Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật và ý nghĩa của nó trong sự phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay.| Tiểu luận cuối kì môn Triết học Mác – Lênin
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin với nguyên lý về sự phát triển, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý lớn nhất và là cơ sở cho việc xây dựng các nguyên lý, quy luật khác trong phép biện chứng duy vật. Nó là nguyên lý cơ bản về phép biện chứng duy vật, là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
MÔN HỌC TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TIỂU LUẬN
NGUYÊN LÍ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN TRONG PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM TOÀN DIỆN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
GVHD: Nguyễn Ngọc Võ Khoa SVTH:
1. Nguyễn Văn An – 22162002
2. Lê Quang Trọng Nghĩa-22162029
3. Nguyễn Thị Thu Trâm- 22126139
4. Trần Thế Trung -22162051
5. Phan Thị Cẩm Tú – 22126144
Mã lớp học: LLCT130105
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................1 1.
Lý do chọn đề tài ...................................................................................…....1 2.
Mục đích nghiên cứu ...............................................................................….1 3.
Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................…......1 1.
Lý luận chung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến .................................1
1.1. Các khái niệm về liên hệ, mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến .......…............1
1.1.1. Liên hệ .....................................................................................…......1
1.1.2. Mối liên hệ .....................................................................................…2
1.1.3. Mối liên hệ phổ biến ...........................................................................3
1.2. Tính chất của mối liên hệ phổ biến ...............................................................4
1.2.1. Tính khách quan .................................................................................4
1.2.2. Tính Phổ biến .....................................................................................5
1.2.3. Tính đa dạng phong phú ...................................................................5 2.
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến ..................5
2.1. Quan điểm toàn diện .....................................................................................6
2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể ............................................................................9
2.2.1. Quan điểm lịch sử cụ thể là gì ?.............................................…........9
2.2.2. Nội dung của quan hệ lịch sử cụ thể: .................................................9
2.2.3. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể ..............................................10
2.2.4. Lấy ví dụ về quan điểm lịch sử cụ thể ..............................................11 3.
Ý nghĩa của nguyên lý phổ biến về phát triển con người Việt Nam
toàn diện ...............................................................................................................13
3.1. Quan điểm phát triển con người Việt Nam toàn diện...................................13
3.2. Giải pháp về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện trong giai đoạn hiện
nay..........................................................................................................................15
3.3. Những thành tựu đạt được về việc phát triển con người Việt Nam toàn
diện..........................................................................................................................16
3.4. Ý nghĩa của nguyên lý mối liên hệ phổ biến ...............................….............18
KẾT LUẬN.....................................................................................................19
TƯ LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................19 PHẦN MỞ ĐẦU 1.
Lý do chọn đề tài
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin với nguyên lý về sự phát triển, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý lớn nhất và là cơ sở cho việc xây dựng các
nguyên lý, quy luật khác trong phép biện chứng duy vật. Nó là nguyên lý cơ bản về
phép biện chứng duy vật, là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.Mối
liên hệ được chủ yếu sử dụng theo ý nghĩa là sự ràng buộc lân nhau của các sựvật hiện
tượng. Trong phép biện chứng duy vật của Triết học Mac-Leenin thì thuật ngữ mối liên
hệ được sử dụng mang ý nghĩa biện chứng, tức là nó được dùng để chỉ: Sự ràng buộc
lẫn nhau không thể tách rời giữa các sự vật, hiện tượng. Đồng thời nó còn là sự tác
động làm và biến đổi lẫn nhau của các sự vật hiện tượng.Nó mang lại nhiều ý nghĩa
đối với sự phát triển con người Việt Nam toàn diện trong giai đoạn hiện nay. Nhóm
chúng em quyết định làm bài tiểu luận về đề tài “ Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
trong phép biện chứng duy vật và ý nghĩa của nó trong sự phát triển con người toàn
diện trong giai đoạn hiện nay. 2.
Mục đích nghiên cứu
2.1 Nêu ra được lý luận chung của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật.
2.2 Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến
2.3 Nói lên ý nghĩa của nó đối với sự phát triển con người Việt Nam toàn diện trong giai đoạn hiện nay. 3.
Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét, đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích
và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn. NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG CỦA NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.1 Các khái niệm về liên hệ, mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến 1.1.1 Liên hệ 1
Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với nhau, qua đó thể
hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là đối tượng
thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối tượng, các thuộc tính của nó
thay đổi và trong một số trường hợp có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa
thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó
phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng đối
tượng có liên hệ với các đối tượng khác.
Theo quan điểm biện chứng, khái niệm “liên hệ” là quan hệ giữa hai đối
tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm thay đổi đối tượng
kia. Liên hệ phản ánh sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, làm điều kiện, tiền đề
cho nhau và quy định lẫn nhau của mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới. “Liên
hệ” còn phản ánh sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau. Ví dụ: Quá
trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát triển cũng có sự liên hệ.
1.1.2 Mối liên hệ
Theo từ điển Tiếng Việt, thì "mối" là “đoạn đầu của sợi dây, sợi chỉ dùng để
buộc thắt lại với nhau; chỗ nối, chỗ thắt, chỗ từ đó có thể quan hệ với một tổ
chức, cơ sở liên lạc”. Còn “liên hệ” là “chỉ sự vật, sự việc có quan hệ làm cho ít
nhiều tác động đến nhau, dựa trên những mối quan hệ nhất định". Như vậy, mối
liên hệ có thể được hiểu theo cách là sự quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy theo một cách
thức, con đường của nó.
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lần nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau. Chẳng hạn, mối liên hệ giữa con người với tự
nhiên, con người với con người hay con người với xã hội; mỗi người có những
mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp hay mối quan hệ với gia đình.
Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng khi sự thay đổi
của đối tượng này không ảnh hưởng đến đối tượng khác, không làm chúng thay đổi. 2
Điều này không có nghĩa là một số đối tượng luôn liên hệ, còn những đối tượng
khác lại chỉ cô lập. Trong các trường hợp liên hệ thì vẫn có sự cô lập, cũng như các
trường hợp cô lập thì vẫn có mối liên hệ qua lại. Mọi đối tượng đều ở trong trạng thái
vừa cô lập vừa liên hệ với nhau. Chúng có thể liên hệ với nhau ở một số khía cạnh và
cũng có thể cô lập với nhau ở một số khía cạnh khác, trong chúng có cả những biến
đổi khiến các đối tượng khác thay đổi, lẫn những biến đổi không làm các đối tượng khác thay đổi.
Ví dụ điển hình và dễ nhận thấy nhất là quan hệ giữa con người và môi trường.
Con người gắn bó với môi trường nhưng vẫn có tính độc lập nhất định. Một số thay
đổi của môi trường làm ảnh hưởng đến con người, nhưng cũng có một số thay đổi
khác không gây ảnh hưởng đến con người. Chỉ những biến đổi môi trường gắn liền với
hoạt động sống của cơ thể thì mới làm ảnh hưởng đến cơ thể; còn thay đổi nào không
gắn với hoạt động sống thì không làm thay đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập luôn cùng
tồn tại với nhau, là những mặt tất yếu của mọi quan hệ cụ thể giữa các đối tượng.
1.1.3. Mối liên hệ phổ biến
Trước đây, các nhà duy tâm rút ra mối liên hệ giữa các sự vật ra từ ý thức, tinh
thần (Hegel cho rằng, ý niệm tuyệt đối là nền tảng cho các mối liên hệ; còn Berkeley
trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng, cảm giác là nền tảng của mối liên hệ
giữa các đối tượng). Các sự vật liên hệ với nhau không phải do bản thân nó mà là do ý
niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối hoạt động thông qua các phạm trù, đến đỉnh cao thì
tha hóa thành thế giới vật chất, thành các sự vật hiện tượng. Như vậy, mối liện hệ giữa
các sự vật hiện tượng bắt nguồn từ ý niệm tuyệt đối.
Quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, được phổ biến rộng rãi trong
khoa học tự nhiên và truyền sáng triết học. Khi khoa học tự nhiên còn nhiều hạn chế,
khi chỉ mới dừng ở việc sưu tập tài liệu và nghiên cứu thế giới trong sự tách rời riêng
lẻ của từng bộ phận. Điều này đã làm nảy sinh quan điểm siêu hình, coi các sự vật hiện
tượng là tách rời nhau, không có mối liên hệ ràng buộc và chuyển hóa lẫn nhau, nếu có
thì đó chỉ là mối liên hệ hời hợt bên ngoài. Quan điểm này dẫn đến thế giới quan triết
học sai lầm là dựng nên một ranh giới giả tạo giữa các sự vật hiện tượng, đặt đối lập
các nghiên cứu khoa học chuyên ngành với nhau. Do đó nên quan điểm siêu hình 3
không thể phát hiện ra những quy luật, bản chất và tính phổ biến của sự vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng trong thế giới.
Từ chỗ cho rằng mọi tồn tại trong thế giới đều là những mắt khâu của một
thực thể vật chất duy nhất, là những trạng thái và hình thức tồn tại khác nhau của
nó, phép biện chứng duy vật thừa nhận có mối liên hệ phổ biến giữa các đối
tượng. Và khi quan niệm về sự liên hệ được mở rộng đến các đối tượng tinh thần
và giữa chúng vốn thuộc chủ thể với các đối tượng khách quan thì sẽ có quan
niệm về mối liên hệ phổ biến. Liên hệ chung nhất, là đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng, loại liên hệ được gọi là liên hệ phổ biến. Trong loại quan hệ
này thì thế giới là một hệ thống các liên hệ đối tượng, chính tính thống nhất của
thế giới là cơ sở cho mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất đó mà các đối tượng khong
thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Quan điểm của phép biện chứng duy vật trái ngược với quan điểm siêu
hình, quan điểm biện chứng duy vật cho rằng mọi sự vật hiện tượng trên thế giới
này đều có liên hệ với nhau, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và không tách biệt.
Chính tính thống nhất của của thế giới là cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối
liên hệ. Theo đó, các sự vật hiện tượng phong phú trên thế giới này chỉ là những
dạng tồn tại khách quan của một thế giới vật chất duy nhất.
1.2. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
1.2.1. Tính khách quan
Phép duy vật biện chứng cho rằng, các sự vật hiện tượng của thế giới tồn
tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, tác động trong thế giới. Có mối liên hệ, tác
động giữa các sự vật hiện tượng vật chất với nhau, có mối liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Có mối liên hệ giữa những hiện
tượng tinh thần với nhau (mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của nhận
thức)… Các mối liên hệ, tác động đó- suy đến cùng, đều là sự quy định, tác động
qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng. 4
Mối liên hệ của sự vật là khách quan vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Kể cả
những sự vật vô tri vô giác cũng chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Con
người cũng chịu những sự tác động của các sự vật hiện tượng khác và các yếu tố bên
trong bản thân, con người chỉ có thể nhận thức và vận những mối liên hệ ấy vào hoạt
động thực tiễn của mình.
Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động là phương thức tồn tại của
vật chất, là một yếu tố khách quan nên mối liên hệ cũng tồn tại khách quan.
Một ví dụ cho tính chất này là con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi
trường tự nhiên và xã hội dù họ có ý thức được hay không. Đó là điều khách quan và
không thể thay đổi bởi ý chí con người.
1.2.2. Tính phổ biến
Bất kì nơi đâu trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đề có vô vàn mối liên
hệ đa dạng với những vai trò khác nhau, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển
hóa của các sự vật hiện tượng. Những liên hệ này không chỉ diễn ra giữa các sự vật,
hiện tượng tự nhiên,xã hội, tư duy mà còn giữa mà còn giữa các mặt, yếu tố và quá
trình của các sự vật hiện tượng. Tức là chúng có thể tìm thấy được các mối liên hệ ở
bất kì nơi nào, giữa bất kì sự vật hiện tượng nào ta có thể biết đến.
Ví dụ: Mỗi người đều có mối liên hệ với môi trường, với những người xung
quanh, không loại trừ ai; bên trong con người cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
1.2.3. Tính đa dạng phong phú
Quan điểm biện chứng duy vật không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ
biến mà còn khẳng định tính đa dạng phong phú của mối liên hệ phổ biến. Tính chất
này được thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện tượng khác nhau đều có những mối liên hệ
khác nhau, có những vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Hoặc là
cùng một mối liên hệ nhưng với các điều kiện khác nhau, các giai đoạn vận động phát
triển khác nhau của sự vật, hiện tượng cũng sẽ có tính chất và vai trò khác nhau.
Chẳng hạn, mỗi người khác nhau thì có mối liên hệ với cha, mẹ, anh em, bạn bè
khác nhau. Hoặc cùng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai
đoạn khác nhau có tính chất và biểu hiện khác nhau.
2. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến. 5
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến có
thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực
2.1.Quan điểm toàn diện
Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ
với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về
sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến
diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất
hay về tính quy luật của chúng. Khái niệm:
Quan điểm toàn diện là quan điểm được phản ánh trong phương pháp luận
triết học. Khi các nhìn nhận phải được thể hiện một cách toàn diện. Quan điểm
này mang đến tính đúng đắn trong hoạt động xem xét hay đánh giá một đối tượng
nhất định. Các nhà nghiên cứu chỉ ra tính hợp lý cần thiết trong nhu cầu phản ánh
chính xác và hiệu quả đối tượng. Từ đó mà các đánh giá mới mang đến tính chất
khách quan, hiệu quả. Trên thực tế, quan điểm này giữ nguyên giá trị của nó. Khi
mà những cần thiết trong đánh giá hay phán xét đối tượng.
Quan điểm này thể hiện vai trò của người thực hiện các phân tích trên đối
tượng. Khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc. Chúng ta phải
quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan
đến sự vật. Tức là tất cả những tác động có thể lên chủ thể đang quan tâm. Không
chỉ nhìn nhận với tính chất tiêu cực hay tích cực theo cả xúc. Mà phải là những
tiến hành trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đáng giá chuyên môn. Như vậy các
hướng tác động mới nếu có mới mang đến hiệu quả. Nguồn gốc quan điểm:
Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến của các
hiện tượng, sự vật trên thế giới. Với các tính chất trong tác động và phản ánh kết
quả khác nhau. Bởi phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng
tồn tại sự vật, sự việc. Không có bất cứ sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt, hay
chỉ chịu tác động từ duy nhất một yếu tố. Có khả năng tồn tại cô lập, độc lập với
các sự vật khác. Tính chất trong những ảnh hưởng từ chủ quan và khách quan là 6
rất đa dạng. Nghiên cứu và phân tích cho thấy rằng, nếu muốn đánh giá chủ thể
một cách hiệu quả nhất, cần nhìn nhận vào toàn diện và bày tỏ quan điểm.
Ví dụ về quan điểm toàn diện:
Quan điểm này thể hiện trong tất cả các hoạt động có tác động của phản ánh
quan điểm. Như những ví dụ trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau
phản ánh trong con người họ. Không thể chỉ thực hiện quan sát phiến diện từ những
thể hiện bên ngoài để đánh giá tính cách hay thái độ, năng lực của họ. Cũng không thể
chỉ dựa trên một hành động để phán xét con người và cách sống của họ.
Khi đánh giá, cần có thời gian cho sự quan sát tổng thể. Từ những phản ánh trong
bản chất con người, các mối quan hệ của người này với người khác. Cách cư xử cũng
như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những nhìn nhận và đánh giá trên từng khía
cạnh và kết hợp với nhau sẽ cho ra những quan điểm toàn diện. Từ đó mà cách nhìn
nhận một người được thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ ràng. Nó không phải là
những phù phiếm của nhận định. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét. Nội dung :
Khi chúng ta phân tích bất cứ một đối tượng nào, việc thực hiện xác định tiêu
chí là cần thiết. Trong xác định những mục tiêu cần xác định trên đối tượng. Mục tiêu
đặt ra càng nhiều thì các tính chất cần đánh giá càng lớn. Từ đó mà người tiến hành có
những hiểu biết đối với bản chất của đối tượng. Khi nhìn nhận trên khía cạnh nào, họ
cũng có thể cho ra những đánh giá. Tính chất toàn diện được phản ánh.
Chúng ta cần vận dụng lý thuyết một cách hệ thống, khi thực hiện trên các đối
tượng khác nhau. Tùy thuộc vào đối tượng và tính chất của nó mà cách tiếp cận trên
những phương diện cụ thể. Cũng như sự áp dụng linh hoạt, sáng tạo và không dập
khuôn. Phải biết điều chỉnh các mức độ và yếu tố tác động hợp lý để tìm kiếm hiệu quả
tốt nhất. Tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, những bộ phận nào
với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác ra sao. Thực hiện các phân tích để hiểu
rõ về cơ chế hay những mối liên hệ giữa những kết quả phản ánh. Từ đó có thể phát
hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố. 7
Mặt khác khi nhìn nhận toàn diện, phải xem xét cả mối quan hệ của sự vật
với các yếu tố xung quanh. Trong tính chất tác động hay ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các yếu tố. Điều này cũng làm cho hướng tiếp cận được thể hiện hiệu quả
hơn khi đánh giá toàn diện các phản ánh từ sự vật. Xem xét sự vật ấy trong tính
mở của nó, trong mối quan hệ với các hệ thống khác. Hay trong mối quan hệ với
các yếu tố tạo thành môi trường vận động, phát triển của nó… Tạo ra sự toàn
diện từ nhìn nhận bên trong đến các tác động bên ngoài. Như vậy.
Trong hoạt động nhận thức, thực tiễn cần thiết thực hiện các nhận thức
toàn diện. Vừa mang đến những hiểu biết rõ bản chất của đối tượng. Vừa hạn chế
được cái nhìn hay tác động phiến diện có thể gây ra trên sự vật. Sự nhìn nhận này
khiến cho hiệu quả trong công tác đánh giá hay nhận thức không mang đến hiệu
quả. Đôi khi còn mang đến cái nhìn sai lệch và tiêu cực. Cần thiết thực hiện việc
quan sát và tìm hiểu tổng thể trong phản ánh của đối tượng. Mang đến những
hình dung và xâu chuỗi cho các đặc tính tồn tại bên trong sản phẩm.
Cũng như thực hiện với quan sát các mối quan hệ hay tác động bên ngoài
của nó qua lại với những nhân tố khác. Việc thực hiện nhìn nhận và đưa ra quan
điểm hiệu quả giúp cho các yêu cầu trong mục tiêu phân tích được phản ánh.
Theo quan điểm toàn diện, con người cần nhận thức sự vật qua mối quan
hệ qua lại. Chỉ có như vậy mới mang đến những phản ánh cho hiểu biết về sự vật.
Tính nhiều chiều và phân tích càng cụ thể, có thể mang đến những nhìn nhận đầy
đủ và hiệu quả nhất. Việc am hiểu về đối tượng mới mang đến các tính toán và
tác động hiệu quả lên đối tượng đó.
Yêu cầu của quan điểm toàn diện:
Mối quan hệ này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này
với sự vật khác. Giữa mối liên hệ trực tiếp với gián tiếp. Cái nhìn phiến diện
không mang đến hiệu quả cho công tác thực hiện. Ngược lại còn có thể tạo ra
những nhận định hay quan điểm lệch lạc. Cũng như mang đến các quyết định
không đúng đắn cho mục tiêu của thực hiện phản ánh quan điểm.
Đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng mối liên hệ. Các nhìn
nhận trên các khía cạnh khác nhau phản ánh những đặc trưng riêng biệt. 8
Nó làm nên tính đa dạng của chủ thể trong các thể hiện trên thực tế. Do đó mà
việc quan tâm và phân tích từng yếu tố cũng được thể hiện trên cơ sở của nó. Cụ thể
hơn đó là các mối quan hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối
liên hệ về bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự việc.
Đòi hỏi con người nắm bắt được khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương
lai. Những nhìn nhận mang đến phản ánh như thế nào cho mức độ phù hợp hay cơ sở
phát triển trong tương lai. Hoặc những yếu tố biến động cũng có thể được đánh giá để
mang đến nhận định cần thiết. Nó giúp cho việc thực hiện các hoạt động tác động trên
sự vật được tiến hành hiệu quả. Đáp ứng các mong muốn của chủ thể tiến hành.
2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể
2.2.1. Quan điểm lịch sử cụ thể là gì?
Đối với khái niệm quan điểm lịch sử cụ thể là gì, có thể hiểu, Quan điểm lịch sử
cụ thể là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc
chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách quan đến chủ quan có liên quan đến sự vật.
Trong đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ
sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại,
vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác
nhau. Điều kiện không gian và thời gian này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất, đặc điểm của sự vật đó.
2.2.2. Nội dung của quan điểm lịch sử cụ thể:
– Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành
quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều tồn tại, vận động và
phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định.
Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc
điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện về 9
không gian và thời gian khác nhau thì sẽ khiến tính chất, đặc điểm của nó khác
nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn tính chất của sự vật đó.
– Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể:
Thứ nhất: Khi phân tích sự vật, hiện tượng thì phải đặt nó trong bối cảnh
không gian và thời gian cụ thể của nó, phân tích xem những điều kiện không gian
ấy có tác động ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần
phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Nhờ vậy
mới đánh giá đúng được giá trị và hạn chế của lý luận đó.
Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều
kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả của sự vận dụng đó trong thực tiễn.
Ngoài giải đáp cho Quý khách về sự hình thành và phát triển của Đảng.
Thì với nội dung tiếp theo của bài viết, Luật Hoàng Phi sẽ tiếp tục cung cấp thêm
cho Quý khách các nội dung khác liên quan đến Ví dụ về quan điểm lịch sử cụ thể.
2.2.3. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử cụ thể yêu cầu phải nghiên cứu sự vật, hiện
tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết
phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử cụ thể.
Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật,
hiện tượng, sẽ diễn ra sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát
triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó.
Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng thông
qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. 10
Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo
trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này
là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng
của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Thứ hai: Nguyên tắc lịch sử cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính
phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất.
Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi
diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau,
mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự
vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định.
Như vậy, chỉ khi tìm ra được mối liên hệ giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên
lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng thì mới có thể giải thích được
các đặc trưng về chất lượng và số lượng đặc thù của nó, bản chất thật sự của sự vật đó.
Thứ tư: Nguyên tắc lịch sử cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng
trong các mối liên hệ cụ thể của chúng.
Thứ năm: Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử cụ thể về bản
chất chính là nhận thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, không
gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng;
Đồng thời tránh khuynh hướng giáo điều, trừu tượng, không cụ thể. Mặt khác,
cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện
tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi.
2.2.4. Lấy ví dụ về quan điểm lịch sử cụ thể:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình
thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận
động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau.
Điều kiện không gian và thời gian này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất, đặc điểm của sự vật đó. 11
Cùng một sự vật nhưng nếu xem xét về tồn tại trong những điều kiện khác
nhau thì sẽ đem lại tính chất, đặc điểm khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi
hoàn toàn bản chất ban đầu của sự vật.
Theo triết học Mác Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử
của thế giới khách quan trong quá trình lịch sử cụ thể của sự phát sinh, phát triển,
chuyển hóa của sự vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử cụ thể của sự phát sinh
và các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều bắt đầu từ quá trình hình thành, phát triển và
suy vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự
thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau
trong không gian và thời gian khác nhau.
Ví dụ, khi chúng ta phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần
vận dụng lý thuyết một cách hệ thống, tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ
những yếu tố, những bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác
nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi
yếu tố (thuộc tính “trời”).
Mặt khác, chúng ta cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó,
tức là xem xét nó trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo
thành môi trường vận động, phát triển của nó…
Như vậy, trong hoạt động nhận thức, thực tiễn chúng ta cần phải xem xét
sự vật trên nhiều mặt và mối quan hệ của nó. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh
được hoặc có thể hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều
trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn,
nhờ đó tạo ra được khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong
thực tế và xử lý một cách chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan
hệ và tình huống xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức
là: khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm
chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ thể; tránh chiết trung, ngụy biện. 12
Tổng kết lại :Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật
và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ
thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm
khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều
kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hoá học bao giờ cũng có
hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định
luật sẽkhông còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học
bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .
3. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN LÝ PHỔ BIẾN VỀ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI VIỆT NAM TOÀN DIỆN
3.1. Quan điểm phát triển con người Việt Nam toàn diện
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm nên chiến
thắng vang dội trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và chống lại thiên tai khắc
nghiệt, ông cha ta rất quan tâm, chú trọng đến việc tuyên truyền, giáo dục, xây dựng
con người Việt Nam có lòng yêu nước, có nghĩa khí, có tình, có niềm tin. Chủ tịch Hồ
Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới, Người đã làm rạng danh dân tộc ta, nhân dân ta và non sông,
đất nước ta, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định đến sự thành công của cách
mạng. Người nhấn mạnh: “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ
gần đến xa, đều thế cả” . Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng,
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ phải hướng đến con
người, bảo đảm cho con người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và
được sống trong hòa bình, tình hữu nghị, sự yêu thương và niềm hạnh phúc. Để đạt
được mục tiêu đó, chúng ta phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Người khẳng
định: đó là những “con người có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa, có ý thức làm
chủ Nhà nước thấm nhuần sâu sắc tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng mình
vì mọi người, mọi người vì mình”, “chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà”, “biết tự
mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ, đùn đẩy công việc”; đồng thời,
phải biết “thắng được chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ
luật và những tính xấu khác”, bởi nó là “kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội”. 13
Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa thật thấm thía sâu sắc, vẫn giữ nguyên giá trị lý luận,
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, soi chiếu vào mọi chủ trương, hành động của
Đảng, Nhà nước ta, đề ra những quyết sách đúng, trúng, khơi dậy mạnh mẽ
nguồn lực con người để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thực hiện
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Kế thừa và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm, tư tưởng về con người
và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã khẳng định: Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện là vấn đề trung tâm của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là sức mạnh nội sinh của dân tộc. Chúng ta
kiên định đi theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội xét đến cùng là
vì con người, hướng đến con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng
định: “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn
hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”.
Tiếp nối quan điểm, tư tưởng đó, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014,
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước tiếp tục khẳng định việc:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định. Mặc dù đất nước đạt được nhiều thành
tựu to lớn và chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế, uy tín như ngày nay, nhưng vẫn
còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Đó là tình trạng tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực vẫn còn xảy ra ở một số nơi, chưa được ngăn chặn kịp thời, gây bức
xúc trong nhân dân; cuộc sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là sau đại
dịch lại càng khó khăn hơn, trình độ, năng lực, phẩm chất, uy tín của một số cán
bộ, đảng viên các cấp chưa ngang tầm với nhiệm vụ… Thực tế đó, đòi hỏi chúng
ta phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là xây dựng con người Việt Nam mới phát triển 14
toàn diện về đức, trí, thể, mỹ để từng bước đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào
thực tiễn cuộc sống, phát triển đất nước. ta ngày càng phồn vinh, cường thịnh, nhân
dân ta ngày càng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đứng ngang hàng với các nước lớn trên thế giới.
3.2. Giải pháp về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ trong
hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ
một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các
mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng
giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết.
Nhờ đó Đảng đã đưa ra những giải pháp sau: •
Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên,
nhân dân về vị trí, vai trò của con người trong sự nghiệp đổi mới và phát triển bền
vững đất nước. Cổ vũ tinh thần yêu nước, thương người, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. •
Đổi mới công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị, khắc phục giáo điều, máy
móc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tôn trọng đối thoại, phản biện xã hội, tăng tính
thuyết phục từ kết quả đổi mới đất nước, tạo sự nhất trí trong Đảng, đồng thuận xã hội
về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, xây dựng thế giới quan khoa học. •
Tiếp tục rà soát, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý giải
phóng mọi tiềm năng xã hội chăm lo, phát triển con người. Đổi mới cơ chế và phương
pháp giáo dục nhân cách, tư tưởng, lý luận chính trị, đạo đức cách mạng phù hợp với
từng đối tượng, ngay từ cấp học mầm non. Khẩn trương đúc kết và sớm ban hành hệ
giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế. Xây dựng lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, tuân
thủ pháp luật, bảo vệ môi trường, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, tương thân,
tương ái, quan tâm giúp đỡ người khác, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn. 15 •
Phổ cập rộng rãi các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chương trình giáo
dục văn hóa, nghệ thuật truyền thống và hiện đại nhằm nâng cao năng lực cảm
thụ thẩm mỹ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân văn, tạo bản lĩnh và sức đề
kháng giúp người dân chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, bảo vệ truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Giáo dục thể chất, đưa phong trào “Toàn dân rèn
luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” lan tỏa sâu rộng trong cuộc sống. •
Phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi người, mỗi chủ thể văn hóa, phối
hợp và có giải pháp đồng bộ đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, nội
dung trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng con người. •
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các khuynh hướng sáng tác phản
tiến bộ, nhân văn, tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hành vi tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân. •
Tập trung nghiên cứu làm rõ những mặt hạn chế của con người Việt Nam,
có giải pháp khắc phục. Từng bước khắc phục mâu thuẫn trong nhận thức, lối
sống giữa các thế hệ người Việt Nam, tạo sự kết nối, đồng thuận cao trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.3. Những thành tựu đạt được về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện
Từ khi Nghị quyết 33 ra đời, Đảng ta đã ban hành một số văn bản góp
phần cụ thể hóa chủ trương xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và các tầng lớp xã hội đã
chủ động hơn trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng
thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, nhân văn, lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Các cơ quan Trung ương và địa phương đã khẩn trương triển khai tuyên
truyền, ban hành các văn bản chỉ đạo, quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ,
công sức xây dựng con người. Nhận thức về quan điểm, nhiệm vụ xây dựng con 16