lược
khác nhau, xếp cách mạng Miền Bắc vào phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn cách
mạng miền Nam thuộc phạm trù cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
- Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung và phát triển, hợp thành một hệ thống những
quan điểm lý luận về cách mạng Việt Nam, đó là: tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng và chiến
lược về con người; tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền...
CƠ SỞ KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1 Tình hình trong nước: -
Chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của thực dân
Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của chúng trên toàn cõi Việt Nam. -
Đầu thế kỷ XX, các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta
có sự biến chuyển và phân hóa. -
Các phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam là điều kiện để chủ nghĩa
Mác – Lê Nin xâm nhập, truyền bá vào nước ta. -
Thực tiễn Đãng lãnh đạo Cách Mạng tháng Tám thành công , lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi, là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên
tất cả các phương diện.
1.2 Tình hình quốc tế: -
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển
sang giai đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. -
Cách mạng tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin ở một nước rộng một phần sáu thế giới. -
Sự ra đời của nhà nước Xô Viết, Quốc tế cộng sản, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và giải phóng
dân tộc  Ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu
và con đường cứu nước. 2. Cơ sở lí luận
2.1 Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam -
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. -
Truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ thúc giục
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước vào năm 1911.
2.2 Tinh hoa văn hoá nhân loại -
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông. -
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Đông. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của
văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
 Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư
tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng