Những chiến thắng lịch sử của nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và dấu ấn của Người ở trong đó | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Những chiến thắng lịch sử của nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và dấu ấn của Người ở trong đó | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*******************
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(Mã học phần SSH1151)
ĐỀ TÀI:
NHỮNG CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH VÀ DẤU ẤN CỦA NGƯỜI TRONG
NHỮNG THẮNG LỢI ĐÓ
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Liễu Bảo Bảo
Đỗ Trung Kiên
Vũ Đức Tài
Đỗ Minh Phúc
136900
20224929
20224869
20225082
20225064
Giảng viên hướng dẫn: Th.s. Nguyễn Thị Thu Hà
Hà Nội, tháng 12 năm 2022
1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...............................................................3
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................3
2. Tổng quan đề tài..............................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu.......................................................................3
4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................4
6. Đóng góp của đề tài..........................................................................4
7. Kết cấu của đề tài.............................................................................4
B. NỘI DUNG...........................................................5
I. Khái quát về thời đại Hồ Chí Minh......................................................5
1. Hành trình từ một con người đến cả một thời đại mới................5
2. Những đổi mới trong thời đại.........................................................6
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam........................................8
II. Những chiến thắng lịch sử của nhân dân ta trong thời đại Hồ
Chí Minh.................................................................................................8
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945...................................................8
2. Chiến thắng Điện Biên Phủ...........................................................13
3. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...............................19
III. Những dấu ấn của Hồ Chí Minh trong những thắng lợi lịch sử
của dân tộc ta........................................................................................24
1. Hồ Chí Minh với công cuộc khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà..........................................................................................24
2. Hồ Chí Minh với chiến thắng Điện Biên Phủ..............................26
3. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng miền Nam.....................30
C. Kết luận...............................................................34
D. Tài liệu tham khảo.............................................34
2
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm đô hộ, hàng trăm năm bị
xâm lược, nhưng nhân dân ta không bao giờ khuất phục không bao giờ chịu đầu
hàng trước kẻ địch, cho bao nhiêu năm nữa thì nhân dân Việt Nam ta vẫn một
lòng gìn giữ truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc. Vì thế những chiến thắng
mang tính lịch sử ý nghĩa rất to lớn với nhân dân ta, nhằm khích lệ cổ tinh
thần đấu tranh của nhân dân, khẳng định lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc.
Đặc biệt trong đó người có công to lớn nhất giúp đất nước ta có được độc lập tự do
đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã tìm ra con đường cứu nước, dẫn lối chỉ
đường lãnh đạo cách mạng dẫn đến chiến thắng. Nên đề tài này nhằm ca ngợi
truyền thống yêu nước của dân tộc và công lao to lớn của Bác.
2. Tổng quan đề tài
Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển có được nhiều thành công trong
nền kinh tế có được nhiều bạn bè trên đấu trường quốc tế, lời nói của đất nước ngày
càng sức nặng, được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, thể nói đất nước
đang vô cùng thành công trong công cuộc xây dựng đất nước, nhưng để có đất nước
ta có những chiến thắng, thành công như ngày hôm nay thì những chiến thắng trong
quá khứ đã quyết định rất nhiều. Đất nước ta đã nhiều lần lâm vào chiến tranh gây
ra tổn thất vô cùng nặng nề, và mỗi lần như vậy nhân dân ta lại cùng nhau chung tay
dựng xây đất nước, dân ta hiểu rằng để được độc lập tự do đã rất nhiều
người hi sinh, đã cống hiến cả cuộc đời cho cách mạng của những thế hệ đi trước.
Nên việc xây dựng đất nước được coi như công việc của thế hệ hiện tại thế hệ
sau liệu được thành công hay không thì mọi người đều phải nỗ lực để thể
đền đáp công ơn của thế hệ đi trước.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp chúng ta hiểu được các giá trị lịch sử, công lao to lớn của thế hệ
đi trước đặc biệt chủ tịch Hồ Chí Minh, để chúng ta có một cuộc sống ấm no
hạnh phúc như vậy biết bao người đã đổ sương máu, hi sinh thân mình để cho
tương lai của con cháu mai sau. Như Bác đã nói “Không gì quý hơn độc lập tự do”,
thế cha ông chúng ta đã cố gắng hết sức giành được độc lập cho dân tộc ta,
nghĩa vụ của thế hệ chúng ta phải cố gắng hết mình học tập tốt lao động tốt
một công dân có ích cho đất nước, để góp phần xây dựng đất nước, giúp đất nước ta
đang trên đà phát triển ngày càng phát triển hơn. Việc thế hệ sau hiểu được công lao
biết ơn thế hệ trước cùng ý nghĩa bởi như vậy mới nối tiếp duy trì
truyền thống yêu nước xây dựng đất nước bao đời nay của thế hệ cha ông, không
nhất thiết cứ phải đánh đuổi giặc mới là yêu nước, thời đại này chúng ta cần có một
3
vốn kiến thức sâu rộng để xây dựng đất nước, nên lòngu nước cũng thể thể
hiện ở việc xây dựng đất nước.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng đề tài hướng đến những chiến thắng lịch sử của nhân dân
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh cùng với đó là những dấu ấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã để lại trong những chiến thắng lịch sử của dân tộc đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu luận: thực hiện nghiên cứu luận của đề
tài nhờ 2 phương pháp cơ bản:
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa các nhận định độc lập
Phương pháp lịch sử
Phương pháp logic
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: thực hiện nghiên cứu thực tiễn nhờ
các phương pháp sau được kết hợp:
Phương pháp điều tra
Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp chuyên gia
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã đóng góp một phần nhỏ cho nội dung về chiến thắng lịch sử của
dân tộc ta, giúp chủ đề về lịch sử hào hùng của dân tộc ta thêm phần chi tiết đa
dạng, lịch sử trong suốt 4000 năm của đất nước Việt Nam ta là vô cùng đáng tự hào,
vì thế trong thế hệ chúng ta hiện nay cần có được những những bài viết, tiểu luận để
có thể hiểu sâu, cảm thấy thú vị hơn khi nghiên cứu về lịch sử của dân tộc ta. Lịch
sử ta những nét đẹp riêngkhông dân tộc nào trên thế giới có, những nét đẹp
đó có điểm chung đều là tinh thần yêu nước mãnh liệt của dân tộc ta, luôn sẵn sàng
hi sinh vì tổ quốc mà không nhiều quốc gia trên thế giới có được điều đó.
7. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận gồm phần mở đầu, phần nội dung được chia làm 3 phần
phần kết luận chung, trong đó:
Phần 1: Tổng quan về thời đại Hồ Chí Minh.
Phần 2: Những chiến thắng lịch sử của nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ
Chí Minh.
Phần 3: Những dấu ấn Hồ Chí Minh đã để lại trong những chiến thắng
lịch sử trên.
4
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về thời đại Hồ Chí Minh
1. Hành trình từ một con người đến cả một thời đại mới
Kể từ thời dựng nước của ông cha ta ngày xưa, dân tộc Việt Nam đã
truyền thống kết nối cộng đồng, tình nghĩa đồng bào sâu nặng, ý chí sâu sắc
về chủ quyền quốc gia, quyền làm chủ đất nước, luôn khát vọng tự do, có ý chí độc
lập và không bao giờ khuất phục trước sự xâm lược của kẻ thù. Sau bao lần bị xâm
lược nhưng vẫn không bao giờ chịu cảnh bị đàn áp, sẵn sàng hy sinh bảo vệ quê
hương của mình. Và cho dù tình huống nước ta có tồi tệ đến mức nào thì cũng luôn
sẽ sinh ra một nhóm người nổi bật. Trong số đó Nguyễn Tất Thành cũng người
được sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta khó khăn như vậy. Nguyễn Tất Thành đã
mang đến một thời đại, một thời đại mang tên ông:” Thời đại Hồ Chí Minh”.
Người trai chí lớn Nguyễn Tất Thành mang trong mình long yêu nước to lớn,
sự nhiệt huyết niềm tin vào tương lai đất nước sẽ độc lập. Anh đã đi khắp bốn
phương trời tìm đường cứu nước, cứu dân. Sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc bắt đầu từ đây. Hành trang của Nguyễn Tất Thành
truyền thống lịch sử mấy ngàn năm dựng nước giữ nước đã hun đúc thành bản
lĩnh dân tộc. Cùng với truyền thống và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, trong
hành trang “người đi tìm hình của nước” còn những khát vọng, hoài bão lớn về
tương lai Tổ quốc và dân tộc là đánh đổ chế độ áp bức bóc lột hà khắc của thực dân,
phong kiến để vươn lên xây dựng một xã hội mà con người được sống, được tự do,
bình đẳng, hạnh phúc văn minh. Nguyễn Ái Quốc đã tìm được cái mình
mong đợi - Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa. Người đã tìm ra
con đường riêng cho cách mạng Việt Nam: Cách mạng giải phóng dân tộc phát
triển đất nướcđộc lập, tự do. Sau khi đọc Luận cương Lênin, Người đã thốt lên:
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Một học thuyết cách mạng trên cơ sở thực tiễn được truyền bá vào Việt Nam
làm dấy lên một cao trào dân tộc và dân chủ theo đường lối cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã ra đời trở thành một tổ chức duy nhất
đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử: Lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân với mục tiêu
giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp. Độc lập, tự do chính tưởng cốt lõi
nhất trong cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy các dân tộc bị nô lệ vùng lên, tự giải
phóng. Đây hội ngàn năm một để Đảng ta lãnh đạo tổ chức toàn dân
đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lại độc lập, tự do.
Giữa tháng 8-1945, thời cách mạng trực tiếp đã đến vào thời khắc lịch sử
của dân tộc chỉ với hơn 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi
5
nghĩa thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám “một mốc son lịch sử bằng
vàng” của dân tộc Việt Nam.
Sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân “một bước nhảy vọt lịch sử
đại trên con đường tiến lên của dân tộc theo xu thế tiến triển cách mạng thời đại”.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy. Lịch sử đã sang trang, kỷ nguyên độc lập, tự do với chân
lý giản đơn Bác kính yêu đã khẳng định: “Khônggì quý hơn độc lập, tự do”
đã đến với dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 mở ra thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của sự
nghiệp giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây,
kiến lập nền dân chủ, cộng hòa; thời đại dân tộc nỗ lực thoát khỏi đói nghèo, lạc
hậu để đến với mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc trong nghĩa trọn vẹn của nó.
Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng.
Người đã gắn bóhiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta
và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân cho đến hơi thở
cuối cùng. Tên tuổi sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non
sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta. Người đã để lại cho chúng ta
các thế hệ mai sau một gia tài đồ sộ, một di sản hết sức quý báu.
Khó tên gọi nào thích hợp hơn, sát đúng hơn tên gọi “thời đại Hồ Chí
Minh” cho tất cả những biến đổi như trên, có thể nói là đã được bắt đầu từ những gì
có liên quan đến người thanh niên Nguyễn Tất Thành.
8. Những đổi mới trong thời đại
Trong thời kỳ 1930 -1945, thực hiện cuộc cách mạngsản dân quyền đánh
đổ đế quốc phong trào giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, tưởng đổi mới sáng
tạo Hồ Chí Minh đã được thể hiện nổi bật trong những quyết định lịch sử của Hội
nghị Trung ương 8 Khóa I ngày 5/8/1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm
bôn ba khắp thế giới đã về nước. Người đã triệu tập trực tiếp lãnh đạo hội nghị
này. Tại hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đề ra những quyết định ý
nghĩa lịch sử: Tạm thời rút khẩu hiệu phản phong, tập trung cho mục tiêu đánh đổ
đế quốc giành độc lập. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên Việt Nam
độc lập Đồng minh gọi tắt mặt trận Việt Minh: “Thực hiện chủ trương liên hợp
Hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái
không phân biệt tôn giáo xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc
giải phóng và sinh tồn. Việt Minh chủ trương tập hợp hết thảy mọi tinh thần độc lập
chân chính của giống nòi kết thành một khối cách mạng vô địch, đặng đập tan xiềng
xích của Nhật, Pháp, quét sạch mưu xảo trá của một nhóm Việt gian phản
quốc ... Coi quyền lợi của dân tộc cao hơn hết thảy. Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón
tiếp những nhân hay đoàn thể không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia
6
miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do
độc lập’’. Ra chủ trương củng cố lực lượng trang khởi nghĩa Bắc Sơn, xây
dựng và phát triển các Tiểu tổ du kích, các đội tự vệ, cứu quốc quân.
Ở các đơn vị cơ sở trong cả nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 còn đề
ra chủ trương tăng cường xây dựng củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng tổ chức
để đạt mục đích yêu cầu thời kỳ này là: “Làm cho Đảng xứng đáng đội tiên
phong tổ chức của giai cấp sản. Làm cho Đảng thành một Đảng thật quần
chúng, sở vững vàng trong quần chúng. Thực hiện sự thống nhất toàn Đảng.
Thực hiện và tăng cường sự cố kết cách mệnh của các đảng viên. Đoàn kết được hết
thảy các lực lượng phản đế, chỉ huy các lực lượng ấy trong cuộc đấu tranh giải
phóng sắp tới”.
Thông qua việc thực hiện chủ trương này theo “phương châm tổ chức của
Đảng ta lúc này là Rộng rãi, Thực tế và Khoa học”. Năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức Đảng các cấp của đội ngũ cán bộ đảng viên đã được nâng
lên đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1945 toàn
Đảng có 5000 đảng viên, có hơn một nửa còn trong nhà tù của đế quốc Pháp, nhưng
Đảng ta vẫn lãnh đạo cuộc Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Trong giai đoạn 1945-1954, tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh được
thể hiện: Nổi bật trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp khởi
thảo. Tuyên ngôn Độc lậpmột văn kiện lịch sử, một văn bản pháp quan trọng
bậc nhất của nước ta. Bản Tuyên ngôn đã lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén cơ sở pháp
sở thực tiễn của Tuyên ngôn Độc lập. Tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ách
thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Kết thúc vĩnh viễn chế độ phong kiến
Việt Nam. Khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam ý
chí đanh thép của toàn thể nhân dân Việt Nam, quyết đem tất cả tinh thần lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập.
Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh
tiếp tục được thể hiện sâu sắc trong các chủ trương tổ chức cuộc bầu cử tự do đầu
tiên để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, n. Chủ trương phát
động phong trào bình dân học vụ để xóa “giặc dốt” phát động phong trào tăng
gia, tiết kiệm, Hũ gạo cứu đói để chống “giặc đói”. Tuần lễ vàng để động viên toàn
dân xây dựng nền tài chính Quốc gia. Trong chủ trương tiến hành đàm phán với
chính phủ Pháp để Hiệp định bộ ngày 6 tháng 3 Tạm ước 14/09/1946 để
tranh thủ thời gian hòa bình nỗ lực xây dựng lực lượng để chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến chống xâm lược.
tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh được kết tinh trong Đường lối
Kháng chiến trường kỳ, trong đường lối Kiến quốc, trong vừa Kháng chiến vừa
Kiến quốc. Trong chủ trương vừa đẩy mạnh các chiến dịch đánh địch trên các mặt
trận, đến chiến dịch Tây Bắc 1953-1954 thì đồng thời tiến hành mặt trận ngoại giao
tại Giơ-ne-vơ…Với phương châm chiến lược toàn dân Kháng chiến, toàn diện
7
Kháng chiến đã tạo ra sức mạnh tổng hợp của Việt Nam chiến tháng thực dân Pháp
xâm lược.
Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh đã phát triển đến một đỉnh cao mới
được kết tinh trong đường lối xây dựng Chủ nghĩa hội miền Bắc, đường lối
cách mạng dân tộc dân chủmiền Nam Đường lối Kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
9. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên nhân bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng
nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một
con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc
và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm
1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam
đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của Việt Nam đãbản được xác
định. Sự đúng đắn ngay từ đầu của tư tưởng, đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ
Chí Minh vạch ra đã được thực tiễn chứng minh và khẳng định; và chính trong quá
trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát
triển hoàn thiện dần, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam, cách
mạng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Đó thắng lợi của cách mạng tháng Tám việc thành lập Nhà
nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước do dân làm chủ đầu tiên trong lịch sử
dân tộc. Đóthắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đỉnh cao
chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, xây dựng hậu phương lớn cho công cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc
bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. Đó
thắng lợi bước đầu với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi
mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế hiện nay nhân dân ta đang
tiến hành.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp đấu tranh dân tộc nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu
nước; kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử của
8
quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởngtổ chức của một tập thể chiến
cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
II. Những chiến thắng lịch sử của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cách mạng tháng Tám còn gọi là Tổng khởi nghĩa tháng Tám là tên gọi ngành
sử học chính thống tại Việt Nam hiện nay dùng để chỉ việc phong trào Việt Minh tiến
hành khởi nghĩa chống Đế quốc Nhật Bản, buộc Đế quốc Việt Nam bàn giao chính
quyền trung ương các địa phương buộc Bảo Đại phải thoái vị trong tháng
8 năm 1945.
Việc chuyển giao quyền lực được Chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện
bản trong hòa bình, ít đụng độ xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại
Việt, Hòa Hảo,... ở một số địa phương.
Chỉ trong 10 ngày, cơ sở chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn
bộ các tỉnh lỵ trên khắp Việt, hầu hết địa phương trong cả nước.
Kết quả của cuộc cách mạng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
đồng thời cũng chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại suốt 2.000 năm
trong lịch sử Việt Nam. Sau đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử
năm 1946 trên phạm vi cả nước.
a. Bối cảnh lịch sử
Ngoài nước:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh lại phe
Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên . Sau Mỹ nhiều nước nữa tham chiến
(trong đó có Việt Minh, Pathet Lào, Issarak Campuchia tại Đông Dương).
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ
Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức quốc xã, nên đã đồng ý cho quân Nhật tấn công
vào Bắc Kì, chiến tranh kết thúc ở Châu Âu.
Phát xít Nhật đầu hàng nên quân đội Anh và quân tưởng đến Đông Dương để
giải giáp quân Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp âm mưu lăm le dựa vào Đồng
minh nằm khôi phục địa vị thống trị của mình, đế quốc mặc dù không tham gia
trực tiếp nhưng vẫn đứng sau các thế lực này để sẵn sàng can thiệp vào Đông
Dương, còn những phần tử phản động, cố chấp, ngoan cố trong chính quyền tay sai
Nhật thì đang âm mưu thay chủ, để chống lại cách mạng nước ta.
Trong nước:
Thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương khởi xướng lãnh đạo nhiều
cuộc khởi nghĩa với mục tiêu duy nhất chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa
Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơn, Xô – viết Nghệ Tĩnh mặc dù được diễn ra mạnh mẽ
nhưng tất cả đều thất bại. Không chỉ vậy, những binh lính tham gia chiến tranh Thái
Lan thực hiện cuộc Binh biến Đô Lương cũng chấp nhận thất bại.
9
Vào tháng 5 năm 1941, các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt vẫn là Đảng
Cộng sản Đông Dương, do Hồ Chí Minh dẫn đầu, cùng nhau tập hợp quy tụ lại
vào một đỉa điểm gần biên giới Việt – Trung, đã tham gia một tổ chức đứng về phía
Đồng Minh với mục tiêu chính là giành độc lập cho Việt Nam, gọi là Việt Nam Độc
lập Đồng minh, thường được gọi với tên quen thuộc là Việt Minh. Tổ chức này xây
dựng một chiến khu được kiểm soát ở biên giới Việt – Trung.
Bước sang năm 1945, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng trước thời lớn khi lực lượng cách mạng Việt
Nam đã được chuẩn bị chu đáo, sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối, phương pháp
đấu tranh. Chính Đảng cũng nhận thấy, đây chínhthời “ngàn năm một”
chỉ tồn tại trong khoảng nửa tháng.
b. Diễn biến của cách mạng Tháng Tám
Từ tháng 04/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 05/1945, Hồ Chí Minh từ cao Bằng
về Tuyên Quang chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nướcchuẩn bị
Đại hội quốc dân. Ngày 04/06/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Tháng 8/1945, Hội nghị đại
biểu toàn quốc của Đảng họp
tại Tân Trào khẳng định: “Cơ
hội rất tốt cho ta giành độc lập
đã tới” quyết định phát
động toàn dân khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát
xít Nhật tay sai trước khi
quân Đồng minh vào Đông
Dương, đề ra ba nguyên tắc
bảo đảm tổng khởi nghĩa
thắng lợi, đó tập trung,
thống nhất và kịp thời.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân
dân cả nước đồng loạt vùng
dậy, tiến hành tổng khởi
nghĩa, giành chính quyền. Từ
ngày 14 đến 18/08, cuộc tổng
khởi nghĩa nổ ra giành được
thắng lợi nông thôn đồng
bằng Bắc bộ, đại bộ phận
miền Trung, một phần miền
Nam các thị xã: Bắc
Giang, Hải Dương, Tĩnh,
Quảng Nam, Hội An,… Ngày
19/08, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi Nội. Ngày 23/08, khởi nghĩa
10
Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Nguồn: Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam)
thắng lợi Huế Bắc Cạn, Hòa Bình, hải Phòng, Đông, Quảng Bình, Bình
Định, … Ngày 25/08, khởi nghĩa thắng lợi Sài Gòn Gia Định, Kon Tum, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Tây Ninh, ... Côn Đảo, Đảng bộ nhà Côn Đảo đã lãnh đạo
các chiến cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15
ngày cuối tháng 08/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lọi hoàn toàn, chính
quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 02/09/1945, tại
Quảng trường Ba Đình
(Hà Nội) lịch sử, trước
cuộc mít tinh của gần
một triệu đồng bào, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời
trịnh trọng đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước quốc dân
thế giới: Nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Từ đó, ngày 02/09
ngày Quốc Khánh của
nước ta.
c. Nguyên nhân
thắng lợi
Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành
công vang dội nhanh
chóng do nhiều nguyên
nhân, trong đó nguyên
nhân quan trọng nhất,
ý nghĩa quyết định đó chính sự lãnh đạo tài tình đúng đắn, sáng suốt, khéo léo,
tỉnh táo của Đảng. Tất cả điều đósự vận dụng và phát triển của chủ nghĩa Mác
Lênin được áp dụng với điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự
chủ và sáng tạo.
Đảng có phương pháp chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt.
nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, khẳng định những quyết định
sáng suốt và đường lối đúng đắn của Đảng
Cách mạng Tháng Tám thành công do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí
quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người
dân mất nước. Nhân dân ta sẵn sàng hi sinh thân mình để phục vụ cho Đảng
Cách Mạng, một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn
tập, quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc.
11
Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ngày 2/9/1945
Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đã biết bao đồng bào, chiến đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh
liệt mục tiêu độc lập dân tộc, qua đó thấy được truyền thống yêu nước quý báu
của dân tộc ta.
Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế những
thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu
tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới
phát triển mạnh.
d. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vô cùng vĩ đại đầu
tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
dân tộc Việt Nam.
Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.
Nhân dân Việt Nam như bước sang một trang mới, không còn phải chịu ách
đô hộ của thực dân, phát xít, từ thân phận lệ trở thành người dân một nước độc
lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến trở thành một nước độc lập, tự do dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam góp
công lớn nên đã trở thành một Đảng cầm quyền.
Đây là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước
thuộc địa châu Á. Đây còn quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải
qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng
đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với xu thế của thời đại hòa bình, dân chủ và tiến bộ hội, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị.
Nó còn khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc
cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ thể thành
công một nước bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế
quốc mà còn thể thành côngngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu
để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
e. Một số bài học kinh nghiệm
Bài học thứ nhất một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin, được tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ
thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp
hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng tổ
chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
12
Bài học thứ hai là vấn đề giànhgiữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo
xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút
được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta
địch, tạo ra thời cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ
vững chính quyền, Đảng Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức
mạnh vật chất tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta
biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và
đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định
chính xác kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện
cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời sức mạnh của
nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng
khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
10. Chiến thắng Điện Biên Phủ
a. Hoàn cảnh lịch sử
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn, thử thách. Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân
Nhật đã lũ lượt kéo vào nước ta.
Từ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào
đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh, theo sau chúng là tay sai thuộc các tổ chức phản
động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh
hội (Việt Cách). Từ tuyến 16 trở vào Nam, quân anh tạo điều kiện cho thực dân
Pháp quay trở lại nhằm thực hiện âm mưu đặt lại ách thống trị tại Đông Dương một
lần nữa.
Đồng thời, lúc này chính quyền Việt Nam còn non trẻ đang đứng trước muôn
vàn những khó khăn cần giải quyết cấp thiết như xây dựng chính quyền cách mạng,
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản, …
Trước tình hình ngàn cân treo sợi tóc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ:
tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng lúc, từ đó chủ trương tạm
thời hòa hoãn, nhân nhượng để tạo thời gian chuẩn bị. Hiệp định bộ (6 3 -
1946) và Tạm ước Việt Pháp (14 - 9 - 1946) lần lượt được kí kết đã đẩy 20 vạn quân
Trung Hoa Dân Quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta cho ta thêm thời gian
hòa bình củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt bước vào
cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp không tránh khỏi.
Tuy nhiên, càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, nhận thấy những
nỗ lực đàm phán với Pháp không thành, khoảng 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946,
13
chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra trong lời kêu gọiLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,
đoạn:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta
lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng
lên!
Bất đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già,
người trẻ không chia
tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ người
Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ
quốc. Ai súng dùng
súng. Ai gươm
dùng gươm, không
gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước…”
Sau lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chiến đầu của nhân dân ta bắt đầu.
f. Cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại xâm lược từ năm 1945 –
1954
Sau lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta đã chiến đấu, thực
hiện theo sự chỉ dẫn của Đảng Nhà nước, chuyển từ thế bị tấn công với nhiều
khó khăn khi mới bước đầu thành lập nước chuyển sang thế chủ động, nắm nhiều
lợi thế trên chiến trường để rồi dẫn đến chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan ý chí
xâm lược nước ta.
Quân ta giành các lợi thế trên chiến trường phía Bắc
Sau lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chiến đầu của nhân dân ta
bắt đầu. Cuộc chiến đấu các đô thị phía Bắctuyến 16 đã tiêu diệt được một bộ
phận sinh lực địch đồng thời giam chân địch trong một thời gian dài giúp quân ta
rút lui khỏi vòng vây của địch, lùi về căn cứ an toàn tạo điều kiện cho cả nước đi
vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Sau khi rút khỏi Nội, các quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn
thể chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 3 - 1947, Chính phủ Pháp cử Bôlae
làm Cao ủy Pháp Đông Dương, thay Đácgiăngliơ mở cuộc tiến công Việt Bắc
nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Khi địch vừa tiến công Việt Bắc, Đảng ta
14
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946
đã có chỉ thị “Phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”. Trên khắp các mặt
trận, quân ta đã anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch. Sau
hơn hai tháng chiến đấu, cuộc chiến kết thúc bằng cuộc rút chạy của quân Pháp khỏi
Việt Bắc với thất bại với kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” buộc phải chuyển
sang “đánh lâu dài”. Còn quân ta bảo toàn được quan đầu não, Bộ đội chủ lực
của ta ngày càng trưởng thành, đồng thời đưa cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp xâm lược chuyển sang giai đoạn mới.
Ngày 13 5 - 1949, với sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch
Rơve đưa Mĩ từng bước can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào chiến tranh ở Đông
Dương. Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6 - 1949, Pháp tăng cường hệ thống
phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông - Tây” (Hải Phòng - Hà Nội
– Hòa Bình – Sơn La). Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến
công Việt Bắc lần hai, mong giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Để đưa cuộc kháng chiến phát triển thêm một bước mới, tháng 6 1950, Đảng
Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt bộ phận sinh lực địch,
khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt
Bắc. Sau hơn một tháng chiến đấu, với các cuộc càn quét đầy lùi quân địch ở Đông
Khê, Thất Khê, Na Sầm chiến dịch kết thúc thắng lợi đưa quân ta giành được thế
chủ động trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới cho cuộc
kháng chiến.
Dựa vào viện trợ của Mĩ, Pháp đề ra kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi, với mong
muốn kết thúc nhanh chiến tranh. Kế hoạch gồm 4 điểm chính: Gấp rút tập trung
quân Âu Phi nhằm xây dựng một lực lượng động chiến lược mạnh; Xây dựng
phòng tuyến boong ke bao quanh trung du và vùng đồng bằng để ngăn chặn chủ lực
kiểm soát quân ta; tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng tạm chiếm;
và đánh phá hậu phương của ta. Để giữ vững quyền chủ động đánh địch trên chiến
trường Bắc Bộ đẩy địch lùi sâu vào thế bị động đối phó, trong khoảng thời gian
từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tục mở ba chiến dịch Trần Hưng
Đạo (chiến dịch Trung du), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch Đường số 18),
chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Nam Ninh) đã phá vỡ mảng bình
định của kế hoạch và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Quân ta tiếp tục giữ vững
thế chủ động khi mở them các chiến dịch Hòa Bình đông – xuân 1951 – 1952, chiến
dịch Tây Bắc thu – đông năm 1952, chiến dịch Thượng Lào xuân – hè năm 1953.
Sau 8 năm quay trở lại Đông Dương, Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến
gặp nhiều tổn thất cả về người lẫn của, còn ta giành được quyền chủ động trên
chiến trường phía Bắc, quân bộ đội ngày càng trưởng thành, nhiều kinh nghiệm
chiến đấu.
Kế hoạch Nava
Lợi dụng tình bất lợi của Pháp trên chiến trường, can thiệp sâu hơn vào
cuộc chiến tranh Đông Dương ép Pháp phải kéo dài mở rộng chiến tranh, tích
cực chuẩn bị thay thế Pháp. Ngày 7 5 1953, được sự thỏa thuận của Mĩ, Chính
phủ Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân đội đề ra kế hoạch quân sự với hi
vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy chiến thắng quyết định để “kết thúc chiến
tranh trong danh dự”. Kế hoạch Nava gồm 2 bước:
15
Bước thứ nhất, trong thuđông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược
ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương, giành
lấy nguồn lực, vật lực; đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân, xây dựng đội quân
động chiến lược mạnh.
Bước thứ hai, từ thu – đông 1954, chuyển lực lượng sang chiến trường Bắc Bộ, thực
hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định buộc ta phải đàm
phán với những điều có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh.
Cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954
Để phá vỡ bước đầu của kế hoạch Nava, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đưa ra nhiệm vụ chính tiêu diệt địch, phương thức chiến lược của ta
trong đông xuân 1953 – 1954 là: “Tập trung lực lượng mở những cuộc tấn công vào
những hướng quan trọng về chiến lược địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một
bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân
tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ”.
Trong đông xuân 1953 1954, quân ta mở một loạt các chiến dịch tiến
công địch ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương.
Ngày 10 12 1953, một bộ phận quân chủ lực của ta tiến công thị Lai
Châu, loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ)
được giải phóng. Nava buộc phải đưa 6 tiểu đoàn động từ đồng bằng Bắc Bộ
tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực
thứ hai của Pháp sau đồng bằng Bắc Bộ.
Đầu tháng 12 1953, liên quân Lào Việt mở rộng tiến công địch Trung
Lào, tiêu diệt 3 tiểu đoàn Âu Phi, giải phóng thị Thà Khẹt, bao vây uy hiếp
Xavannakhét căn cứ Xênô, buộc Pháp phải tăng cường lực lượng cho Xênô, trở
thành nơi tập trung binh lực thứ ba của Pháp.
Cuối tháng 1 – 1954, liên quân Lào – Việt tiến công địch ở Thượng Lào, giải
phóng tỉnh Phongxalì, Nava buộc phải tăng cường quân cho Luông Phabang
Mường Sài, biến đây thành địa điểm tập trung binh lực thứ tư của Pháp.
Đầu tháng 2 - 1954, quân ta tiến công địch Bắc Tây Nguyên, giải phóng
tỉnh Kon Tum, uy hiếu Plâyku. Pháp buộc phải tăng cường lực lượng cho Plâyku và
Plâyku trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của Pháp.
Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 1954 đã làm “phá sản” bước
đầu của kế hoạch Nava, đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân và dân ta mở
ra cuộc tiến công quyết định vào Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, dài 15km, rộng 5km. Ở đó có một
sân bay dã chiến nhỏ đã bị bỏ hoang từ khi phát xít Nhật rời khỏi Đông Dương vào
năm 1945. Xung quanh đồi núi trập trùng, rừng cây bao phủ dày đặc Điện Biên
Phủ, cách thủ đô Nội khoảng 300km theo đường chim bay gần biên giới Việt -
Lào nằm trên trục giao thông lưới lên khắp nền biên giới của Lào, Thái Lan,
Myanmar và Trung Quốc. Theo đánh giá của tướng Nava các nhà quân sự Pháp
16
Mỹ thì Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông
Dương nên đã được chọn làm nơi lập căn cứ.
Ngày 6 12 1953, sau khi họp bàn Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết
định mở chiến dịch Điện Biên Phủ do Đại tướng Nguyên Giáp làm lệnh
chiến dịch, tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo cùng nhiều tiểu đoàn
công binh, thông tin, quân y, … với tổng quân số khoảng 55 000 quân.
Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh
chóng tập kết ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa sẵn
sàng tiến công địch. Trong giai đoạn này đã có không ít những hi sinh tiêu biểu như
anh hùng Vĩnh Diện hi sinh thân mình để cứu khẩu pháo cao xạ 37mm không
rơi xuống vực.
Ngày 25 1 1954, các đơn vị bộ đội Việt Minh đã sẵn sàng nổ súng theo
phương châm tác “chiến đánh nhanh thắng nhanh”. Nhưng sau đêm dài suy nghĩ,
nhận thấy phương án này mang nhiều tính chủ quan không thể đảm bảo tính chắc
thắng, Đại tướng Nguyên Giáp đã quyết định cho lui quân chuyển phương
châm tiêu diệt địch sang “tiến chắc, đánh chắc”. Do đó cần chuẩn bị lại việc tổ
chức, bố trí hỏa lực chiến dịch. Đầu tháng 3 1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã
hoàn tất.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chia làm 3 đợt:
Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17 – 3 – 1954: Đúng 17h ngày 13 – 3 – 1954, đại
đội pháo binh 806 bắn loạt đạn đầu tiên vào trung tâm đồi Him Lam mở màn cho
cuộc tấn công đầu tiên của chiến dịch. Sau hơn 4 tiếng đồng hồ bắn pháo liên tục,
vào 21 giờ lính bộ binh quân ta xung phong tấn công như vũ bão vào cụm cứ điểm
Him Lam, trận chiến diễn ra ác liệt đến 23 giờ 30 phút đêm hôm đó mới kết thúc
với chiến thắng đầu tiên cho quân ta. Tiếp nối chiến thắng, quân ta lần lượt giành
được quyền làm chủ các cứ điểm đồi Độc Lập, Bản Kéo. Kết thúc đợt tấn công thứ
nhất, quân Việt Minh đã tiêu diệt và bắt sống 2000 lính Pháp, phá hủy 25 máy bay,
xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của
tập đoàn cứ điểm
Đợt 2, từ ngày 30 3 đến ngày 26 4 -1954: Quân ta đồng loạt tiến công
phân khu Trung tâm như E1, D1, C1, C2, Ta chiếm được phần lớn các cứ điểm
của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch. Phong trào thi
đua “săn tây bắn tỉa” của bộ đội Việt Minh càng làm cho quân Pháp hoang mang
tuyệt vọng. Nguồn nước bị cắt đứt, điều kiện sống rất tồi tệ, đối với quân Pháp Điện
Biên Phủ đã trở thành địa ngục trần gian, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Sau đợt
này Mĩ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử xuống Điện Biên
Phủ.
Đợt 3, từ ngày 1 5 đến ngày 7 – 51954: quân ta đồng loạt tiến công phân
khu Trung tâm phân khu phía Nam nhằm chiếm được khu trung tâm Mường
Thanh và khu trung tâm Hồng Cúm. Quân ta lần lượt tiêu diệt các cứ điểm đề kháng
còn lại của địch: Chiều 7 5, quân đội Việt Minh được lệnh mở cuộc tổng công
kích vào trung tâm cứ điểm. Đến 17 giờ 30 phút ngày 7 5 1954 đã chiếm được
sở chỉ huy, tướng Đờ Caxtơri cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch đầu hàngbị
17
bắt sống. Lá cờ quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm chỉ huy của quân đội
Pháp.
g. Nguyên nhân
thắng lợi
Một là, Đảng ta,
đứng đầu Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối kháng chiến,
đường lối quân sự độc
lập, đúng đắn, sáng tạo.
Kết hợp chặt chẽ nhiệm
vụ chiến lược chống đế
quốc phong kiến,
vừa kiến quốc xây dựng
chế độ mới. Ngay từ
đầu chống thực dân
Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, dựa vào sức mình chính. Xây dựng lực lượng trang nhânn gồm
ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy;
tiến công quân sự, địch vận nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự đấu
tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Hai là, nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến
miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo tiếng gọi của Đảng Bác Hồ đã phát huy tinh
thần cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây
dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức
của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến,
quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Ba là, các lực lượngtrang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng
chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo
đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy lớn chưa từng có. Chấp hành nghiêm
mệnh lệnh chiến trường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng
cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Bốn là, sự chi viện, cổ ủng hộ của các nước hội chủ nghĩa, nhất
của Trung Quốc, Liên Xô, phong trào đấu tranh hòa bình của nhân dân tiến bộ
trên toàn thế giới, trong đó cả nhân dân Pháp, đặc biệt của các nước trên bán
đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
h. Ý nghĩa lịch sử
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược
Đông-Xuân 1953-1954 chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn
quân toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-
1954). Chiến thắng này góp phần quyết định đập tan hoàn toàn dã tâm xâm lược của
18
thực dân Phápcan thiệp Mỹ, buộc chúng phải Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc
chiến tranh Đông Dương, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, Lào
Cam-pu-chia, góp phần quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc, mở
đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn,
là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt
của ĐảngChủ tịch Hồ Chí Minh; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bản lĩnh trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết
chiến, quyết thắng sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng trang nhân
dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời chiến thắng của tình đoàn
kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước Đông
Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9
năm chống thực dân Pháp can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của
thực dân Pháp trên đất nước ta các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ
phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945; mở ra giai đoạn cách mạng
mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩamiền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ
chiến đấu dướicờ vẻ vang của Đảng, nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của Nhân dân.
11. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
a. Bối cảnh lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
Trong nước
miền Nam, lợi dụng sự thất bại khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc
Mĩ đã nhảy vào hất cẳng Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, nhằm chia cắt lâu dài
nước ta đồng thời biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới cũng như căn
cứ quân sự của Mĩ.
19
miền Bắc, sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã
giành lại được độc lập, tự do. Cùng lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở lại thủ
đô Nội cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hàn gắn vết thương
chiến tranh, bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa hội, nhằm xây dựng miền Bắc
trở thành căn cứ vững mạnh của cả nước. vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn
hướng tới cách mạng miền Nam. Người nói rằng “Một ngày Tổ quốc chưa
thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”.
Thế giới
do trong Chiến tranh thế giới thứ hai ít bị tàn phá nên đã trở thành nước giàu
mạnh nhất, chiếm ưu thế về mọi mặt trong thế giới tư bản.
Quan hệ thế giới thay đổi: Hai
cường quốc từ quan
hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhanh chóng chuyển thành quan hệ
đối đầu giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Trong khi Liên Xô luôn
luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng dân tộc,
đấu tranh vì hoà bình, dân chủ thì ngược lại, Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế
lực phản động chống phá cách mạng thế giới với âm mưu bá chủ thế giới.
Hệ thống hội chủ nghĩa ra đời làm thu hút sự chú ý của thế giớitác động đến
sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó làm cho Mĩ và các nước đồng
minh không thể làm ngơ sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
i. Hành trình tiến đến trận đánh lịch sử
Giai đoạn từ 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng,
chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu âm mưu của đế
quốc Mĩ
Với mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mĩ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ,
hất cẳng Pháp thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.
Chính quyền Mỹ - Diệm thực hiện “tố cộng”, “diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong
trào yêu nước của nhân dân ta.
Trước tình thế khó khăn cho ta, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và
dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, xây dựng chủ
nghĩa hội miền Bắc, biến miền Bắc trở thành căn cứ vững mạnh của cả nước.
Hai cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam nhằm giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc, chỉ trong ba năm
(1958 – 1960), chúng ta đã hoàn thành căn bản công cuộc cải tạohội chủ nghĩa,
bước đầu xây dựng, phát triển mọi mặt, mọi lĩnh vực theo con đường đi lên chủ
nghĩa hội. miền Nam, tuy rằng cuộc kháng chiến vẫn còn nhiều khó khăn
nhưng nhân dân vẫn một lòng tin tưởng vào Đảng, chống áp bức, bảo vệ lực lượng
cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định mục tiêu,
phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược giữa 2 miền, giữa Việt
Nam thế giới, định hướng động viên nhân dân miền Nam nổi dậy đấu tranh,
20
Miền Bắc bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước,
đi lên chủ nghĩa xã hội
nổi bật là phong trào Đồng khởi (1959 – 1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng
từ giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, bước đầu làm thất bại âm mưu của đế quốc
Mĩ.
21
Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững tình thế, đánh
bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ
Nhận thấy tình thế đang xoay chuyển, đế quốc buộc phải thay đổi chiến lược.
Cuối năm 1960, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, là chiến lược dùng
quân nguỵ làm tay sai, công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp
chiến lược, trại tập trung nhằm tách lực lượng cách mạng khỏi nhân dân.
Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam cũng đổi mới, từ khởi nghĩa từng phần
lên chiến tranh cách mạng kết hợp đấu tranh trang đấu tranh chính trị, làm
phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ và tay sai. Ngoài ra, miền
Bắc cũng có những bước tiến mới về kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng, đặc biệt
thực hiện kế hoạch 5 năm lần đầu tiên, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, chi
viện cho miền Nam.
Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Phát động toàn dân
kháng chiến, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ, đồng
thời kháng chiến chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất
Trước nguy chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” phá sản, đế quốc chuyển sang
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, lần này đích thân quân đội lực lượng tham
gia chủ yếu, dùng nguỵ để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại quân
cách mạng trong 25 đến 30 tháng đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền
Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân dân ta đã đánh thắng quân xâm lược ngay từ khi
chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp đó những thắng lợi oanh liệt Núi Thành, Vạn
Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, đánh bại ba cuộc hành quân lớn ở miền Đông
Nam Bộ, sau đó
thắng lợi nở rộ các
chiến trường Tây
Nguyên, miền Tây
khu V, Đường 9,
đồng bằng sông Cửu
Long các mục
tiêu chủ yếu của địch
các thành phố lớn,
đặc biệt phải kể đến
chiến thắng mùa khô
1965 – 1966 và 1966
1967, tạo đà cho
cách mạng Việt Nam
tiến lên.
Hoà chung với không khí kháng chiến, quân dân miền Bắc cũng tích cực đánh trả
cuộc tiến công của của Mĩ bằng không quân và hải quân và cũng giành nhiều thắng
lợi, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của cho miền Nam.
22
Quân đội nhân dân Việt Nam lớn mạnh, trở thành lực lượng vũ trang
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại
Ngày 28/12/1967, Bộ Chính trị thông qua chủ trương: “Chuyển cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân ta miền Nam sang một thời mới, thời tiến công
nổi dậy giành thắng lợi quyết định”, được thực hiện bằng cuộc Tổng tiến công
nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Qua thắng lợi này, ta đã làm đảo lộn cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam của Mĩ – một siêu cường quân sự, kinh tế, làm lung lay tận gốc
ý chí xâm lược của chúng, đồng thời giáng một đòn quyết định vào chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”. Ngoài ra, cuộc Tổng tiến công còn tác động trực tiếp đến đời
sống chính trị nước Mĩ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược
trong nhân dân lên cao chưa từng thấy, kết quả làm cho tổng thống Giônxơn
buộc phải tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc từ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm
phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc
ta bước vào giai đoạn mới.
Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh,
kháng chiến chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đồng thời
kháng chiến chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai
Sau 2 chiến lược hoàn toàn bị phá sản, đế quốc Mĩ tiếp tục thi hành chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh”, rút dần quân đồng minh đồng thời tăng cường lực
lượng quân đội Sài Gòn, “dùng người Việt đánh người Việt”, từng bước mở rộng
chiến tranh sang Campuchia, Lào nhằm thực hiện chiến tranh huỷ diệt và giành dân,
bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai mặt trận
phía Bắc và Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương được triệu tập nhằm
đoàn kết chiến đấu, chống lại kẻ thù chung, kết quả giành về nhiều thắng lợi, đập
tan nhiều cuộc hành quân, buộc Mĩ phải “Mĩ hoá” trở lại cuộc chiến tranh.
Trong khi công cuộc kháng chiến đang diễn ra sôi nổi khắp cả nước thì Chủ tịch Hồ
Chí Minh đột ngột qua đời vào ngày 2/9/1969. Đây một tổn thất cùng to lớn
của dân tộc. Tuy nhiên, địch vẫn còn đó, nhân dân cả nước tiếp tục thực hiện theo
Di chúc của Bác, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Trong khi đó, tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhưng không
thể đánh bại được ý chí của nhân dân ta. Quân ta đã đánh bại cuộc tập kích bằng
máy bay B52 của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, làm đảo lộn cục
diện chiến trường, buộc Mĩ phải ngồi vào bàn đàm phán và tuyên bố ngừng các hoạt
động chống phá miền Bắc (15/1/1973), đồng thời buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Theo đó, Mĩ phải rút hết quân ra
khỏi Việt Nam, đồng thời phải chấm dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Mĩ đối
với Việt Nam. Điều này khiến cho so sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo
điều kiện để ta giành được thắng lợi cuối cùng.
j. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Bối cảnh
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình Việt Nam được kết,
Mỹ buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Song, chúng không từ bỏ âm
23
mưu xâm lược Việt Nam, mà chúng tiếp tục viện trợ, tạo điều kiện cho chính quyền
Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari. Tuy vậy, sau đó đế quốc Mĩ lún sâu vào một cuộc
khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế suy thoái, nạn lạm phát và thất nghiệp tăng, xã hội
rối loạn, nội bộ chính quyền các đảng phải mâu thuẫn sâu sắc. Điều đó làm cho
viện trợ quân sự của cho quân đội Sài Gòn bị cắt giảm dần, khiến chúng gặp
nhiều khó khăn chồng chất không thể khắc phục được.
Tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định
nhiệm vụ cách mạng miền Nam là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trước mắt phải đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và
ngoại giao, đồng thời chuẩn bị khả năng tiến lên phản công nhằm giành thắng lợi
hoàn toàn. Đặc biệt nhấn mạnh: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành
thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng con đường bạo lực, do đó phải nắm
vững chiến lược tiến công.
Từ năm 1973 đến cuối năm 1974, quân dân ta về bản đã sẵn sàng cho cuộc
tổng khởi nghĩa giải phóng cuối cùng, từ lực lượng trang, vị trí chiến lược đến
lương thực, vũ khí, nhiên liệu, trang bị cần thiết.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tháng
10/1974 và tháng 1/1975, quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm
1975 – 1976, và dự kiến sẽ tiến hành ngay nếu thời cơ đến sớm.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Mở đầu chiến dịch cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ tại Buôn Ma Thuột
(11/3/1975). Bị choáng váng sau khi thất bại trong việc chiếm lại Buôn Ma
Thuột, 3 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu Bộ Tổng tham mưu nguỵ đã hốt hoảng
tháo chạy khỏi Plâyku, Kon Tum. Đến 24/3/1975, vùng chiến lược Tây Nguyên đã
được giải phóng.
Trong lúc đó, quân và dân miền Trung cũng đã phối hợp tiến công, nổi dậy ở nhiều
nơi, lần lượt giải phóng các tỉnh Quảng Trị, Tam Quảng Ngãi, Thừa Thiên-
Huế vào ngày 19/3, 24/3 và 26/3. Tiếp đó quân ta ào ạt tiến vào trung tâm thành phố
Đà Nẵng và giành thắng lợi rực rỡ sau 33 giờ chiến đấu, giải phóng Đà Nẵng.
Nhận thấy thời đến thuận lợi nhanh chóng, ngày 31/3, Bộ Chính trị đã họp
nhận định: Cuộc Tổng tiến công chiến lược đã giành được thắng lợi to lớn, thời
chiến lược tiến hành tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã hoàn toàn chín
muồi. Cần quyết tâm lớn hoàn thành tổng khởi nghĩa trong tháng 4/1975, quyết
định tiến hành chiến dịch giải phóng Sài Gòn, lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trên đường hành quân tiến về Sài Gòn trong tháng 4/1975, các binh đoàn chủ lực
đã đánh địch, giải phóng các tỉnh thành trên đường hành quân. Ngày 26/4, chiến
dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Những trận chiến đấu quyết liệt diễn ra trước hếtphía
đông, tập trung nhiều lực lượng tổ chức chống cự rất điên cuồng. Từ khắp các
hướng, năm cánh quân lớn phối hợp với các lực lượng địa phương quần chúng
nhân dân, nhất loạt tấn công địch với sức mạnhbão. Từ ngày 26 đến ngày 28-4,
một bộ phận quan trọng lực lượng địch trên tuyến phòng thủ vòng ngoài bị tiêu diệt.
24
Các binh đoàn chủ lực của quân giải phóng siết chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn.
Ngày 30-4, với sự chiến đấu anh dũng của các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực
lượng biệt động, tự vệ vùng ven và nội đô, cùng với sự nổi dậy đều khắp và kịp thời
của quần chúng, các cánh quân hùng mạnh đã thần tốc thọc sâu, tiến thẳng vào
chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn-Gia Định: Dinh Độc Đập,
Bộ Tổng tham mưu Khu Bộ lệnh các binh chủng của địch, sân bay Tân Sơn
Nhất, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô Tổng nha cảnh sát. Tổng thống ngụy
quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Đúng 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc lập.
Đây thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn-Gia Định hoàn toàn giải phóng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Trên đà chiến thắng, quân dân các tỉnh lân cận
đã đồng loạt nổi dậy, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại.
k. Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến
đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình độc lập tự do của Tổ
quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
- Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu
người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
- Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào nhân dân Campuchia;
đoàn kết quốc tế.
l. Ý nghĩa lịch sử
Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội do Đảng taChủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói
lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta
đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh
liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt
ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước ta;
đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ
nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên CNXH.
Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần
thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc,
hoà bình, dân chủ tiến bộ hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành
công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ
nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
25
III. Những dấu ấn của Hồ Chí Minh trong những thắng lợi lịch sử của dân
tộc ta
1. Hồ Chí Minh với công cuộc khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới
trong lịch sử của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo cao
trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người kêu gọi một số tổ
chức quốc tế, các đảng anh em những hình thức phối hợp đấu tranh nhằm động
viên, giúp đỡ phong trào về vật chất tinh thần. Bên cạnh đó, Người còn thẳng
thắn góp ý phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác, nhắc nhở Đảng phải tìm
cách bảo vệ cán bộ, không để kẻ thù tìm cách bắt giữ hết cán bộ của ta. Người
không chỉ kêu gọi sự giúp đỡ phong trào mà còn ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của
bọn đế quốc, nhờ đó Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ca ngợi cuộc đấu
tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đánh
giá cao công lao to lớn của Người.
Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, ở đó Người học
đầy đủ các môn luận bản của chủ nghĩa Mác-Lênin những phương pháp
học tự nghiên cứu kết hợp với thực tế. Tuy nhiên, do chiến tranh ngày một ác liệt,
Người không thể yên tâm ngồi học mà nóng lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm
1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, vào ngày 28-01-1941, Người trở về Việt Nam
sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó (Cao Bằng)
dưới sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, Người khẳng định:Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc bọn Việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân,
tranh thủ mọi lực lượng
yêu nước chống đế
quốc, giành độc lập cho
dân tộc, chĩa mũi nhọn
vào kẻ thù. Hội nghị
quyết định thành lập
"Việt Nam độc lập đồng
minh", gọi tắt Mặt
trận Việt Minh vào
ngày 19/05/1941. Ngày
22/12/1944, Đội Việt
Nam tuyên truyền giải
phóng quân được thành
lập, tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết thư kêu gọi Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền, Người viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
26
Mặt trận Việt Minh thành lập, ngày 19/5/1941
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta tự giải phóng cho ta”. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến, lật đổ ách thống
trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng
lợi to lớn của dân tộc vừa sự kế thừa truyền thống của cha ông ta trong lịch sử,
vừa sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin sự lãnh đạo tài
tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch
sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả mọi người đều sinh ra
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, quyền được sống, quyền tự do quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Bản tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của các dân tộc nói lên ý chí
của toàn dân quyết đem tinh thần lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần lực lượng, tính mệnh của cải để giữ vững quyền tự do độc lập
ấy”. Bản Tuyên ngôn độc lập một văn kiện lịch sử giá trị to lớn, trong đó độc
lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa hội tưởng chính
trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng năm
1930, nay đã trở thành hiện thực cách mạng đồng thời trở thành chân của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc Việt Nam.
2. Hồ Chí Minh với chiến thắng Điện Biên Phủ
Chiến thắng lịch s Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, trước hết thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự
đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 10/1953, trong buổi họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Tỉn Keo, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên bàn về kế hoạch chiến lược
Đông Xuân 1953-1954, do Bác Hồ chủ trì, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày về
ý đồ táo tợn của tướng Pháp H.Nava tập trung một lực lượng động rất lớn
đồng bằng Bắc Bộ để khiêu chiến, làm tiêu hao chủ lực của ta, tạo điều kiện để
giành quyền chủ động tiến tới giành một thắng lợi quyết định trong vòng 18
tháng.
Bác nghe chăm chú rồi nói: “Địch tập trung quân động để tạo sức mạnh.
Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn.” Bàn
tay Bác mở ra, mỗi ngón trỏ về một hướng. Theo tư tưởng chỉ đạo ấy, ta đã nghiên
cứu kế hoạch Đông Xuân, cho những bộ phận chủ lực của ta tiến về 5 hướng chiến
lược nhằm những nơi hiểm yếu và tương đối yếu của địch, chọn hướng chính là Lai
Châu ở Tây Bắc.
Tháng 1/1954, Bác đã căn dặn thêm Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước ngày
đồng chí ra mặt trận: “Cần nắm chắc nghị quyết của Trung ương và chủ trương của
Bộ Chính trị là: “Đánh chắc thắng.”
27
28
Bác đã tặng cờ “Quyết chiến Quyết thắng” làm giải thưởng luân lưu để khích
lệ mọi người, lập công trong chiến dịch. Tết đến, Bác đã gửi tặng mỗi cán bộ, chiến
sỹ ở mặt trận một chiếc ca rất đẹp có in đậm hai hàng chữ đỏ tươi: “Kiên quyết làm
tròn nhiệm vụ.”
Chiến dịch Điện Biên Phủ một trận quyết chiến chiến lược, một cuộc đọ
sức toàn diện nhất, quyết liệt nhất giữa ta và địch. Thắng, bại của quân dân ta trong
chiến dịch này sẽ ảnh hưởng lớn đối với n tộc ta nhân dân thế giới đang
chiến đấu độc lập, tự do. vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải
có quyết tâm và nỗ lực rất cao.
Trong thư gửi đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12/1953, Bác Hồ viết: “Chiến
dịch này một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự cả về chính
trị, không những đối với trong nước cả đối với quốc tế. vậy toàn dân, toàn
quân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được.”
Đầu tháng 1/1954, trước khi lên đường ra mặt trận, Đại tướng Nguyên
Giáp đến Khuổi Tát chào Bác. Bác hỏi: “Chú ra mặt trận lần này khó khăn
không?” Đại tướng Nguyên Giáp trả lời: “Chỉ khó khăn xa hậu phương nên
khi vấn đề quan trọng cấp thiết thì khó xin ý kiến của Bác Bộ Chính trị.”
Bác nói: “Tổng tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền.”
Khi chia tay, Bác nhắc: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng; chắc thắng mới
đánh, không chắc thắng không đánh.” Những lời dặn dò của Bác là tư tưởng chỉ đạo
giúp Đại tướng Nguyên Giáp căn cứ để xử trí trong quá trình chỉ huy trận
đánh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp theo tư tưởng Bác Hồ - đã gọi điện cho các binh
chủng thông báo chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh thắng nhanh”
sang “đánh chắc, tiến chắc” và các đơn vị tùy điều kiện cụ thể mà sử dụng binh lực
tiêu diệt, tự giải quyết hậu cần…
Cũng vào thời gian trên, trong thư gửi cán bộ và chiến sỹ Mặt trận Điện Biên
Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: các cán bộ chiến sỹ ta “Phải chiến đấu anh
dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh:
Quyết tâm tiêu diệt địch; Quyết tâm giữ vững chính sách; Quyết tâm giành nhiều
thắng lợi”. Quyết tâm chiến lược của Đảng, của Bác Hồ, tiêu diệt toàn bộ quân địch
ở Điện Biên Phủ, đã biến thành ý chí và hành động của toàn quân và dân ta.
Đúng 17 giờ ngày
13/3/1954, pháo binh
quân đội ta bắn dồn dập
vào khu sân bay Mường
Thanh cả 3 cứ điểm
của Trung tâm đề kháng
ở Him Lam, mở đầu cho
chiến dịch Điện Biên
Phủ. Trong quá trình
chuẩn bị tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã đặc biệt chăm lo giáo
dục tinh thần quyết tâm chiến đấu cho bộ đội. Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị bàn
về chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 quyết định mở chiến dịch Điện
Biên Phủ, Bác đã huấn thị cho cán bộ, chiến sỹ tham gia chiến dịch: “Chiến dịch
này là một chiến dịch rất quan trọng. Các chú phải đánh cho thắng. Tất cả các chú,
cán bộ cũng như chiến sỹ đều phải: Quyết tâm chiến đấu, triệt để chấp hành mệnh
lệnh; Bền bỉ dẻo dai, vượt qua mọi gian khổ, khắc phục mọi khó khăn; Tiêu diệt thật
nhiều địch, giành cho được toàn thắng.” Sức mạnh chiến đấu của quân đội được tạo
thành bởi tổng hợp các yếu tố giữa con người khí, giữa các nhân tố chính trị
tinh thần với trình độ tổ chức chỉ huy... trong đó nhân tố chính trị tinh thần, trước
hết là ý chí quyết tâm chiến đấu, đóng vai trò rất to lớn.
Bác phân tích một cách sâu sắc rằng: “Quyết tâm của Trung ương chưa đủ,
còn phải để cho các chú cân nhắc kỹ thấy cái dễ cái khó để truyền cái quyết
tâm đó cho các chú. Trung ương các chú quyết tâm cũng chưa đủ, phải làm
cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sỹ... Quyết tâm đó phải thành một
khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.”
Đồng thời, Bác cũng luôn thể hiện sự quan tâm, động viên, dạy bảo ân cần
đối với cán bộ, chiến sỹ ta từ những vấn đề rộng lớn của chiến tranh và xây dựng vũ
trang nhân dân, đến từng việc làm, cách ứng xử cụ thể trong chiến đấu trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Còn cán bộ, chiến sỹ ta - những người đã trực tiếp tham gia chiến dịch Điện
Biên Phủ cũng những người đã từng được gặp gỡ tiếp xúc cùng Bác cũng
luôn thể hiện những tình cảm chân thành, lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Bác
Hồ muôn vàn kính yêu.Để kịp thời động viên, cổ tiếp thêm sức mạnh cho
quân ta vượt qua khó khăn đánh thắng quân địch Điện Biên Phủ ngay từ trận
mở đầu, ngày 11/3/1954, nghĩatrước khi quân ta nổ súng tiến công trung tâm đề
kháng Him Lam 2 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các chiến sỹ Mặt trận
Điện Biên Phủ.
Người căn dặn: “Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn,
khó khăn, nhưng rất vinh quang… Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi
vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp
tới.”
Và, ngay sau khi quân ta tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam đập tan đợt
phản kích của địch hòng chiếm lại Him Lam, ngày 15/3/1954, Bác Hồ lại gửi điện
khen ngợi, cổ vũcăn dặn toàn thể cán bộchiến sỹ ở Mặt trận Điện Biên Phủ:
“Bác và Trung ương Đảng được báo cáo về hai trận thắng đầu tiên của quân đội ta ở
Điện Biên Phủ. Bác và Trung ương Đảnglời khen các đồng chí. Chiến dịch này
một chiến dịch lịch scủa quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này ý nghĩa
quân schính trị quan trọng. Địch sẽ ra sức đối phó, ta phải cố gắng, chiến đấu
dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan, khinh địch, giành toàn thắng cho chiến dịch này.”
Trong suốt thời gian diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến
7/5/1954) Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự và chủ tọa nhiều cuộc họp của Bộ Chính
30
trị để nhận định, đánh giá tình hình diễn ra trên mặt trận, chỉ đạo sát sao không chỉ
trên chiến trường Điện Biên Phủ mà trên khắp các mặt trận nhằm phục vụ cho thắng
lợi Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn cho chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ từ việc hoạch định đường lối cứu nước chung đến việc chỉ đạo
từng trận đánh, từng chiến dịch. Là lãnh tụ của dân tộc, đồng thời người chỉ huy
tối cao của chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ân cần dạy
bảo cán bộ chiến sỹ ta những vấn đề rộng lớn, nói lên những chân lớn nhất của
thời đại, những quan điểm bản về chiến tranh nhân dân xây dựng lực lượng
trang nhân dân, còn động viên, chỉ bảo cán bộ, chiến sỹ trong từng chiến
dịch, từng trận đánh, từng việc làm và cách cư xử cụ thể. Người đã truyền cho quân
và dân ta sức mạnh phi thường của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” -
một niềm tin sắt đá, một ý chí “quyết chiến thắng” vượt qua mọi khó khăn nguy
hiểm để giành thắng lợi hoàn toàn. Khi quân ta toàn thắng, Bác đã điện khen ngay
quyết định tặng huy hiệu “Chiến sỹ Điện Biên Phủ” cho các đồng chí tham gia
chiến dịch lịch sử này. Trong các bức thư và điện gửi cán bộ và chiến sỹ ở Mặt trận
Điện Biên Phủ, Người xác định rõ: “Điện Biên Phủ một chiến dịch lịch sử của
quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này ý nghĩa quân sự chính trị quan
trọng.” Người rất vui lòng những thắng lợi về tưởng chiến thuật, kỹ thuật,
vì bộ đội ta đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt nhiều địch ngoài mặt trận. Người động
viên bộ đội “Phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững
quyết tâm trong mọi hoàn cảnh.” Và như thường lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ
cũng “chờ tin thắng lợi để khen thưởng.”
Theo dõi Điện Biên Phủ, nắm tin tức từng ngày, từng giờ, Hồ Chí Minh đã
đem tới cho cán bộ chiến sỹ ngoài mặt trận một sức mạnh lớn lao niềm tin
vào thắng lợi, niềm tin bắt nguồn từ chính Ngườilòng tin con người, những cán
bộ chiến sỹ ngoài mặt trận: dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc,
đồng bào vùng địch tạm chiếm…
“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ
anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược sự can
thiệp của đế quốc Mỹ. Đó thắng lợi đại của nhân dân ta, cũng thắng lợi
chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới.” (Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Người tin sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo của Bộ
Chỉ huy Mặt trận. Người có niềm tin tất thắng vì cuộc chiến đấu của chúng ta là một
cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ nhân phẩm con người, vì nền độc lập, tự do,
hoà bình của nhân loại. Phấn khởi trước sự động viên, cổ của Trung ương Đảng
Bác Hồ, ngày 30/3/1954, quân ta bước vào đợt tiến công thứ hai của chiến dịch
Điện Biên Phủ, một đợt tiến công kéo dài ác liệt. Biết bao nhiêu khó khăn, trở
ngại lớn mà quân và dân ta đã gặp phải trong đợt này.
Để khắc phục mọi khó khăn, trở ngại, bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến, Bộ
Chính trị và Bác Hồ kịp thời ra Nghị quyết, chỉ rõ: “Toàn dân, toàn Đảng, và Chính
phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ nhất định làm mọi việc
cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này.”
31
Được sự chỉ đạo sát sao được sự giáo dục, động viên, cổ kịp thời của Trung
ương Đảng Bác Hồ, ngày 7/5/1954, quân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó
khăn, gian khổ sau 56 ngày chiến đấu liên tục đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp
Điện Biên Phủ. cờ
“Quyết chiến Quyết
thắng” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trao tặng cho
quân đội ta tung bay
hiên ngang trên nóc
hầm sở chỉ huy của
quân đội Pháp Điện
Biên Phủ, báo hiệu sự
sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân trên thế
giới. Hết sức phấn khởi
trước thắng lợi đại
của dân tộc ta, ngày
8/5/1954, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết thư khen
ngợi bộ đội, dân công,
thanh niên xung phong
đồng bào Tây Bắc -
những người trực tiếp
làm nên chiến thắng
đại này. Trong thư, Bác
viết: “Quân ta đã giải
phóng Điện Biên Phủ.
Bác Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sỹ, dân công, thanh niên
xung phong đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.
Thắng lợi tuy lớn, nhưng mới bắt đầu. Chúng ta không nên thắng kiêu,
không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc
lập, thống nhất, dân chủ hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng
đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn, Bác
Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sỹ, dân công, thanh niên xung
phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt.”
10 năm sau, tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3/1964), Bác Hồ đã nói: “...
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ
anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược sự can
thiệp của đế quốc Mỹ. Đó thắng lợi đại của nhân dân ta, cũng thắng lợi
chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ
càng làm sáng ngời chân của chủ nghĩa Marx-Lenin trong thời đại ngày nay:
chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của
các dân tộc nhất định thành công...”
Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ - nhân loại tiến bộ đã từng vang
như vậy. Sợi dây bền chặt liên kết Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ
32
Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huy hiệu cho các chiến sĩ lập nhiều chiến công trong
chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
tưởng “Khôngquý hơn độc lập, tự do” - tưởng giải phóng con người, lòng
tin vào con người và một niềm tin tất thắng không có gì phá vỡ nổi.
Hồ Chí Minh linh hồn của chiến dịch Điện Biên Phủ. tưởng “Tướng
quân tại ngoại đánh chắc thắng” hành trang của Tổng lệnh Nguyên
Giáp nơi chiến trường, đem lại một niềm tin-sức mạnh, nguồn cổ lớn lao,
đuốc soi đường đi tới thắng lợi trọn vẹn, vẻ vang. Người không chỉ biết tập trung
mọi nỗ lực để ngăn chặn chiến tranh khi chưa xảy ra cả khi chiến tranh đã
bùng nổ, Người đã tài tình chỉ đạo, động viên, cổ vũ toàn quân và toàn dân ta ra sức
chiến đấu để giành thắng lợi, Người vừa dàn xếp thương lượng vừa tích cực chuẩn
bị kháng chiến.
Và để có một Hội nghị Geneva thắng lợi, Hồ Chí Minh đã cùng với nhân dân
Việt Nam làm nên một Điện Biên Phủ có sức chấn động toàn thế giới.
12. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng miền Nam
Sau khi giành thắng lợi Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở lại
thủ đô Hà Nội và cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa
hội miền Bắc đấu tranh miền Nam, thống nhất nước nhà. Mặc lúc đó
Người đang cùng nhân dân miền Bắc tiếp tục xây dựng đất nước vững mạnh, hàn
gắn vết thương chiến tranh nhưng Bác vẫn luôn hướng tới dải đất phía Nam Tổ
quốc, nơi không mấy may mắn khi vẫn còn phải gồng mình lên chống lại -
một đế quốc thể nói rằng hùng mạnh nhất lúc bấy giờ. Người nói rằng: “Một
ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không
ngon, ngủ không yên”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc diễn ra trong bối cảnh
tương quan so sánh lực lượng chênh lệnh rất lớn giữa hai phía. Trong khi Mỹ là một
quốc gia bản, sức mạnh quân sự kinh tế lớn mạnh nhất thế giới, thì Việt
Nam quốc gia nông nghiệp nghèo nàn, kinh tế lạc hậu. Điều duy nhất chúng
ta có lợi khi bước vào cuộc chiến đó là tính chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Cuộc
kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc
và thống nhất đất nước, nên nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân tiến
bộ các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới. Đó một lợi thế tinh thần
cùng quan trọng, mà kẻ đi xâm lược không bao giờ có được.
Tuy nhiên, sau khi miền Bắc được giải phóng, những di tồn của chế độ cũ,
cùng hậu quả của hàng trăm năm đô hộ, xâm lược của thực dân Pháp tâm
hưởng thụ, ngại khó khăn, gian khổ đã xuất hiện trong một bộ phận thanh niên. Đặc
biệt, trước những tác động của tình hình trong nước thế giới, với âm mưu
hành động ngày càng quyết liệt của đế quốc Mỹ tay sai, cuộc kháng chiến càng
đi vào giai đoạn khó khăn, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhấtthanh niên đã
những diễn biến phức tạp. Một bộ phận thanh niên tưởng bi quan, hoài
nghi, thiếu phấn khởi và tin tưởng ở tiền đề thắng lợi của cách mạng, từ đó dẫn đến
những lệch lạc, khi tả, khi hữu trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng
Nhà nước. tưởng sợ Mỹ, không dám đánh Mỹ đã xuất hiện không chỉ trong
một bộ phận quần chúng nhân dân, mà có cả thanh niên. Tình hình đó đặt ra yêu cầu
33
mới đối với Đảng trong cuộc vận động thanh niên cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong bối cảnh đó, việc giúp thanh niên xác định được tưởng, sống
tưởng, nhận thức được ý nghĩa của tưởng đối với cuộc sống, để vươn lên ngang
tầm yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử, từ đó cụ thể hóa thành hành động cách mạng là một
nhiệm vụ quan trọng. Đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam lúc này, lý tưởng của
thanh niên chính khát vọng được cống hiến tuổi xuân, sức trẻ, sẵn sàng xả thân,
hy sinh sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc, thống nhất nước
nhà, đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Về vấn đề này,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã
cho mình những gì. phải tự hỏi mình đã làm cho nước nhà? Mình phải làm
thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã lợi ích nước nhà hy sinh
phấn đấu chừng nào”, đề cao khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Tất
cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”.
Khi đã xác định được tư tưởng, vấn đề còn lại là sử dụng các hình thức, biện
pháp, khẩu hiệu để khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của thanh niên
cho cuộc kháng chiến. Năm 1965,mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, tạo
ra cục diện cả nước chiến tranh. Với trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, bằng
nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mĩ
trên phạm vi cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Lúc này chống Mĩ, cứu nước
nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước... Tất cả chúng ta
hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”.
Người chỉ rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.
Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không quý hơn độc lập, tự do!”. Lời kêu gọi
“Không quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lay động tới
trái tim, thúc giục, hiệu triệu, đoàn kết toàn dân, toàn quân Việt Nam, trong đó
thanh niên biến lòng yêu nước, căm thù giặc thành những việc làm, hành động cụ
thể.
Năm 1965 cũng là lúc mà Bác nhận thấy rằng sức khoẻ đã ngày càng yếu đi.
Nhưng trước khi từ giã cõi đời, Bác còn có một nguyện vọng cần phải thực hiện, đó
là được đích thân đi vào miền Nam để lãnh đạođộng viên tinh thần kháng chiến
đi đến thắng lợi. Điều đó đã được Người đề cập đến trong bức thư Người gửi
đồng chí Duẩn ngày 10/3/1968. trong bức thư này, Người đã đề ra lịch trình
cụ thể, ràng để thể vào thăm đồng bào miền Nam. Nhưng lúc này, sức khoẻ
của Bác ngày càng suy yếu cuộc chiến giữa 2 đất nước đang diễn ra ác liệt, gay
go, chính vậy, các đồng chí của Bộ Chính trị đã khuyên Bác hoãn lại chuyến đi
này. Mặc không thể đi vào thăm đồng bào miền Nam nhưng Bác vẫn luôn theo
sát từng bước chân của cách mạng miền Nam.
Tự nhận thức được rằng sức khoẻ của mình không còn đảm bảo để thực hiện
chuyến đi vào thăm đồng bào miền Nam, Bác đã bắt đầu viết bản di chúc. Và kể từ
đó, vào các dịp sinh nhật của Bác vào năm 1966, 1967, 1968, 1969, Bác đều dành
thời gian để xem xét và sửa lại bản di chúc này. Trong đó, ở phần , BácVề việc riêng
có nói rằng: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để
34
khỏi lãng phí thì giờ tiền bạc của
nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài của tôi
được đốt đi, tức hoả táng, tro chia
làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành, 1
hộp cho miền Bắc, 1 hộp cho miền
Trung 1 hộp cho miền Nam.
Nhưng sau khi Bác qua đời, các đồng
chí Bộ Chính trị đã xin với Bác
không thực hiện theo mong ước này
của Bác muốn giữ gìn lại thi hài
của Bác để sau này đồng bào cả nước,
đặc biệt đồng bào miền Nam
những người con xa xứ có điều kiện tới
viếng tưởng nhớ tới Người. Bản di
chúc cũng chính những lời căn dặn
tâm huyết cuối cùng của Bác đối với
nhân dân Việt Nam một niềm tin
vào Đảng, đất nước sau này. Khi Bác
viết di chúc thì cũng lúc cuộc chiến
tranh giữa Việt Nam đế quốc
đang diễn ra căng thẳng, nhưng Bác
luôn 1 niềm tin vào cách mạng Việt
Nam. Điều chủ chốt Bác căn dặn lại
xây dựng Đảng, xây dựng đất nước sau
này được cô đọng lại trong 2 câu thơ:
Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Là 1 vị cha già vĩ đại, chủ tịch Hồ Chí Minh rất được người dân, cả trong nước và
quốc tế, yêu mến, nhưng Bác cũng không thể tránh khỏi sinh lão bệnh tử. Vào đúng
ngày quốc khánh của dân tộc, ngày
2/9/1969, Bác đã qua đời ở tuổi 79 sau nhiều ngày ốm nặng. Đây là những ngày đau
thương nhất của nhân dân Việt Nam, như Tố Hữu đã viết:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Và hơn 22.000 bức thư cũng như các dải băng tang đã được gửi tới để chia buồn với
nhân dân Việt Nam. Tang lễ của chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được tổ chức ở
Việt Nam mà còn được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới.
Sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, chúng ta lúc đó vẫn phải đương đầu
kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Để thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân 2 miền đã làm nên thắng lợi, đầu tiên là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên
không”. Với chiến thắng này, đế quốc Mĩ buộc phải kí hiệp định Pa-ri về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở miền Nam. Với hiệp định Pa-ri, đế quốc Mĩ buộc
phải rút hết quân khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, chế độ nguỵ vẫn còn, nên nhân dân 2
35
Bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1969
miền đã đoàn kết đấu tranh “đánh cho Mĩ cút, đánh cho nguỵ nhào” và làm nên
thắng lợi cuộc tổng tiến công xuân 1975.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời hi sinh vì đất nước, vì nền độc
lập tự do cho nhân dân Việt Nam. Kể cả khi đã trở thành chủ tịch nước nhưng
Người dường như không có gì cả. Tài sản của Bác chỉ là chiếc quạt bằng lá cọ, đôi
dép cao su và bộ quần áo kaki… Ngay một người nông dân chân lấm, tay bùn cũng
có mảnh vườn, cái ao, hay chí ít là con gà, con lợn. Và, ngay cả trong cõi riêng tư,
Người cũng là người nghèo nhất. Một người nghèo nhất nước như Bác, nhưng để
lại cho chúng ta một di sản đồ sộ - đó là một đất nước độc lập, toàn vẹn, một ý chí
cách mạng chói ngời.
36
C. Kết luận
Tuy nhiều năm đã trôi qua sau những chiến thắng lịch sử trong thời đại Hồ
Chí Minh vẫn còn vang mãi trong tim của mỗi con người Việt Nam. Sự hy sinh của
bao vị anh hùng , những người lính, những người thể hiện rõ lòng yêu nước, sự kiên
cường, bất khuất, niềm khao khát tự do của nhân dân ta thời bấy giờ. Dù thời đại Hồ
Chí Minh qua đi nhưng Hồ Chí Minh vẫn để lại nhiều bài học quý giá cho chúng ta,
Từ những cống hiến đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
dân tộc, chúng ta tin tưởng rằng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là tài sản
giá của toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta, mãi mãi niềm tự hào, nguồn cổ
to lớn đối với các thế hệ người Việt Nam hôm nay mai sau, ánh sáng soi
đường cho cách mạng Việt Nam đạt được những kỳ tích vẻ vang hơn nữa để đưa
dân tộc đi tới tương lai tươi sáng.
D. Tài liệu tham khảo
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/nhung-cong-hien-cua-chu-tich-ho-chi-
minh-la-tai-san-vo-gia-doi-voi-cach-mang-viet-nam-555041.html
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/boi-canh-quoc-te-va-trong-nuoc-khi-nguyen-
tat-thanh-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc-70314.html
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/349-boi-canh-
lich-su-va-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-cua-ho-chi-minh.html
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-
minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-doi-moi-sang-tao-cua-chu-tich-ho-
chi-minh-trong-thoi-ky-moi-3817
https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Chinh-tri/1012028/thoi-dai-ho-chi
%C2%A0minh
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm
%3Apath
%3A/camaulibrary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/lichsuvhtlnc/dfgff
dtter634
https://baoquangninh.com.vn/thoi-dai-ho-chi-minh-la-thoi-dai-ruc-ro-nhat-
trong-lich-su-dan-toc-viet-nam-2270147.html
https://baophutho.vn/chinh-tri/mot-thoi-dai-mang-ten-ho-chi-minh/172770.htm
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm
%3Apath
%3A/camaulibrary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/lichsuvhtlnc/dfgff
dtter634
37
https://baotanghochiminh.vn/chu-tich-ho-chi-minh-voi-chien-dich-dien-bien-
phu.htm
https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/ngay-nay-nam-xua/ngay-7-5-1954-chien-dich-
dien-bien-phu-gianh-thang-loi-692499
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-
lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/chien-dich-lich-su-
dien-bien-phu-538543.html
https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/ky-niem-68-nam-chien-thang-
dien-bien-phu-7-5-1954-7-5-2022-ban-linh-tri-tue-viet-nam-693702
http://dinhtang.yendinh.thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/2020-4-20/Chao-mung-
dai-thang-30-4-1975--30-4-2020--dau-an-lejtprt.aspx
https://www.qdnd.vn/50nam-tong-tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-
than1968/danh-gia-phan-tich/cuoc-tong-tien-cong-va-noi-day-tet-mau-than-
1968-trong-tien-trinh-lich-su-viet-nam-532112
https://tuoitredhdn.udn.vn/chu-tich-ho-chi-minh/cuoc-doi-va-su-nghiep-
cmbs1p43tj/9-dau-an-lon-trong-cuoc-doi-cua-chu-tich-ho-chi-minh-956.html
https://bvhttdl.gov.vn/cuoc-doi-va-su-nghiep-cach-mang-ve-vang-cua-chu-tich-ho-
chi-minh-20201026145330541.htm
38
| 1/38

Preview text:

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ *******************
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(Mã học phần SSH1151) ĐỀ TÀI:
NHỮNG CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH VÀ DẤU ẤN CỦA NGƯỜI TRONG
NHỮNG THẮNG LỢI ĐÓ
Sinh viên thực hiện: Liễu Bảo Bảo 20224929 Đỗ Trung Kiên 20224869 Vũ Đức Tài 20225082 Đỗ Minh Phúc 20225064 Lớp: 136900
Giảng viên hướng dẫn:
Th.s. Nguyễn Thị Thu Hà
Hà Nội, tháng 12 năm 2022 1 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...............................................................3
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................3
2. Tổng quan đề tài..............................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu.......................................................................3
4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................4
6. Đóng góp của đề tài..........................................................................4
7. Kết cấu của đề tài.............................................................................4
B. NỘI DUNG...........................................................5
I. Khái quát về thời đại Hồ Chí Minh......................................................5
1. Hành trình từ một con người đến cả một thời đại mới................5
2. Những đổi mới trong thời đại.........................................................6
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam........................................8 II.
Những chiến thắng lịch sử của nhân dân ta trong thời đại Hồ
Chí Minh.................................................................................................8
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945...................................................8
2. Chiến thắng Điện Biên Phủ...........................................................13
3. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...............................19 III.
Những dấu ấn của Hồ Chí Minh trong những thắng lợi lịch sử
của dân tộc ta........................................................................................24
1. Hồ Chí Minh với công cuộc khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà..........................................................................................24
2. Hồ Chí Minh với chiến thắng Điện Biên Phủ..............................26
3. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng miền Nam.....................30
C. Kết luận...............................................................34
D. Tài liệu tham khảo.............................................34
2 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm đô hộ, hàng trăm năm bị
xâm lược, nhưng nhân dân ta không bao giờ khuất phục không bao giờ chịu đầu
hàng trước kẻ địch, cho dù bao nhiêu năm nữa thì nhân dân Việt Nam ta vẫn một
lòng gìn giữ truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc. Vì thế những chiến thắng
mang tính lịch sử có ý nghĩa rất to lớn với nhân dân ta, nhằm khích lệ cổ vũ tinh
thần đấu tranh của nhân dân, và khẳng định lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc.
Đặc biệt trong đó người có công to lớn nhất giúp đất nước ta có được độc lập tự do
đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã tìm ra con đường cứu nước, dẫn lối chỉ
đường lãnh đạo cách mạng dẫn đến chiến thắng. Nên đề tài này nhằm ca ngợi
truyền thống yêu nước của dân tộc và công lao to lớn của Bác.
2. Tổng quan đề tài
Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển có được nhiều thành công trong
nền kinh tế có được nhiều bạn bè trên đấu trường quốc tế, lời nói của đất nước ngày
càng có sức nặng, được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, có thể nói đất nước
đang vô cùng thành công trong công cuộc xây dựng đất nước, nhưng để có đất nước
ta có những chiến thắng, thành công như ngày hôm nay thì những chiến thắng trong
quá khứ đã quyết định rất nhiều. Đất nước ta đã nhiều lần lâm vào chiến tranh gây
ra tổn thất vô cùng nặng nề, và mỗi lần như vậy nhân dân ta lại cùng nhau chung tay
dựng xây đất nước, vì dân ta hiểu rằng để có được độc lập tự do đã có rất nhiều
người hi sinh, đã cống hiến cả cuộc đời cho cách mạng của những thế hệ đi trước.
Nên việc xây dựng đất nước được coi như công việc của thế hệ hiện tại và thế hệ
sau và liệu có được thành công hay không thì mọi người đều phải nỗ lực để có thể
đền đáp công ơn của thế hệ đi trước.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp chúng ta hiểu được các giá trị lịch sử, công lao to lớn của thế hệ
đi trước và đặc biệt là chủ tịch Hồ Chí Minh, để chúng ta có một cuộc sống ấm no
hạnh phúc như vậy là biết bao người đã đổ sương máu, hi sinh thân mình để cho
tương lai của con cháu mai sau. Như Bác đã nói “Không gì quý hơn độc lập tự do”,
vì thế cha ông chúng ta đã cố gắng hết sức giành được độc lập cho dân tộc ta, vì
nghĩa vụ của thế hệ chúng ta là phải cố gắng hết mình học tập tốt lao động tốt là
một công dân có ích cho đất nước, để góp phần xây dựng đất nước, giúp đất nước ta
đang trên đà phát triển ngày càng phát triển hơn. Việc thế hệ sau hiểu được công lao
và biết ơn thế hệ trước là vô cùng ý nghĩa bởi có như vậy mới nối tiếp và duy trì
truyền thống yêu nước xây dựng đất nước bao đời nay của thế hệ cha ông, không
nhất thiết cứ phải đánh đuổi giặc mới là yêu nước, thời đại này chúng ta cần có một 3
vốn kiến thức sâu rộng để xây dựng đất nước, nên lòng yêu nước cũng có thể thể
hiện ở việc xây dựng đất nước.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà đề tài hướng đến là những chiến thắng lịch sử của nhân dân
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh cùng với đó là những dấu ấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã để lại trong những chiến thắng lịch sử của dân tộc đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: thực hiện nghiên cứu lí luận của đề
tài nhờ 2 phương pháp cơ bản:
 Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
 Phương pháp phân loại và hệ thống hóa các nhận định độc lập
 Phương pháp lịch sử  Phương pháp logic
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: thực hiện nghiên cứu thực tiễn nhờ
các phương pháp sau được kết hợp:
 Phương pháp điều tra
 Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm
 Phương pháp chuyên gia
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã đóng góp một phần nhỏ cho nội dung về chiến thắng lịch sử của
dân tộc ta, giúp chủ đề về lịch sử hào hùng của dân tộc ta thêm phần chi tiết và đa
dạng, lịch sử trong suốt 4000 năm của đất nước Việt Nam ta là vô cùng đáng tự hào,
vì thế trong thế hệ chúng ta hiện nay cần có được những những bài viết, tiểu luận để
có thể hiểu sâu, cảm thấy thú vị hơn khi nghiên cứu về lịch sử của dân tộc ta. Lịch
sử ta có những nét đẹp riêng mà không dân tộc nào trên thế giới có, những nét đẹp
đó có điểm chung đều là tinh thần yêu nước mãnh liệt của dân tộc ta, luôn sẵn sàng
hi sinh vì tổ quốc mà không nhiều quốc gia trên thế giới có được điều đó.
7. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận gồm có phần mở đầu, phần nội dung được chia làm 3 phần và
phần kết luận chung, trong đó:
Phần 1: Tổng quan về thời đại Hồ Chí Minh.
Phần 2: Những chiến thắng lịch sử của nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Phần 3: Những dấu ấn mà Hồ Chí Minh đã để lại trong những chiến thắng lịch sử trên. 4 B. NỘI DUNG
I. Khái quát về thời đại Hồ Chí Minh
1. Hành trình từ một con người đến cả một thời đại mới
Kể từ thời dựng nước của ông cha ta ngày xưa, dân tộc Việt Nam đã có
truyền thống kết nối cộng đồng, có tình nghĩa đồng bào sâu nặng, có ý chí sâu sắc
về chủ quyền quốc gia, quyền làm chủ đất nước, luôn khát vọng tự do, có ý chí độc
lập và không bao giờ khuất phục trước sự xâm lược của kẻ thù. Sau bao lần bị xâm
lược nhưng vẫn không bao giờ chịu cảnh bị đàn áp, sẵn sàng hy sinh bảo vệ quê
hương của mình. Và cho dù tình huống nước ta có tồi tệ đến mức nào thì cũng luôn
sẽ sinh ra một nhóm người nổi bật. Trong số đó Nguyễn Tất Thành cũng là người
được sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta khó khăn như vậy. Nguyễn Tất Thành đã
mang đến một thời đại, một thời đại mang tên ông:” Thời đại Hồ Chí Minh”.
Người trai chí lớn Nguyễn Tất Thành mang trong mình long yêu nước to lớn,
sự nhiệt huyết và niềm tin vào tương lai đất nước sẽ độc lập. Anh đã đi khắp bốn
phương trời tìm đường cứu nước, cứu dân. Sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc bắt đầu từ đây. Hành trang của Nguyễn Tất Thành có
truyền thống lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc thành bản
lĩnh dân tộc. Cùng với truyền thống và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, trong
hành trang “người đi tìm hình của nước” còn có những khát vọng, hoài bão lớn về
tương lai Tổ quốc và dân tộc là đánh đổ chế độ áp bức bóc lột hà khắc của thực dân,
phong kiến để vươn lên xây dựng một xã hội mà con người được sống, được tự do,
bình đẳng, hạnh phúc và văn minh. Nguyễn Ái Quốc đã tìm được cái mà mình
mong đợi - Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người đã tìm ra
con đường riêng cho cách mạng Việt Nam: Cách mạng giải phóng dân tộc và phát
triển đất nước vì độc lập, tự do. Sau khi đọc Luận cương Lênin, Người đã thốt lên:
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Một học thuyết cách mạng trên cơ sở thực tiễn được truyền bá vào Việt Nam
làm dấy lên một cao trào dân tộc và dân chủ theo đường lối cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã ra đời và trở thành một tổ chức duy nhất
đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử: Lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân với mục tiêu
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Độc lập, tự do chính là tư tưởng cốt lõi
nhất trong cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy các dân tộc bị nô lệ vùng lên, tự giải
phóng. Đây là cơ hội ngàn năm có một để Đảng ta lãnh đạo và tổ chức toàn dân
đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lại độc lập, tự do.
Giữa tháng 8-1945, thời cơ cách mạng trực tiếp đã đến vào thời khắc lịch sử
của dân tộc và chỉ với hơn 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi 5
nghĩa thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám là “một mốc son lịch sử bằng
vàng” của dân tộc Việt Nam.
Sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân là “một bước nhảy vọt lịch sử vĩ
đại trên con đường tiến lên của dân tộc theo xu thế tiến triển cách mạng thời đại”.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy. Lịch sử đã sang trang, kỷ nguyên độc lập, tự do với chân
lý giản đơn mà Bác kính yêu đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
đã đến với dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 mở ra thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của sự
nghiệp giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây,
kiến lập nền dân chủ, cộng hòa; thời đại dân tộc nỗ lực thoát khỏi đói nghèo, lạc
hậu để đến với mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc trong nghĩa trọn vẹn của nó.
Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng.
Người đã gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta
và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân cho đến hơi thở
cuối cùng. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non
sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta. Người đã để lại cho chúng ta và
các thế hệ mai sau một gia tài đồ sộ, một di sản hết sức quý báu.
Khó có tên gọi nào thích hợp hơn, sát đúng hơn tên gọi “thời đại Hồ Chí
Minh” cho tất cả những biến đổi như trên, có thể nói là đã được bắt đầu từ những gì
có liên quan đến người thanh niên Nguyễn Tất Thành.
8. Những đổi mới trong thời đại
Trong thời kỳ 1930 -1945, thực hiện cuộc cách mạng tư sản dân quyền đánh
đổ đế quốc phong trào giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, tư tưởng đổi mới sáng
tạo Hồ Chí Minh đã được thể hiện nổi bật trong những quyết định lịch sử của Hội
nghị Trung ương 8 Khóa I ngày 5/8/1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm
bôn ba khắp thế giới đã về nước. Người đã triệu tập và trực tiếp lãnh đạo hội nghị
này. Tại hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đề ra những quyết định có ý
nghĩa lịch sử: Tạm thời rút khẩu hiệu phản phong, tập trung cho mục tiêu đánh đổ
đế quốc giành độc lập. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam
độc lập Đồng minh gọi tắt là mặt trận Việt Minh: “Thực hiện chủ trương liên hợp
Hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái
không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc
giải phóng và sinh tồn. Việt Minh chủ trương tập hợp hết thảy mọi tinh thần độc lập
chân chính của giống nòi kết thành một khối cách mạng vô địch, đặng đập tan xiềng
xích của Nhật, Pháp, quét sạch mưu mô xảo trá của một nhóm Việt gian phản
quốc ... Coi quyền lợi của dân tộc cao hơn hết thảy. Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón
tiếp những cá nhân hay đoàn thể không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia 6
miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do
và độc lập’’. Ra chủ trương củng cố lực lượng vũ trang khởi nghĩa Bắc Sơn, xây
dựng và phát triển các Tiểu tổ du kích, các đội tự vệ, cứu quốc quân.
Ở các đơn vị cơ sở trong cả nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 còn đề
ra chủ trương tăng cường xây dựng củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức
để đạt mục đích yêu cầu thời kỳ này là: “Làm cho Đảng xứng đáng là đội tiên
phong có tổ chức của giai cấp Vô sản. Làm cho Đảng thành một Đảng thật quần
chúng, có cơ sở vững vàng trong quần chúng. Thực hiện sự thống nhất toàn Đảng.
Thực hiện và tăng cường sự cố kết cách mệnh của các đảng viên. Đoàn kết được hết
thảy các lực lượng phản đế, chỉ huy các lực lượng ấy trong cuộc đấu tranh giải phóng sắp tới”.
Thông qua việc thực hiện chủ trương này theo “phương châm tổ chức của
Đảng ta lúc này là Rộng rãi, Thực tế và Khoa học”. Năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức Đảng các cấp và của đội ngũ cán bộ đảng viên đã được nâng
lên đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1945 toàn
Đảng có 5000 đảng viên, có hơn một nửa còn trong nhà tù của đế quốc Pháp, nhưng
Đảng ta vẫn lãnh đạo cuộc Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Trong giai đoạn 1945-1954, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh được
thể hiện: Nổi bật trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp khởi
thảo. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng
bậc nhất của nước ta. Bản Tuyên ngôn đã lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén cơ sở pháp
lý và cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn Độc lập. Tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ách
thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Kết thúc vĩnh viễn chế độ phong kiến
ở Việt Nam. Khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam và ý
chí đanh thép của toàn thể nhân dân Việt Nam, quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập.
Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh
tiếp tục được thể hiện sâu sắc trong các chủ trương tổ chức cuộc bầu cử tự do đầu
tiên để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Chủ trương phát
động phong trào bình dân học vụ để xóa “giặc dốt” và phát động phong trào tăng
gia, tiết kiệm, Hũ gạo cứu đói để chống “giặc đói”. Tuần lễ vàng để động viên toàn
dân xây dựng nền tài chính Quốc gia. Trong chủ trương tiến hành đàm phán với
chính phủ Pháp để ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 và Tạm ước 14/09/1946 để
tranh thủ thời gian hòa bình mà nỗ lực xây dựng lực lượng để chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến chống xâm lược.
Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh được kết tinh trong Đường lối
Kháng chiến trường kỳ, trong đường lối Kiến quốc, trong vừa Kháng chiến vừa
Kiến quốc. Trong chủ trương vừa đẩy mạnh các chiến dịch đánh địch trên các mặt
trận, đến chiến dịch Tây Bắc 1953-1954 thì đồng thời tiến hành mặt trận ngoại giao
tại Giơ-ne-vơ…Với phương châm chiến lược toàn dân Kháng chiến, toàn diện 7
Kháng chiến đã tạo ra sức mạnh tổng hợp của Việt Nam chiến tháng thực dân Pháp xâm lược.
Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh đã phát triển đến một đỉnh cao mới
được kết tinh trong đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và Đường lối Kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
9. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng
nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một
con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc
và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm
1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam
đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của Việt Nam đã cơ bản được xác
định. Sự đúng đắn ngay từ đầu của tư tưởng, đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ
Chí Minh vạch ra đã được thực tiễn chứng minh và khẳng định; và chính trong quá
trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát
triển và hoàn thiện dần, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, cách
mạng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của cách mạng tháng Tám và việc thành lập Nhà
nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước do dân làm chủ đầu tiên trong lịch sử
dân tộc. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, xây dựng hậu phương lớn cho công cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc
bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là
thắng lợi bước đầu với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế mà hiện nay nhân dân ta đang tiến hành.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của 8
quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ
cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
II. Những chiến thắng lịch sử của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cách mạng tháng Tám còn gọi là Tổng khởi nghĩa tháng Tám là tên gọi ngành
sử học chính thống tại Việt Nam hiện nay dùng để chỉ việc phong trào Việt Minh tiến
hành khởi nghĩa chống Đế quốc Nhật Bản, buộc Đế quốc Việt Nam bàn giao chính
quyền trung ương và các địa phương và buộc Bảo Đại phải thoái vị trong tháng 8 năm 1945.
Việc chuyển giao quyền lực được Chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ
bản trong hòa bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại
Việt, Hòa Hảo,... ở một số địa phương.
Chỉ trong 10 ngày, cơ sở chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn
bộ các tỉnh lỵ trên khắp Việt, hầu hết địa phương trong cả nước.
Kết quả của cuộc cách mạng là ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
đồng thời cũng chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại suốt 2.000 năm
trong lịch sử Việt Nam. Sau đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử
năm 1946 trên phạm vi cả nước.
a. Bối cảnh lịch sử Ngoài nước:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh lại phe
Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xô. Sau có Mỹ và nhiều nước nữa tham chiến
(trong đó có Việt Minh, Pathet Lào, Issarak Campuchia tại Đông Dương).
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ
Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức quốc xã, nên đã đồng ý cho quân Nhật tấn công
vào Bắc Kì, chiến tranh kết thúc ở Châu Âu.
Phát xít Nhật đầu hàng nên quân đội Anh và quân tưởng đến Đông Dương để
giải giáp quân Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp âm mưu lăm le dựa vào Đồng
minh nằm khôi phục địa vị thống trị của mình, đế quốc Mĩ mặc dù không tham gia
trực tiếp nhưng vẫn đứng sau các thế lực này để sẵn sàng can thiệp vào Đông
Dương, còn những phần tử phản động, cố chấp, ngoan cố trong chính quyền tay sai
Nhật thì đang âm mưu thay chủ, để chống lại cách mạng nước ta. Trong nước:
Thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương khởi xướng và lãnh đạo nhiều
cuộc khởi nghĩa với mục tiêu duy nhất là chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa
Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơn, Xô – viết Nghệ Tĩnh mặc dù được diễn ra mạnh mẽ
nhưng tất cả đều thất bại. Không chỉ vậy, những binh lính tham gia chiến tranh Thái
Lan thực hiện cuộc Binh biến Đô Lương cũng chấp nhận thất bại. 9
Vào tháng 5 năm 1941, các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt vẫn là Đảng
Cộng sản Đông Dương, do Hồ Chí Minh dẫn đầu, cùng nhau tập hợp và quy tụ lại
vào một đỉa điểm gần biên giới Việt – Trung, đã tham gia một tổ chức đứng về phía
Đồng Minh với mục tiêu chính là giành độc lập cho Việt Nam, gọi là Việt Nam Độc
lập Đồng minh, thường được gọi với tên quen thuộc là Việt Minh. Tổ chức này xây
dựng một chiến khu được kiểm soát ở biên giới Việt – Trung.
Bước sang năm 1945, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng trước thời cơ lớn khi lực lượng cách mạng Việt
Nam đã được chuẩn bị chu đáo, có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối, phương pháp
đấu tranh. Chính Đảng cũng nhận thấy, đây chính là thời cơ “ngàn năm có một” và
chỉ tồn tại trong khoảng nửa tháng.
b. Diễn biến của cách mạng Tháng Tám
Từ tháng 04/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 05/1945, Hồ Chí Minh từ cao Bằng
về Tuyên Quang chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị
Đại hội quốc dân. Ngày 04/06/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Tháng 8/1945, Hội nghị đại
biểu toàn quốc của Đảng họp
tại Tân Trào khẳng định: “Cơ
hội rất tốt cho ta giành độc lập
đã tới” và quyết định phát
động toàn dân khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát
xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông
Dương, đề ra ba nguyên tắc
bảo đảm tổng khởi nghĩa
thắng lợi, đó là tập trung,
thống nhất và kịp thời.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân
dân cả nước đồng loạt vùng
dậy, tiến hành tổng khởi
nghĩa, giành chính quyền. Từ
ngày 14 đến 18/08, cuộc tổng
khởi nghĩa nổ ra giành được
thắng lợi ở nông thôn đồng
bằng Bắc bộ, đại bộ phận
miền Trung, một phần miền
Nam và ở các thị xã: Bắc
Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Nguồn: Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam)
Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,
Quảng Nam, Hội An,… Ngày
19/08, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/08, khởi nghĩa 10
thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Bình
Định, … Ngày 25/08, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn – Gia Định, Kon Tum, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Tây Ninh, ... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo
các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15
ngày cuối tháng 08/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lọi hoàn toàn, chính
quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày 02/09/1945, tại Quảng trường Ba Đình
(Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần
một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước quốc dân
và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Từ đó, ngày 02/09 là ngày Quốc Khánh của nước ta. c. Nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công vang dội và nhanh chóng do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhân quan trọng nhất, có ngày 2/9/1945
ý nghĩa quyết định đó chính là sự lãnh đạo tài tình đúng đắn, sáng suốt, khéo léo,
tỉnh táo của Đảng. Tất cả điều đó là sự vận dụng và phát triển của chủ nghĩa Mác –
Lênin được áp dụng với điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Đảng có phương pháp chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt.
nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, khẳng định những quyết định
sáng suốt và đường lối đúng đắn của Đảng
Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí
quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người
dân mất nước. Nhân dân ta sẵn sàng hi sinh thân mình để phục vụ cho Đảng và
Cách Mạng, một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn
tập, quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. 11
Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh
liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc, qua đó thấy được truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc ta.
Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những
thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu
tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.
d. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vô cùng vĩ đại đầu
tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.
Nhân dân Việt Nam như bước sang một trang mới, không còn phải chịu ách
đô hộ của thực dân, phát xít, từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc
lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam góp
công lớn nên đã trở thành một Đảng cầm quyền.
Đây là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước
thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải
qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng
đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị.
Nó còn khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc
cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành
công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế
quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu
để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
e. Một số bài học kinh nghiệm
Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ
thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp
và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ
chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền. 12
Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo
xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút
được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta
và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ
vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức
mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta
biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và
đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định
chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện
cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của
nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng
khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
10. Chiến thắng Điện Biên Phủ
a. Hoàn cảnh lịch sử
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn, thử thách. Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân
Nhật đã lũ lượt kéo vào nước ta.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào
đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh, theo sau chúng là tay sai thuộc các tổ chức phản
động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh
hội (Việt Cách). Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân anh tạo điều kiện cho thực dân
Pháp quay trở lại nhằm thực hiện âm mưu đặt lại ách thống trị tại Đông Dương một lần nữa.
Đồng thời, lúc này chính quyền Việt Nam còn non trẻ đang đứng trước muôn
vàn những khó khăn cần giải quyết cấp thiết như xây dựng chính quyền cách mạng,
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản, …
Trước tình hình ngàn cân treo sợi tóc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ:
tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng lúc, từ đó chủ trương tạm
thời hòa hoãn, nhân nhượng để tạo thời gian chuẩn bị. Hiệp định Sơ bộ (6 – 3 -
1946) và Tạm ước Việt Pháp (14 - 9 - 1946) lần lượt được kí kết đã đẩy 20 vạn quân
Trung Hoa Dân Quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta và cho ta có thêm thời gian
hòa bình củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt bước vào
cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp không tránh khỏi.
Tuy nhiên, càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, nhận thấy những
nỗ lực đàm phán với Pháp không thành, khoảng 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, 13
chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong lời kêu gọi có đoạn:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta
lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946 cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước…”
Sau lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chiến đầu của nhân dân ta bắt đầu.
f. Cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại xâm lược từ năm 1945 – 1954
Sau lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta đã chiến đấu, thực
hiện theo sự chỉ dẫn của Đảng và Nhà nước, chuyển từ thế bị tấn công với nhiều
khó khăn khi mới bước đầu thành lập nước chuyển sang thế chủ động, nắm nhiều
lợi thế trên chiến trường để rồi dẫn đến chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan ý chí xâm lược nước ta.
Quân ta giành các lợi thế trên chiến trường phía Bắc
Sau lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chiến đầu của nhân dân ta
bắt đầu. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tiêu diệt được một bộ
phận sinh lực địch đồng thời giam chân địch trong một thời gian dài giúp quân ta
rút lui khỏi vòng vây của địch, lùi về căn cứ an toàn tạo điều kiện cho cả nước đi
vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn
thể … chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 3 - 1947, Chính phủ Pháp cử Bôlae
làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ mở cuộc tiến công Việt Bắc
nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Khi địch vừa tiến công Việt Bắc, Đảng ta 14
đã có chỉ thị “Phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”. Trên khắp các mặt
trận, quân ta đã anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch. Sau
hơn hai tháng chiến đấu, cuộc chiến kết thúc bằng cuộc rút chạy của quân Pháp khỏi
Việt Bắc với thất bại với kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” buộc phải chuyển
sang “đánh lâu dài”. Còn quân ta bảo toàn được cơ quan đầu não, Bộ đội chủ lực
của ta ngày càng trưởng thành, đồng thời đưa cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp xâm lược chuyển sang giai đoạn mới.
Ngày 13 – 5 - 1949, với sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch
Rơve đưa Mĩ từng bước can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào chiến tranh ở Đông
Dương. Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6 - 1949, Pháp tăng cường hệ thống
phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông - Tây” (Hải Phòng - Hà Nội
– Hòa Bình – Sơn La). Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến
công Việt Bắc lần hai, mong giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Để đưa cuộc kháng chiến phát triển thêm một bước mới, tháng 6 – 1950, Đảng và
Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt bộ phận sinh lực địch,
khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt
Bắc. Sau hơn một tháng chiến đấu, với các cuộc càn quét đầy lùi quân địch ở Đông
Khê, Thất Khê, Na Sầm chiến dịch kết thúc thắng lợi đưa quân ta giành được thế
chủ động trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến.
Dựa vào viện trợ của Mĩ, Pháp đề ra kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi, với mong
muốn kết thúc nhanh chiến tranh. Kế hoạch gồm 4 điểm chính: Gấp rút tập trung
quân Âu – Phi nhằm xây dựng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh; Xây dựng
phòng tuyến boong ke bao quanh trung du và vùng đồng bằng để ngăn chặn chủ lực
và kiểm soát quân ta; tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng tạm chiếm;
và đánh phá hậu phương của ta. Để giữ vững quyền chủ động đánh địch trên chiến
trường Bắc Bộ và đẩy địch lùi sâu vào thế bị động đối phó, trong khoảng thời gian
từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tục mở ba chiến dịch Trần Hưng
Đạo (chiến dịch Trung du), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch Đường số 18),
và chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Hà – Nam – Ninh) đã phá vỡ mảng bình
định của kế hoạch và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Quân ta tiếp tục giữ vững
thế chủ động khi mở them các chiến dịch Hòa Bình đông – xuân 1951 – 1952, chiến
dịch Tây Bắc thu – đông năm 1952, chiến dịch Thượng Lào xuân – hè năm 1953.
Sau 8 năm quay trở lại Đông Dương, Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến
và gặp nhiều tổn thất cả về người lẫn của, còn ta giành được quyền chủ động trên
chiến trường phía Bắc, quân bộ đội ngày càng trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Kế hoạch Nava
Lợi dụng tình bất lợi của Pháp trên chiến trường, Mĩ can thiệp sâu hơn vào
cuộc chiến tranh Đông Dương ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích
cực chuẩn bị thay thế Pháp. Ngày 7 – 5 – 1953, được sự thỏa thuận của Mĩ, Chính
phủ Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân đội đề ra kế hoạch quân sự với hi
vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy chiến thắng quyết định để “kết thúc chiến
tranh trong danh dự”. Kế hoạch Nava gồm 2 bước: 15
Bước thứ nhất, trong thu – đông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược
ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương, giành
lấy nguồn lực, vật lực; đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân, xây dựng đội quân cơ
động chiến lược mạnh.
Bước thứ hai, từ thu – đông 1954, chuyển lực lượng sang chiến trường Bắc Bộ, thực
hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định buộc ta phải đàm
phán với những điều có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh.
Cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954
Để phá vỡ bước đầu của kế hoạch Nava, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đưa ra nhiệm vụ chính là tiêu diệt địch, phương thức chiến lược của ta
trong đông xuân 1953 – 1954 là: “Tập trung lực lượng mở những cuộc tấn công vào
những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một
bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân
tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ”.
Trong đông – xuân 1953 – 1954, quân ta mở một loạt các chiến dịch tiến
công địch ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương.
Ngày 10 – 12 – 1953, một bộ phận quân chủ lực của ta tiến công thị xã Lai
Châu, loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ)
được giải phóng. Nava buộc phải đưa 6 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ
tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực
thứ hai của Pháp sau đồng bằng Bắc Bộ.
Đầu tháng 12 – 1953, liên quân Lào – Việt mở rộng tiến công địch ở Trung
Lào, tiêu diệt 3 tiểu đoàn Âu – Phi, giải phóng thị xã Thà Khẹt, bao vây uy hiếp
Xavannakhét và căn cứ Xênô, buộc Pháp phải tăng cường lực lượng cho Xênô, trở
thành nơi tập trung binh lực thứ ba của Pháp.
Cuối tháng 1 – 1954, liên quân Lào – Việt tiến công địch ở Thượng Lào, giải
phóng tỉnh Phongxalì, Nava buộc phải tăng cường quân cho Luông Phabang và
Mường Sài, biến đây thành địa điểm tập trung binh lực thứ tư của Pháp.
Đầu tháng 2 - 1954, quân ta tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng
tỉnh Kon Tum, uy hiếu Plâyku. Pháp buộc phải tăng cường lực lượng cho Plâyku và
Plâyku trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của Pháp.
Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 – 1954 đã làm “phá sản” bước
đầu của kế hoạch Nava, đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân và dân ta mở
ra cuộc tiến công quyết định vào Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, dài 15km, rộng 5km. Ở đó có một
sân bay dã chiến nhỏ đã bị bỏ hoang từ khi phát xít Nhật rời khỏi Đông Dương vào
năm 1945. Xung quanh là đồi núi trập trùng, rừng cây bao phủ dày đặc Điện Biên
Phủ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 300km theo đường chim bay gần biên giới Việt -
Lào nằm trên trục giao thông lưới lên khắp nền biên giới của Lào, Thái Lan,
Myanmar và Trung Quốc. Theo đánh giá của tướng Nava và các nhà quân sự Pháp 16
Mỹ thì Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông
Dương nên đã được chọn làm nơi lập căn cứ.
Ngày 6 – 12 – 1953, sau khi họp bàn Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết
định mở chiến dịch Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh
chiến dịch, tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo cùng nhiều tiểu đoàn
công binh, thông tin, quân y, … với tổng quân số khoảng 55 000 quân.
Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh
chóng tập kết ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa sẵn
sàng tiến công địch. Trong giai đoạn này đã có không ít những hi sinh tiêu biểu như
anh hùng Tô Vĩnh Diện hi sinh thân mình để cứu khẩu pháo cao xạ 37mm không rơi xuống vực.
Ngày 25 – 1 – 1954, các đơn vị bộ đội Việt Minh đã sẵn sàng nổ súng theo
phương châm tác “chiến đánh nhanh thắng nhanh”. Nhưng sau đêm dài suy nghĩ,
nhận thấy phương án này mang nhiều tính chủ quan không thể đảm bảo tính chắc
thắng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định cho lui quân và chuyển phương
châm tiêu diệt địch sang “tiến chắc, đánh chắc”. Do đó cần chuẩn bị lại việc tổ
chức, bố trí hỏa lực chiến dịch. Đầu tháng 3 – 1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chia làm 3 đợt:
Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17 – 3 – 1954: Đúng 17h ngày 13 – 3 – 1954, đại
đội pháo binh 806 bắn loạt đạn đầu tiên vào trung tâm đồi Him Lam mở màn cho
cuộc tấn công đầu tiên của chiến dịch. Sau hơn 4 tiếng đồng hồ bắn pháo liên tục,
vào 21 giờ lính bộ binh quân ta xung phong tấn công như vũ bão vào cụm cứ điểm
Him Lam, trận chiến diễn ra ác liệt đến 23 giờ 30 phút đêm hôm đó mới kết thúc
với chiến thắng đầu tiên cho quân ta. Tiếp nối chiến thắng, quân ta lần lượt giành
được quyền làm chủ các cứ điểm đồi Độc Lập, Bản Kéo. Kết thúc đợt tấn công thứ
nhất, quân Việt Minh đã tiêu diệt và bắt sống 2000 lính Pháp, phá hủy 25 máy bay,
xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm
Đợt 2, từ ngày 30 – 3 đến ngày 26 – 4 -1954: Quân ta đồng loạt tiến công
phân khu Trung tâm như E1, D1, C1, C2, … Ta chiếm được phần lớn các cứ điểm
của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch. Phong trào thi
đua “săn tây bắn tỉa” của bộ đội Việt Minh càng làm cho quân Pháp hoang mang
tuyệt vọng. Nguồn nước bị cắt đứt, điều kiện sống rất tồi tệ, đối với quân Pháp Điện
Biên Phủ đã trở thành địa ngục trần gian, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Sau đợt
này Mĩ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ.
Đợt 3, từ ngày 1 – 5 đến ngày 7 – 5 – 1954: quân ta đồng loạt tiến công phân
khu Trung tâm và phân khu phía Nam nhằm chiếm được khu trung tâm Mường
Thanh và khu trung tâm Hồng Cúm. Quân ta lần lượt tiêu diệt các cứ điểm đề kháng
còn lại của địch: Chiều 7 – 5, quân đội Việt Minh được lệnh mở cuộc tổng công
kích vào trung tâm cứ điểm. Đến 17 giờ 30 phút ngày 7 – 5 – 1954 đã chiếm được
sở chỉ huy, tướng Đờ Caxtơri cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch đầu hàng và bị 17
bắt sống. Lá cờ quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm chỉ huy của quân đội Pháp. g. Nguyên nhân thắng lợi Một là, Đảng ta,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối kháng chiến,
đường lối quân sự độc
lập, đúng đắn, sáng tạo.
Kết hợp chặt chẽ nhiệm
vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến,
vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới. Ngay từ đầu chống thực dân
Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, dựa vào sức mình là chính. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm
ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy;
tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự và đấu
tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Hai là, nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến
miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy tinh
thần cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây
dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức
của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến,
quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Ba là, các lực lượng vũ trang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng
chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo
đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có. Chấp hành nghiêm
mệnh lệnh chiến trường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng
cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Bốn là, sự chi viện, cổ vũ và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là
của Trung Quốc, Liên Xô, phong trào đấu tranh vì hòa bình của nhân dân tiến bộ
trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên bán
đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
h. Ý nghĩa lịch sử
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược
Đông-Xuân 1953-1954 là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-
1954). Chiến thắng này góp phần quyết định đập tan hoàn toàn dã tâm xâm lược của 18
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc
chiến tranh ở Đông Dương, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, Lào
và Cam-pu-chia, góp phần quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc, mở
đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn,
là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết
chiến, quyết thắng và sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân
dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đoàn
kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước Đông
Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9
năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của
thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và
phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945; mở ra giai đoạn cách mạng
mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ
chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.
11. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
a. Bối cảnh lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 Trong nước
Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc
Mĩ đã nhảy vào hất cẳng Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, nhằm chia cắt lâu dài
nước ta đồng thời biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới cũng như căn cứ quân sự của Mĩ. 19
Ở miền Bắc, sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã
giành lại được độc lập, tự do. Cùng lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở lại thủ
đô Hà Nội và cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hàn gắn vết thương
chiến tranh, bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng miền Bắc
trở thành căn cứ vững mạnh của cả nước. Dù vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn
hướng tới cách mạng miền Nam. Người nói rằng “Một ngày mà Tổ quốc chưa
thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Thế giới
Mĩ do trong Chiến tranh thế giới thứ hai ít bị tàn phá nên đã trở thành nước giàu
mạnh nhất, chiếm ưu thế về mọi mặt trong thế giới tư bản.
Quan hệ thế giới thay đổi: Hai
Miền Bắc bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước,
cường quốc Xô từ quan
đi lên chủ nghĩa xã hội
hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhanh chóng chuyển thành quan hệ
đối đầu giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Trong khi Liên Xô luôn
luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng dân tộc,
đấu tranh vì hoà bình, dân chủ thì ngược lại, Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế
lực phản động chống phá cách mạng thế giới với âm mưu bá chủ thế giới.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời làm thu hút sự chú ý của thế giới và tác động đến
sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó làm cho Mĩ và các nước đồng
minh không thể làm ngơ sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
i. Hành trình tiến đến trận đánh lịch sử
Giai đoạn từ 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng,
chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu âm mưu của đế quốc Mĩ

Với mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mĩ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ,
hất cẳng Pháp và thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.
Chính quyền Mỹ - Diệm thực hiện “tố cộng”, “diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong
trào yêu nước của nhân dân ta.
Trước tình thế khó khăn cho ta, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và
dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, biến miền Bắc trở thành căn cứ vững mạnh của cả nước.
Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, chỉ trong ba năm
(1958 – 1960), chúng ta đã hoàn thành căn bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa,
bước đầu xây dựng, phát triển mọi mặt, mọi lĩnh vực theo con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Ở miền Nam, tuy rằng cuộc kháng chiến vẫn còn nhiều khó khăn
nhưng nhân dân vẫn một lòng tin tưởng vào Đảng, chống áp bức, bảo vệ lực lượng
cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu,
phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược giữa 2 miền, giữa Việt
Nam và thế giới, định hướng và động viên nhân dân miền Nam nổi dậy đấu tranh, 20
nổi bật là phong trào Đồng khởi (1959 – 1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng
từ giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, bước đầu làm thất bại âm mưu của đế quốc Mĩ. 21
Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững tình thế, đánh
bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ

Nhận thấy tình thế đang xoay chuyển, đế quốc Mĩ buộc phải thay đổi chiến lược.
Cuối năm 1960, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, là chiến lược dùng
quân nguỵ làm tay sai, công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp
chiến lược, trại tập trung nhằm tách lực lượng cách mạng khỏi nhân dân.
Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam cũng có đổi mới, từ khởi nghĩa từng phần
lên chiến tranh cách mạng kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, làm
phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ và tay sai. Ngoài ra, miền
Bắc cũng có những bước tiến mới về kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng, đặc biệt
thực hiện kế hoạch 5 năm lần đầu tiên, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, chi viện cho miền Nam.
Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Phát động toàn dân
kháng chiến, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ, đồng
thời kháng chiến chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất

Trước nguy cơ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” phá sản, đế quốc Mĩ chuyển sang
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, lần này đích thân quân đội Mĩ là lực lượng tham
gia chủ yếu, dùng nguỵ để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại quân
cách mạng trong 25 đến 30 tháng đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền
Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân dân ta đã đánh thắng quân xâm lược ngay từ khi
chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp đó là những thắng lợi oanh liệt ở Núi Thành, Vạn
Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, đánh bại ba cuộc hành quân lớn ở miền Đông Nam Bộ, sau đó
thắng lợi nở rộ ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng sông Cửu Long và các mục
tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn,
đặc biệt phải kể đến chiến thắng mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967, tạo đà cho
Quân đội nhân dân Việt Nam lớn mạnh, trở thành lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại tiến lên.
Hoà chung với không khí kháng chiến, quân dân miền Bắc cũng tích cực đánh trả
cuộc tiến công của của Mĩ bằng không quân và hải quân và cũng giành nhiều thắng
lợi, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của cho miền Nam. 22
Ngày 28/12/1967, Bộ Chính trị thông qua chủ trương: “Chuyển cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kì mới, thời kì tiến công và
nổi dậy giành thắng lợi quyết định”, được thực hiện bằng cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Qua thắng lợi này, ta đã làm đảo lộn cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam của Mĩ – một siêu cường quân sự, kinh tế, làm lung lay tận gốc
ý chí xâm lược của chúng, đồng thời giáng một đòn quyết định vào chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”. Ngoài ra, cuộc Tổng tiến công còn tác động trực tiếp đến đời
sống chính trị nước Mĩ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược
trong nhân dân Mĩ lên cao chưa từng thấy, kết quả làm cho tổng thống Giônxơn
buộc phải tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm
phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc
ta bước vào giai đoạn mới.
Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh,
kháng chiến chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đồng thời
kháng chiến chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai

Sau 2 chiến lược hoàn toàn bị phá sản, đế quốc Mĩ tiếp tục thi hành chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh”, rút dần quân Mĩ và đồng minh đồng thời tăng cường lực
lượng quân đội Sài Gòn, “dùng người Việt đánh người Việt”, từng bước mở rộng
chiến tranh sang Campuchia, Lào nhằm thực hiện chiến tranh huỷ diệt và giành dân,
bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai mặt trận phía Bắc và Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương được triệu tập nhằm
đoàn kết chiến đấu, chống lại kẻ thù chung, kết quả giành về nhiều thắng lợi, đập
tan nhiều cuộc hành quân, buộc Mĩ phải “Mĩ hoá” trở lại cuộc chiến tranh.
Trong khi công cuộc kháng chiến đang diễn ra sôi nổi khắp cả nước thì Chủ tịch Hồ
Chí Minh đột ngột qua đời vào ngày 2/9/1969. Đây là một tổn thất vô cùng to lớn
của dân tộc. Tuy nhiên, địch vẫn còn đó, nhân dân cả nước tiếp tục thực hiện theo
Di chúc của Bác, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Trong khi đó, Mĩ tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhưng không
thể đánh bại được ý chí của nhân dân ta. Quân ta đã đánh bại cuộc tập kích bằng
máy bay B52 của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, làm đảo lộn cục
diện chiến trường, buộc Mĩ phải ngồi vào bàn đàm phán và tuyên bố ngừng các hoạt
động chống phá miền Bắc (15/1/1973), đồng thời buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Theo đó, Mĩ phải rút hết quân ra
khỏi Việt Nam, đồng thời phải chấm dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Mĩ đối
với Việt Nam. Điều này khiến cho so sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo
điều kiện để ta giành được thắng lợi cuối cùng.
j. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Bối cảnh
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết,
Mỹ buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Song, chúng không từ bỏ âm 23
mưu xâm lược Việt Nam, mà chúng tiếp tục viện trợ, tạo điều kiện cho chính quyền
Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari. Tuy vậy, sau đó đế quốc Mĩ lún sâu vào một cuộc
khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế suy thoái, nạn lạm phát và thất nghiệp tăng, xã hội
rối loạn, nội bộ chính quyền và các đảng phải mâu thuẫn sâu sắc. Điều đó làm cho
viện trợ quân sự của Mĩ cho quân đội Sài Gòn bị cắt giảm dần, khiến chúng gặp
nhiều khó khăn chồng chất không thể khắc phục được.
Tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định
nhiệm vụ cách mạng miền Nam là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trước mắt phải đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và
ngoại giao, đồng thời chuẩn bị khả năng tiến lên phản công nhằm giành thắng lợi
hoàn toàn. Đặc biệt nhấn mạnh: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành
thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng là con đường bạo lực, do đó phải nắm
vững chiến lược tiến công.
Từ năm 1973 đến cuối năm 1974, quân và dân ta về cơ bản đã sẵn sàng cho cuộc
tổng khởi nghĩa giải phóng cuối cùng, từ lực lượng vũ trang, vị trí chiến lược đến
lương thực, vũ khí, nhiên liệu, trang bị cần thiết.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tháng
10/1974 và tháng 1/1975, quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm
1975 – 1976, và dự kiến sẽ tiến hành ngay nếu thời cơ đến sớm.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Mở đầu chiến dịch là cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ tại Buôn Ma Thuột
(11/3/1975). Bị choáng váng và sau khi thất bại trong việc chiếm lại Buôn Ma
Thuột, 3 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng tham mưu nguỵ đã hốt hoảng
tháo chạy khỏi Plâyku, Kon Tum. Đến 24/3/1975, vùng chiến lược Tây Nguyên đã được giải phóng.
Trong lúc đó, quân và dân miền Trung cũng đã phối hợp tiến công, nổi dậy ở nhiều
nơi, lần lượt giải phóng các tỉnh Quảng Trị, Tam Kì và Quảng Ngãi, Thừa Thiên-
Huế vào ngày 19/3, 24/3 và 26/3. Tiếp đó quân ta ào ạt tiến vào trung tâm thành phố
Đà Nẵng và giành thắng lợi rực rỡ sau 33 giờ chiến đấu, giải phóng Đà Nẵng.
Nhận thấy thời cơ đến thuận lợi và nhanh chóng, ngày 31/3, Bộ Chính trị đã họp
nhận định: Cuộc Tổng tiến công chiến lược đã giành được thắng lợi to lớn, thời cơ
chiến lược tiến hành tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã hoàn toàn chín
muồi. Cần có quyết tâm lớn hoàn thành tổng khởi nghĩa trong tháng 4/1975, quyết
định tiến hành chiến dịch giải phóng Sài Gòn, lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trên đường hành quân tiến về Sài Gòn trong tháng 4/1975, các binh đoàn chủ lực
đã đánh địch, giải phóng các tỉnh thành trên đường hành quân. Ngày 26/4, chiến
dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Những trận chiến đấu quyết liệt diễn ra trước hết ở phía
đông, tập trung nhiều lực lượng và tổ chức chống cự rất điên cuồng. Từ khắp các
hướng, năm cánh quân lớn phối hợp với các lực lượng địa phương và quần chúng
nhân dân, nhất loạt tấn công địch với sức mạnh vũ bão. Từ ngày 26 đến ngày 28-4,
một bộ phận quan trọng lực lượng địch trên tuyến phòng thủ vòng ngoài bị tiêu diệt. 24
Các binh đoàn chủ lực của quân giải phóng siết chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn.
Ngày 30-4, với sự chiến đấu anh dũng của các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực
lượng biệt động, tự vệ vùng ven và nội đô, cùng với sự nổi dậy đều khắp và kịp thời
của quần chúng, các cánh quân hùng mạnh đã thần tốc thọc sâu, tiến thẳng vào
chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn-Gia Định: Dinh Độc Đập,
Bộ Tổng tham mưu và Khu Bộ tư lệnh các binh chủng của địch, sân bay Tân Sơn
Nhất, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát. Tổng thống ngụy
quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Đúng 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc lập.
Đây là thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn-Gia Định hoàn toàn giải phóng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Trên đà chiến thắng, quân dân các tỉnh lân cận
đã đồng loạt nổi dậy, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại.
k. Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến
đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
- Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu
người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
- Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
l. Ý nghĩa lịch sử
Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói
lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta
đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh
liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt
ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta;
đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ
nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên CNXH.
Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần
thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc,
hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành
công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ
nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. 25
III. Những dấu ấn của Hồ Chí Minh trong những thắng lợi lịch sử của dân tộc ta
1. Hồ Chí Minh với công cuộc khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới
trong lịch sử của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo cao
trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người kêu gọi một số tổ
chức quốc tế, các đảng anh em có những hình thức phối hợp đấu tranh nhằm động
viên, giúp đỡ phong trào về vật chất và tinh thần. Bên cạnh đó, Người còn thẳng
thắn góp ý phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác, nhắc nhở Đảng phải tìm
cách bảo vệ cán bộ, không để kẻ thù tìm cách bắt giữ hết cán bộ của ta. Người
không chỉ kêu gọi sự giúp đỡ phong trào mà còn ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của
bọn đế quốc, nhờ đó mà Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ca ngợi cuộc đấu
tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đánh
giá cao công lao to lớn của Người.
Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, ở đó Người học
đầy đủ các môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và những phương pháp
học tự nghiên cứu kết hợp với thực tế. Tuy nhiên, do chiến tranh ngày một ác liệt,
Người không thể yên tâm ngồi học mà nóng lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm
1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, vào ngày 28-01-1941, Người trở về Việt Nam
sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó (Cao Bằng)
dưới sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, Người khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân,
tranh thủ mọi lực lượng yêu nước chống đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù. Hội nghị quyết định thành lập
"Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt là Mặt trận Việt Minh vào ngày 19/05/1941. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành
Mặt trận Việt Minh thành lập, ngày 19/5/1941 lập, là tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết thư kêu gọi Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền, Người viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã 26
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến, lật đổ ách thống
trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng
lợi to lớn của dân tộc vừa là sự kế thừa truyền thống của cha ông ta trong lịch sử,
vừa là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo tài
tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch
sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả mọi người đều sinh ra
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Bản tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của các dân tộc và nói lên ý chí
của toàn dân quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập
ấy”. Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó độc
lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính
trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng năm
1930, nay đã trở thành hiện thực cách mạng đồng thời trở thành chân lý của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc Việt Nam.
2. Hồ Chí Minh với chiến thắng Điện Biên Phủ
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự
đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 10/1953, trong buổi họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ở Tỉn Keo, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên bàn về kế hoạch chiến lược
Đông Xuân 1953-1954, do Bác Hồ chủ trì, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày về
ý đồ táo tợn của tướng Pháp H.Nava là tập trung một lực lượng cơ động rất lớn ở
đồng bằng Bắc Bộ để khiêu chiến, làm tiêu hao chủ lực của ta, tạo điều kiện để
giành quyền chủ động và tiến tới giành một thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng.
Bác nghe chăm chú rồi nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo sức mạnh.
Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn.” Bàn
tay Bác mở ra, mỗi ngón trỏ về một hướng. Theo tư tưởng chỉ đạo ấy, ta đã nghiên
cứu kế hoạch Đông Xuân, cho những bộ phận chủ lực của ta tiến về 5 hướng chiến
lược nhằm những nơi hiểm yếu và tương đối yếu của địch, chọn hướng chính là Lai Châu ở Tây Bắc.
Tháng 1/1954, Bác đã căn dặn thêm Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước ngày
đồng chí ra mặt trận: “Cần nắm chắc nghị quyết của Trung ương và chủ trương của
Bộ Chính trị là: “Đánh chắc thắng.” 27 28
Bác đã tặng cờ “Quyết chiến Quyết thắng” làm giải thưởng luân lưu để khích
lệ mọi người, lập công trong chiến dịch. Tết đến, Bác đã gửi tặng mỗi cán bộ, chiến
sỹ ở mặt trận một chiếc ca rất đẹp có in đậm hai hàng chữ đỏ tươi: “Kiên quyết làm tròn nhiệm vụ.”
Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một cuộc đọ
sức toàn diện nhất, quyết liệt nhất giữa ta và địch. Thắng, bại của quân dân ta trong
chiến dịch này sẽ có ảnh hưởng lớn đối với dân tộc ta và nhân dân thế giới đang
chiến đấu vì độc lập, tự do. Vì vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải
có quyết tâm và nỗ lực rất cao.
Trong thư gửi đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12/1953, Bác Hồ viết: “Chiến
dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính
trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy toàn dân, toàn
quân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được.”
Đầu tháng 1/1954, trước khi lên đường ra mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đến Khuổi Tát chào Bác. Bác hỏi: “Chú ra mặt trận lần này có khó khăn gì
không?” Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: “Chỉ khó khăn là xa hậu phương nên
khi có vấn đề quan trọng và cấp thiết thì khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị.”
Bác nói: “Tổng tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền.”
Khi chia tay, Bác nhắc: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng; chắc thắng mới
đánh, không chắc thắng không đánh.” Những lời dặn dò của Bác là tư tưởng chỉ đạo
giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp có căn cứ để xử trí trong quá trình chỉ huy trận đánh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp theo tư tưởng Bác Hồ - đã gọi điện cho các binh
chủng thông báo chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh thắng nhanh”
sang “đánh chắc, tiến chắc” và các đơn vị tùy điều kiện cụ thể mà sử dụng binh lực
tiêu diệt, tự giải quyết hậu cần…
Cũng vào thời gian trên, trong thư gửi cán bộ và chiến sỹ Mặt trận Điện Biên
Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: các cán bộ và chiến sỹ ta “Phải chiến đấu anh
dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh:
Quyết tâm tiêu diệt địch; Quyết tâm giữ vững chính sách; Quyết tâm giành nhiều
thắng lợi”. Quyết tâm chiến lược của Đảng, của Bác Hồ, tiêu diệt toàn bộ quân địch
ở Điện Biên Phủ, đã biến thành ý chí và hành động của toàn quân và dân ta. Đúng 17 giờ ngày 13/3/1954, pháo binh
quân đội ta bắn dồn dập vào khu sân bay Mường Thanh và cả 3 cứ điểm của Trung tâm đề kháng ở Him Lam, mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong quá trình
chuẩn bị và tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã đặc biệt chăm lo giáo
dục tinh thần quyết tâm chiến đấu cho bộ đội. Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị bàn
về chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 và quyết định mở chiến dịch Điện
Biên Phủ, Bác đã huấn thị cho cán bộ, chiến sỹ tham gia chiến dịch: “Chiến dịch
này là một chiến dịch rất quan trọng. Các chú phải đánh cho thắng. Tất cả các chú,
cán bộ cũng như chiến sỹ đều phải: Quyết tâm chiến đấu, triệt để chấp hành mệnh
lệnh; Bền bỉ dẻo dai, vượt qua mọi gian khổ, khắc phục mọi khó khăn; Tiêu diệt thật
nhiều địch, giành cho được toàn thắng.” Sức mạnh chiến đấu của quân đội được tạo
thành bởi tổng hợp các yếu tố giữa con người và vũ khí, giữa các nhân tố chính trị
tinh thần với trình độ tổ chức chỉ huy... trong đó nhân tố chính trị tinh thần, trước
hết là ý chí quyết tâm chiến đấu, đóng vai trò rất to lớn.
Bác phân tích một cách sâu sắc rằng: “Quyết tâm của Trung ương chưa đủ,
còn phải để cho các chú cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái khó để truyền cái quyết
tâm đó cho các chú. Trung ương và các chú quyết tâm cũng chưa đủ, mà phải làm
cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sỹ... Quyết tâm đó phải thành một
khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.”
Đồng thời, Bác cũng luôn thể hiện sự quan tâm, động viên, dạy bảo ân cần
đối với cán bộ, chiến sỹ ta từ những vấn đề rộng lớn của chiến tranh và xây dựng vũ
trang nhân dân, đến từng việc làm, cách ứng xử cụ thể trong chiến đấu và trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Còn cán bộ, chiến sỹ ta - những người đã trực tiếp tham gia chiến dịch Điện
Biên Phủ và cũng là những người đã từng được gặp gỡ và tiếp xúc cùng Bác cũng
luôn thể hiện những tình cảm chân thành, lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Bác
Hồ muôn vàn kính yêu.Để kịp thời động viên, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho
quân ta vượt qua khó khăn và đánh thắng quân địch ở Điện Biên Phủ ngay từ trận
mở đầu, ngày 11/3/1954, nghĩa là trước khi quân ta nổ súng tiến công trung tâm đề
kháng Him Lam 2 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các chiến sỹ Mặt trận Điện Biên Phủ.
Người căn dặn: “Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn,
khó khăn, nhưng rất vinh quang… Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi
vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.”
Và, ngay sau khi quân ta tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và đập tan đợt
phản kích của địch hòng chiếm lại Him Lam, ngày 15/3/1954, Bác Hồ lại gửi điện
khen ngợi, cổ vũ và căn dặn toàn thể cán bộ và chiến sỹ ở Mặt trận Điện Biên Phủ:
“Bác và Trung ương Đảng được báo cáo về hai trận thắng đầu tiên của quân đội ta ở
Điện Biên Phủ. Bác và Trung ương Đảng có lời khen các đồng chí. Chiến dịch này
là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa
quân sự và chính trị quan trọng. Địch sẽ ra sức đối phó, ta phải cố gắng, chiến đấu
dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan, khinh địch, giành toàn thắng cho chiến dịch này.”
Trong suốt thời gian diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến
7/5/1954) Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự và chủ tọa nhiều cuộc họp của Bộ Chính 30
trị để nhận định, đánh giá tình hình diễn ra trên mặt trận, chỉ đạo sát sao không chỉ
trên chiến trường Điện Biên Phủ mà trên khắp các mặt trận nhằm phục vụ cho thắng
lợi Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn cho chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ từ việc hoạch định đường lối cứu nước chung đến việc chỉ đạo
từng trận đánh, từng chiến dịch. Là lãnh tụ của dân tộc, đồng thời là người chỉ huy
tối cao của chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ân cần dạy
bảo cán bộ chiến sỹ ta những vấn đề rộng lớn, nói lên những chân lý lớn nhất của
thời đại, những quan điểm cơ bản về chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân, mà còn động viên, chỉ bảo cán bộ, chiến sỹ trong từng chiến
dịch, từng trận đánh, từng việc làm và cách cư xử cụ thể. Người đã truyền cho quân
và dân ta sức mạnh phi thường của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” -
một niềm tin sắt đá, một ý chí “quyết chiến thắng” vượt qua mọi khó khăn nguy
hiểm để giành thắng lợi hoàn toàn. Khi quân ta toàn thắng, Bác đã điện khen ngay
và quyết định tặng huy hiệu “Chiến sỹ Điện Biên Phủ” cho các đồng chí tham gia
chiến dịch lịch sử này. Trong các bức thư và điện gửi cán bộ và chiến sỹ ở Mặt trận
Điện Biên Phủ, Người xác định rõ: “Điện Biên Phủ là một chiến dịch lịch sử của
quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan
trọng.” Người rất vui lòng vì những thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật,
vì bộ đội ta đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt nhiều địch ngoài mặt trận. Người động
viên bộ đội “Phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững
quyết tâm trong mọi hoàn cảnh.” Và như thường lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ
cũng “chờ tin thắng lợi để khen thưởng.”
Theo dõi Điện Biên Phủ, nắm tin tức từng ngày, từng giờ, Hồ Chí Minh đã
đem tới cho cán bộ và chiến sỹ ngoài mặt trận một sức mạnh lớn lao và niềm tin
vào thắng lợi, niềm tin bắt nguồn từ chính Người và lòng tin con người, những cán
bộ chiến sỹ ngoài mặt trận: dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc,
đồng bào vùng địch tạm chiếm…
“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ
và anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược và sự can
thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi
chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới.” (Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Người tin ở sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo của Bộ
Chỉ huy Mặt trận. Người có niềm tin tất thắng vì cuộc chiến đấu của chúng ta là một
cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ nhân phẩm con người, vì nền độc lập, tự do,
hoà bình của nhân loại. Phấn khởi trước sự động viên, cổ vũ của Trung ương Đảng
và Bác Hồ, ngày 30/3/1954, quân ta bước vào đợt tiến công thứ hai của chiến dịch
Điện Biên Phủ, một đợt tiến công kéo dài và ác liệt. Biết bao nhiêu khó khăn, trở
ngại lớn mà quân và dân ta đã gặp phải trong đợt này.
Để khắc phục mọi khó khăn, trở ngại, bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến, Bộ
Chính trị và Bác Hồ kịp thời ra Nghị quyết, chỉ rõ: “Toàn dân, toàn Đảng, và Chính
phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc
cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này.” 31
Được sự chỉ đạo sát sao và được sự giáo dục, động viên, cổ vũ kịp thời của Trung
ương Đảng và Bác Hồ, ngày 7/5/1954, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó
khăn, gian khổ sau 56 ngày chiến đấu liên tục đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp
ở Điện Biên Phủ. Lá cờ “Quyết chiến Quyết
thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng cho quân đội ta tung bay hiên ngang trên nóc hầm sở chỉ huy của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế
giới. Hết sức phấn khởi
trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta, ngày 8/5/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen
ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc - những người trực tiếp làm nên chiến thắng vĩ đại này. Trong thư, Bác
viết: “Quân ta đã giải Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huy hiệu cho các chiến sĩ lập nhiều chiến công trong
phóng Điện Biên Phủ.
chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sỹ, dân công, thanh niên
xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.
Thắng lợi tuy lớn, nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu,
không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc
lập, thống nhất, dân chủ hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng
đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn, Bác và
Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sỹ, dân công, thanh niên xung
phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt.”
10 năm sau, tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3/1964), Bác Hồ đã nói: “...
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ
và anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược và sự can
thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi
chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ
càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Marx-Lenin trong thời đại ngày nay:
chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của
các dân tộc nhất định thành công...”
Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ - nhân loại tiến bộ đã từng hô vang
như vậy. Sợi dây bền chặt liên kết Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ là tư 32
tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - tư tưởng giải phóng con người, lòng
tin vào con người và một niềm tin tất thắng không có gì phá vỡ nổi.
Hồ Chí Minh là linh hồn của chiến dịch Điện Biên Phủ. Tư tưởng “Tướng
quân tại ngoại và đánh chắc thắng” là hành trang của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên
Giáp nơi chiến trường, đem lại một niềm tin-sức mạnh, nguồn cổ vũ lớn lao, là bó
đuốc soi đường đi tới thắng lợi trọn vẹn, vẻ vang. Người không chỉ biết tập trung
mọi nỗ lực để ngăn chặn chiến tranh khi nó chưa xảy ra mà cả khi chiến tranh đã
bùng nổ, Người đã tài tình chỉ đạo, động viên, cổ vũ toàn quân và toàn dân ta ra sức
chiến đấu để giành thắng lợi, Người vừa dàn xếp thương lượng vừa tích cực chuẩn bị kháng chiến.
Và để có một Hội nghị Geneva thắng lợi, Hồ Chí Minh đã cùng với nhân dân
Việt Nam làm nên một Điện Biên Phủ có sức chấn động toàn thế giới.
12. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng miền Nam
Sau khi giành thắng lợi Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở lại
thủ đô Hà Nội và cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh ở miền Nam, thống nhất nước nhà. Mặc dù lúc đó
Người đang cùng nhân dân miền Bắc tiếp tục xây dựng đất nước vững mạnh, hàn
gắn vết thương chiến tranh nhưng Bác vẫn luôn hướng tới dải đất phía Nam Tổ
quốc, nơi mà không mấy may mắn khi vẫn còn phải gồng mình lên chống lại Mĩ -
một đế quốc có thể nói rằng là hùng mạnh nhất lúc bấy giờ. Người nói rằng: “Một
ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc diễn ra trong bối cảnh
tương quan so sánh lực lượng chênh lệnh rất lớn giữa hai phía. Trong khi Mỹ là một
quốc gia tư bản, có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn mạnh nhất thế giới, thì Việt
Nam là quốc gia nông nghiệp nghèo nàn, kinh tế lạc hậu. Điều duy nhất mà chúng
ta có lợi khi bước vào cuộc chiến đó là tính chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Cuộc
kháng chiến của dân tộc Việt Nam là chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc
và thống nhất đất nước, nên nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân tiến
bộ và các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới. Đó là một lợi thế tinh thần vô
cùng quan trọng, mà kẻ đi xâm lược không bao giờ có được.
Tuy nhiên, sau khi miền Bắc được giải phóng, những di tồn của chế độ cũ,
cùng hậu quả của hàng trăm năm đô hộ, xâm lược của thực dân Pháp và tâm lý
hưởng thụ, ngại khó khăn, gian khổ đã xuất hiện trong một bộ phận thanh niên. Đặc
biệt, trước những tác động của tình hình trong nước và thế giới, với âm mưu và
hành động ngày càng quyết liệt của đế quốc Mỹ và tay sai, cuộc kháng chiến càng
đi vào giai đoạn khó khăn, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhất là thanh niên đã
có những diễn biến phức tạp. Một bộ phận thanh niên có tư tưởng bi quan, hoài
nghi, thiếu phấn khởi và tin tưởng ở tiền đề thắng lợi của cách mạng, từ đó dẫn đến
những lệch lạc, khi tả, khi hữu trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Tư tưởng sợ Mỹ, không dám đánh Mỹ đã xuất hiện không chỉ trong
một bộ phận quần chúng nhân dân, mà có cả thanh niên. Tình hình đó đặt ra yêu cầu 33
mới đối với Đảng trong cuộc vận động thanh niên cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong bối cảnh đó, việc giúp thanh niên xác định được lý tưởng, sống có lý
tưởng, nhận thức được ý nghĩa của lý tưởng đối với cuộc sống, để vươn lên ngang
tầm yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử, từ đó cụ thể hóa thành hành động cách mạng là một
nhiệm vụ quan trọng. Đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam lúc này, lý tưởng của
thanh niên chính là khát vọng được cống hiến tuổi xuân, sức trẻ, sẵn sàng xả thân,
hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc, thống nhất nước
nhà, là đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Về vấn đề này,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã
cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm
thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh
phấn đấu chừng nào”, đề cao khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Tất
cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”.
Khi đã xác định được tư tưởng, vấn đề còn lại là sử dụng các hình thức, biện
pháp, khẩu hiệu để khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của thanh niên
cho cuộc kháng chiến. Năm 1965, Mĩ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, tạo
ra cục diện cả nước có chiến tranh. Với trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc, bằng
nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mĩ
trên phạm vi cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Lúc này chống Mĩ, cứu nước
là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước... Tất cả chúng ta
hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”.
Người chỉ rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.
Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Lời kêu gọi
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lay động tới
trái tim, thúc giục, hiệu triệu, đoàn kết toàn dân, toàn quân Việt Nam, trong đó có
thanh niên biến lòng yêu nước, căm thù giặc thành những việc làm, hành động cụ thể.
Năm 1965 cũng là lúc mà Bác nhận thấy rằng sức khoẻ đã ngày càng yếu đi.
Nhưng trước khi từ giã cõi đời, Bác còn có một nguyện vọng cần phải thực hiện, đó
là được đích thân đi vào miền Nam để lãnh đạo và động viên tinh thần kháng chiến
đi đến thắng lợi. Điều đó đã được Người đề cập đến trong bức thư mà Người gửi
đồng chí Lê Duẩn ngày 10/3/1968. Và trong bức thư này, Người đã đề ra lịch trình
cụ thể, rõ ràng để có thể vào thăm đồng bào miền Nam. Nhưng lúc này, sức khoẻ
của Bác ngày càng suy yếu và cuộc chiến giữa 2 đất nước đang diễn ra ác liệt, gay
go, chính vì vậy, các đồng chí của Bộ Chính trị đã khuyên Bác hoãn lại chuyến đi
này. Mặc dù không thể đi vào thăm đồng bào miền Nam nhưng Bác vẫn luôn theo
sát từng bước chân của cách mạng miền Nam.
Tự nhận thức được rằng sức khoẻ của mình không còn đảm bảo để thực hiện
chuyến đi vào thăm đồng bào miền Nam, Bác đã bắt đầu viết bản di chúc. Và kể từ
đó, vào các dịp sinh nhật của Bác vào năm 1966, 1967, 1968, 1969, Bác đều dành
thời gian để xem xét và sửa lại bản di chúc này. Trong đó, ở phần Về việc riêng, Bác
có nói rằng: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để 34
khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của
nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài của tôi
được đốt đi, tức là hoả táng, tro chia
làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành, 1
hộp cho miền Bắc, 1 hộp cho miền
Trung và 1 hộp cho miền Nam”.
Nhưng sau khi Bác qua đời, các đồng
chí Bộ Chính trị đã xin với Bác là
không thực hiện theo mong ước này
của Bác mà muốn giữ gìn lại thi hài
của Bác để sau này đồng bào cả nước,
đặc biệt là đồng bào miền Nam và
những người con xa xứ có điều kiện tới
viếng và tưởng nhớ tới Người. Bản di
chúc cũng chính là những lời căn dặn
tâm huyết cuối cùng của Bác đối với
nhân dân Việt Nam có một niềm tin
vào Đảng, đất nước sau này. Khi Bác
viết di chúc thì cũng là lúc cuộc chiến
tranh giữa Việt Nam và đế quốc Mĩ
đang diễn ra căng thẳng, nhưng Bác
luôn có 1 niềm tin vào cách mạng Việt
Nam. Điều chủ chốt Bác căn dặn lại là
xây dựng Đảng, xây dựng đất nước sau
này được cô đọng lại trong 2 câu thơ:
Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Là 1 vị cha già vĩ đại, chủ tịch Hồ Chí Minh rất được người dân, cả trong nước và
quốc tế, yêu mến, nhưng Bác cũng không thể tránh khỏi sinh lão bệnh tử. Vào đúng
ngày quốc khánh của dân tộc, ngày
Bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1969
2/9/1969, Bác đã qua đời ở tuổi 79 sau nhiều ngày ốm nặng. Đây là những ngày đau
thương nhất của nhân dân Việt Nam, như Tố Hữu đã viết:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Và hơn 22.000 bức thư cũng như các dải băng tang đã được gửi tới để chia buồn với
nhân dân Việt Nam. Tang lễ của chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được tổ chức ở
Việt Nam mà còn được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới.
Sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, chúng ta lúc đó vẫn phải đương đầu
kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Để thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân 2 miền đã làm nên thắng lợi, đầu tiên là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên
không”. Với chiến thắng này, đế quốc Mĩ buộc phải kí hiệp định Pa-ri về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở miền Nam. Với hiệp định Pa-ri, đế quốc Mĩ buộc
phải rút hết quân khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, chế độ nguỵ vẫn còn, nên nhân dân 2 35
miền đã đoàn kết đấu tranh “đánh cho Mĩ cút, đánh cho nguỵ nhào” và làm nên
thắng lợi cuộc tổng tiến công xuân 1975.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời hi sinh vì đất nước, vì nền độc
lập tự do cho nhân dân Việt Nam. Kể cả khi đã trở thành chủ tịch nước nhưng
Người dường như không có gì cả. Tài sản của Bác chỉ là chiếc quạt bằng lá cọ, đôi
dép cao su và bộ quần áo kaki… Ngay một người nông dân chân lấm, tay bùn cũng
có mảnh vườn, cái ao, hay chí ít là con gà, con lợn. Và, ngay cả trong cõi riêng tư,
Người cũng là người nghèo nhất. Một người nghèo nhất nước như Bác, nhưng để
lại cho chúng ta một di sản đồ sộ - đó là một đất nước độc lập, toàn vẹn, một ý chí cách mạng chói ngời. 36 C. Kết luận
Tuy nhiều năm đã trôi qua sau những chiến thắng lịch sử trong thời đại Hồ
Chí Minh vẫn còn vang mãi trong tim của mỗi con người Việt Nam. Sự hy sinh của
bao vị anh hùng , những người lính, những người thể hiện rõ lòng yêu nước, sự kiên
cường, bất khuất, niềm khao khát tự do của nhân dân ta thời bấy giờ. Dù thời đại Hồ
Chí Minh qua đi nhưng Hồ Chí Minh vẫn để lại nhiều bài học quý giá cho chúng ta,
Từ những cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc, chúng ta tin tưởng rằng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là tài sản
vô giá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, mãi mãi là niềm tự hào, nguồn cổ
vũ to lớn đối với các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, là ánh sáng soi
đường cho cách mạng Việt Nam đạt được những kỳ tích vẻ vang hơn nữa để đưa
dân tộc đi tới tương lai tươi sáng. D. Tài liệu tham khảo
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/nhung-cong-hien-cua-chu-tich-ho-chi-
minh-la-tai-san-vo-gia-doi-voi-cach-mang-viet-nam-555041.html
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/boi-canh-quoc-te-va-trong-nuoc-khi-nguyen-
tat-thanh-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc-70314.html
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/349-boi-canh-
lich-su-va-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-cua-ho-chi-minh.html
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-
minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-doi-moi-sang-tao-cua-chu-tich-ho-
chi-minh-trong-thoi-ky-moi-3817
https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Chinh-tri/1012028/thoi-dai-ho-chi %C2%A0minh
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm %3Apath
%3A/camaulibrary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/lichsuvhtlnc/dfgff dtter634
https://baoquangninh.com.vn/thoi-dai-ho-chi-minh-la-thoi-dai-ruc-ro-nhat-
trong-lich-su-dan-toc-viet-nam-2270147.html
https://baophutho.vn/chinh-tri/mot-thoi-dai-mang-ten-ho-chi-minh/172770.htm
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm %3Apath
%3A/camaulibrary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/lichsuvhtlnc/dfgff dtter634 37
https://baotanghochiminh.vn/chu-tich-ho-chi-minh-voi-chien-dich-dien-bien- phu.htm
https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/ngay-nay-nam-xua/ngay-7-5-1954-chien-dich-
dien-bien-phu-gianh-thang-loi-692499
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-
lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/chien-dich-lich-su- dien-bien-phu-538543.html
https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/ky-niem-68-nam-chien-thang-
dien-bien-phu-7-5-1954-7-5-2022-ban-linh-tri-tue-viet-nam-693702
http://dinhtang.yendinh.thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/2020-4-20/Chao-mung-
dai-thang-30-4-1975--30-4-2020--dau-an-lejtprt.aspx

https://www.qdnd.vn/50nam-tong-tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-
than1968/danh-gia-phan-tich/cuoc-tong-tien-cong-va-noi-day-tet-mau-than-
1968-trong-tien-trinh-lich-su-viet-nam-532112

https://tuoitredhdn.udn.vn/chu-tich-ho-chi-minh/cuoc-doi-va-su-nghiep-
cmbs1p43tj/9-dau-an-lon-trong-cuoc-doi-cua-chu-tich-ho-chi-minh-956.html
https://bvhttdl.gov.vn/cuoc-doi-va-su-nghiep-cach-mang-ve-vang-cua-chu-tich-ho- chi-minh-20201026145330541.htm 38