Những đặc trưng của giáo dục Việt Nam - Giáo dục học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến là một chủ đề thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này thường tập trung làm rõ một lát cắt như: Nội dung giáo dục; Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ISSN: 1859- 2171
e-ISSN: 2615-9562
TNU Journal of Science and Technology
209(16): - 86 92
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn 86
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM
THỜI KỲ PHONG KIẾN
Trần Thị Diệu Linh
Trườn đẳng Kinh tế Tài Chính Thái Nguyên
TÓM TẮT
Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến một chủ đề quan tâm, nghiên cứu của nhiều
học giả. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này thường t àm rõ một lát cắt như: Nội dung giáo
dục; Hình thức khoa cử; Hệ thống trường lớp…H ghiên cứu tổng hợp những đặc trưng của
giáo dục nước ta thời kỳ phong kiến. Với ph p tổng hợp, phân tích tác giả đã khái quát
những mặt tích cực và hạn chế của nền giáo Nam thời kỳ phong kiến. Nghiên cứu này có
ý nghĩa như một nghiên cứu khái lược, l cho các nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục Việt
Nam trong từng triều đại của chế độ p .
Từ khóa: Giáo dục Việt Nam thời ến; giáo dục Nho học; chế độ thi cử thời phong kiến;
mặt tích cực giáo dục thời phon ặt hạn chế giáo dục thời phong kiến.
Ngày nhận Ngày hoàn thiện: bài: 19; 18/12/2019; Ngày đăng: 26/12/2019
CHARAC TICS OF VIETNAM EDUCATION IN FEUDAL TIMES
Tran Thi Dieu Linh
Thai Nguyen College of Economics and Finance
ABSTRACT
Vietnam Education in feudal times was a topic that attracted the attention and research of many
scholars. Studies often focus on clarifying an aspect such as: Education content; Form of
examination; System of schools and classrooms ... there is very little, overview study of the
characteristics of Vietnam Education In feudal times. With the aggregate method, the author has
generalized the positive and limited aspects of Vietnam Education In feudal times . This study is
meant as a brief study, which is the basis for -depth studies on Vietnamese education in each in
feudal dynasty.
Keywords: Vietnam education in Feudal times; confucian Education; feudal exam regime; the
positive side of feudal education; limitations of feudal education.
Received: 12/11/2019; Revised: 18/12/2019; Published: /12/2019 26
Email: tranthidieulinhbdmn@gmail.com
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
209 16 92( ): - 86
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
87
1. Đặt vấn đề
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội, luôn được quanm
ng đầu vì ảnh ởng đến sự tồn vong,
ng thịnh của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên,
trong mỗi thời kỳ lịch sử, giáo dục lại có những
dấu ấn riêng biệt với những nội dung, phương
pháp và các chính sách đặc trưng.
Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến, bắt
đầu từ khi Ngô Quyền khởi dựng nền độc lập
đến khi thực dân Pháp xâm lược đất nước
Dấu ấn giáo dục đặc trưng của thời kỳ
giáo dục Nho học. Mục tiêu là dạ c
theo lý tưởng của Nho giáo: “Tu gia,
Trị quốc, Bình thiên hạ”.
Nội dung này đã trở thàn nghiên cứu
của nhiều học giả. Các nh nghiên cứu
đã tập trung vào m cạnh cụ thể của
giáo dục Việt ời phong kiến như
nghiên cứu về thi cử thời phong kiến;
Nghiên c thống tổ chức trường,
lớp…mà chư đề tài nào phân tích, tổng
hợp đặc trưng bản của nền giáo dục Việt
Nam thời phong kiến.
Với phương pháp phân tích, tổng hợp, tác giả
tập trung làm sáng tỏ những mặt tích cực và hạn
chế của giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến.
2. Nội dung nghiên cứu
Trong buổi bình minh của lịch sử nước ta,
thời đại các Vua Hùng, vua Thục, trong xã hội
chưa việc tổ chức dạy và học. Ngay cả
trong gần 1000 năm chính quyền phương Bắc
đô hộ, giáo dục Việt Nam bị kìm hãm trong
chính sách đồng hóa thâm hiểm của chính
quyền đô hộ, giáo dục chỉ hướng vào đối
tượng kế tục, phục vụ cho bộ máy cai trị, nhân
dân không có cơ hội và điều kiện học tập.
Giáo dục Việt Nam có những bước đi đầu tiên
từ khi Ngô quyền khởi dựng nền độc lập. Tuy
nhiên, trong thời gian đầu (938 1009), do
tình hình kinh tế, chính trị, hội không ổn
định, triều đình lại phải lo chống thù trong,
giặc ngoài nên các triều đại Nhà Ngô, nhà
Đinh nhà Tiền Lê, chưa điều kiện quan
tâm, tổ chức học tập, thi cử để lựa chọn nhân
tài cho đất nước. Giáo sư, viện Phạm Minh
Hạc đã đánh giá: “Đến thời kỳ độc lập dân
tộc, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,
việc học được tiến hành trong các trường tư,
trường ch ng chưa phát triển” [1, tr 43].
Từ th đến thời nhà Nguyễn, giáo
dụ Nam đã những bước phát triển
ong nền giáo dục ấy đã tồn tại cả
g yếu tố tích cực và những hạn chế.
.1. Những mặt tích cực của nền giáo dục
và đào tạo ở Việt Nam thời phong kiến
2.1.1. Về mục đích của dạy và học
Nho giáo một học thuyết chính trị hội,
một trường phái tư tưởng rất coi trọng giáo
dục “Hữu giáo loại” giáo dục cần thiết
cho tất cả mọi người, triết giáo dục Nho
giáo xem trọng người hiền tài. Vận dụng
chủ trương giáo dục của Nho giáo, các triều
đại phong kiến Việt Nam từ triều đại nhà
đến triều đại nhà Nguyễn đã mở rộng hội
học tập, chú trọng lựa chọn người thực
học, thực tài ra đảm nhận công việc triều đình
thông qua thi cử với trường quy rất nghiêm
ngặt. Chính điều này đã tạo động lực, niềm
đam học tập trong hội. Các tử đã
không quản gian khó, ngày đêm dùi mài kinh
sử, mong ngày đỗ đạt, thậm chí người
dành gần như trọn cả đời để đi học thi:
“Nhân tâm nước mình say bia đá bảng
vàng, cố sức dùi mài truyện hiền, kinh thánh,
có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều
chiếu để đua ganh với bọn thiếu niên” Nhiều .
thanh niên, trai tráng lấy việc học tập, thi cử
làm mục tiêu cao nhất trong cuộc đời mình.
thể khẳng định, mục đích giáo dục của
Nho giáo thực sự đòn bẩy thúc đẩy tinh
thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi đắp
nguyên khí cho quốc gia trong mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử giáo dục dân tộc.
2.1.2. Về nội dung dạy và học
Nội dung giảng dạy bản của giáo dục Việt
Nam trong thời phong kiến Tứ thư Ngũ
kinh. Nội dung của bộ sách chủ đạo này được
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
88
áp dụng trong giáo dục nhằm hướng con
người đến làm sáng cái đức sáng của chính
mình, làm mới cho dân, an trụ ở nơi chí thiện
đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, thực
hành đạo quân tử… Nội dung dạy và học này
đã tạo ra những điểm mạnh cho giáo dục.
Giáo dục thực sự công cụ hữu ích để tu
thân, đào tạo ra những con người lý tưởng, có
sự hoàn thiện cả về đạo đức, nhân cách cũng
như tri thức, lối sống.
Bên cạnh việc giáo dục đào tạo quan v
theo Nho học, các triều đại phong ki
Việt Nam ng đã chú trọng tổ ch
tập, thi tuyển đội ngũ quan đ ào
các đội quân.
Dưới thời vua Lý Nhân Tôn áng từ 18
tuổi trở lên sẽ được tuyể g quân. Dưới
thời vua Anh Tôn vua còn tập bắn
cung, cưỡi ngựa, c quan tập đánh trận
phá trận. Đ nhà Trần, đào tạo
luyện tập võ củ hơn. Nhà Trần cho lập
Giảng đ để luyện tập nghệ. Để
củng cố và nâng cao chất lượng quân đội, nhà
đã chú ý tổ chức dạy các môn nghệ
định lệ thi cử để tuyển chọn những người tinh
thông võ nghệ. Việc dạy và học võ nghệ dưới
thời rất đơn giản, chưa đặt ra các trường
học chưa tổ chức thi theo chương trình.
Đến thời Trung Hưng, phỏng theo phép
của các Vương triều bên Trung Quốc, ông đã
cho thi để tuyển nhân tài. Vào năm 1721,
Chúa Trịnh Cương đã cho mở trường dạy
và đặt chức quan Giáo thụ để dạy võ nghệ, võ
kinh cho con cháu các quan. Việc học thi
võ dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh đã được triều
đình định thành lệ, cấp bằng người đỗ
đạt được hưởng quyền lợi như những người
đỗ đạt trong các kỳ thi Nho học. Dưới thời
Trung Hưng, lần đầu tiên nước ta thi chọn
tiến khoa, gọi thi Bác cử. Đến triều
Nguyễn, đến đời vua Minh Mạng mới chính
thức đặt ra việc dạy và thi võ học.
Nội dung dạy học ngày càng hoàn thiện
qua các triều đại phong kiến ở nước ta.
Nhưng tựu chung lại, giáo dục Việt Nam thời
kỳ này vẫn tập trung dạy chữ “Lê” chữ
“Văn”. Chữ "Lễ" luôn nhắc nhở người dân
rằng phải học lễ độ, thân ái, hòa thuận với
mọi người, tôn trọng trật tự, lễ kính với người
già phải trên dưới ràng. Còn chữ
"Văn" nh con người phải học hành để
thành i đức.
Vớ ung dạy học, văn ôn, luyện,
c tu dưỡng đã đào tạo ra những con
i tưởng, sự hoàn thiện cả về đạo
ức, nhân cách cũng như tri thức, lối sống -
nguồn lực quan trọng nhất trong mọi hoàn
cảnh lịch sử dựng nước và giữ nước.
2.1.3.Về phương pháp dạy và học
Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến chủ
yếu vẫn sử dụng các phương pháp kinh viện,
giáo điều. Trong giáo dục tri thức ch yếu
thày giảng giải, trò ghi nhớ, học thuộc lòng
bằng cách ngày đêm dùi mài kinh sử. thời
kỳ phong kiến, chỉ dạy trẻ cách học thuộc lòng
chớ không cốt cho trẻ luyện tập suy nghĩ.
Lớn thêm ít tuổi cho học câu đối, học thơ, học
phú…Từ nhỏ cho đến lớn, người học chỉ học
hai khoa luân văn chương. Học hai
khoa bản y để n luyện tri thức, rèn
luyện các quy tắc ứng xử trong quan hệ giữa
người với người để tạo ra một xã hội hài hòa.
hội phong kiến chế độ hội khắc,
trong quá trình giáo dục, các giáo quan và các
nhà Nho đã duy trì kỷ luật bằng roi vọt. Học
trò không học bài, học không tập trung… các
giáo quan, nhà nho sử dụng roi vọt để răn đe.
Nhưng để sử dụng được uy lực của đòn roi
với học trò, người thầy trong hội này luôn
có cái tâm sáng. Chẳng thế mà sau khi trưởng
thành, không ít người lại thấy biết ơn những
trận đòn của thầy ngày bé. Nhưng học sinh
xưa bị đánh cũng không phản kháng, đơn
giản chúng thấy tâm phục khẩu phục thày.
Đây là một đặc điểm của các trường học thời
phong kiến kể cả trường công và trường tư.
Còn trong đạo đức thì chủ yếu phương
pháp nêu gương. ái uy của người Cái tâm, c
Thày và sự lễ nghi, phép tắc của các nho sinh
là những bài học giá trị cho các thế hệ học trò
học tập và noi theo.
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
209 16 92( ): - 86
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
89
2.1.4. Hệ thống trường, lớp
Trong hội thời phong kiến, hệ thống nhà
trường tương đối đa đạng đáp ứng được
nhu cầu học tập của xã hội.
Vài thập kỷ đầu dưới thời vua Lý Thái Tổ, Lý
Thái Tông, các chùa lớn trở thành trung tâm
học tập kinh sách nhà Phật cũng như học kiến
thức Nho giáo. Chính vậy, triều đình cho
xây dựng rất nhiều chùa lớn, nhiều người qua
nhà Chùa mà học hành thành tài. Việc dạy học
cho con em nhân dân cũng do nhà chùa đ
nhiệm. Các vị pháp lúc ấy không
những người có học thức cao mà còn ò
chính trị to lớn. Nhà chùa đã đào t một
đội ngũ trí thức có đủ khả năn đương
công việc đối nội và đối ngo hà nước.
Đề cao Nho học, tỏ ọng học, năm
1070, Thánh T o xây dựng Văn
Miếu ở kinh đô T ng để thờ Khổng Tử
nơi đây ường học đầu tiên trong
hệ thống g Việt Nam.
Tại địa phươn , nhà Vua cho lập các Văn chỉ
để làm nơi thờ tự Khổng Tử, khuyến khích
việc học tập tại làng, xã. Đến năm 1076, vua
Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám
làm nơi học tập của con em tầng lớp quý tộc,
quan lại và những người ưu tú.
Từ khi Quốc Tử Giám được lập thì đây
trường công điển hình nhất, danh g nhất,
được đầu nhiều nhất về chất lượng,
được lập kinh đô. các Triều đại phong
kiến khác nhau sự thay đổi tên gọi như
Quốc học viện, Nhà Thái học… thì đây vẫn là
nơi đội ngũ thày giỏi, các nhà nho danh
tiếng, thư viện nhiều sách, thậm chí cả
sách quý hiếm cho người học nghiên cứu, nơi
ăn chốn thuận lợi cho người học, nhà nước
chu cấp học bổng. Tuy nhiên chế độ tuyển
sinh rất chặt chẽ, phụ thuộc nhiều vào nguồn
gốc xuất thân của Nho sinh. Cùng với Quốc
Tử Giám, Triều đình tổ chức trường học công
cho con em quan lại và hoàng thân quốc thích
gồm: Sùng văn quán, Nho lâm quán
lâm cục.
Hệ thống trường công triều đình ngày càng
được hoàn thiện, tăng cường giáo dục cho con
em quan lại. Nhưng các triều đại phong kiến
chưa chú trọng xây dựng hệ thống trường
công ở các đ a phương. Lần đầu tiên nhà Trần
cho mở t công lập phủ Thiên Trường
năm 1 đó đến hơn 100 năm nhà Trần
khô nhà học ở các địa phương nữa. Đến
7, đời vua Trần Thuận Tông mới cho
ại trường công địa phương. Như vậy,
n đầu hệ thống trường học chủ yếu vẫn chỉ
được mở triều đình, phục vụ quá trình học
tập của con em quan lại và những người giàu
có, giáo dục công chưa đáp ứng được nhu cầu
học tập của nhân dân. Theo gương nhà Trần,
các triều đại phong kiến nước ta sau này đều
lần lượt mở rộng hệ thống trường công địa
phương phục vụ quá trình học tập cho nhân dân.
Bên cạnh hệ thống trường công do nhà nước
tổ chức thì còn một bộ phận trường tư. Do
một số người dân không điều kiện được
tham gia các lớp học trường công bởi chế
độ tiêu chuẩn về người học nên họ tham
gia học các trưng tư. Thời phong kiến,
không có quy định vmở trường tư nên người
nào biết chữ, ít hay nhiều đều thể mở
trường dạy học. Trường sở thể nhà của
thày hoặc nhà của một học trò bố mẹ giàu
mời thày về mở lớp dạy. Việc học khai tâm
cho trẻ em hoàn toàn do các trường phụ
trách. Nhờ các trường việc học tập
đã về đến tận các thôn, xóm. Đến thời nhà
Tây Sơn, nhà học đã được lập đặt
chức quan giảng dụ để dạy học ở xã.
Với hệ thống trường công trường như
vậy, môi trường học tập của các Nho sinh
của con em nhân dân ngày càng được mở
rộng. Một tỷ lệ khá đông trẻ em dưới thời
phong kiến đều vài năm cắp sách đi học,
biết được một ít chữ Nho, đọc thuộc lòng
được một vài câu “Thánh hiền” để biết đạo
làm người. Nhờ hệ thống giáo dục cả
trường công trường “đạo thánh
hiền” đã ảnh hưởng không nhỏ tới đông đảo
nhân dân ta.
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
90
2.1.5. Về chế độ thi cử
Vua Thánh Tông viết: “Muốn nhân tài,
trước hết phải chọn người học, phép chọn
người có học thì thi cử là đầu” [2, tr 148]. Thi
cử chính sở để lựa chọn nhân tài, gánh
vác công việc đất nước, có ý nghĩa quan trọng
trong phát huy “nguyên khí” quốc gia. Chế độ
khoa cử chính sách sử dụng nhân tài của
các triều đại phong kiến đã tạo điều kiện cho
các đời vua chúa giữ gìn xây dựng non
sông đất nước với sự cống hiến của các
công thần tận trung với vua, với nước.
Dưới thời nhà Ngô, nhà Đinh đầu
Lý chưa có khoa cử.
Khoa thi Nho học đầu tiên tro sử giáo
dục nước nhà khoa thi nh bác
(năm 1075) do triều đ tổ chức.
Triều đại nhà Lý đã k nền khoa cử của
Việt Nam, từ nền sở luận cho
đến cả diện mạ ặt tổ chức giáo dục
thi cử Nho uổi ban đầu. Tuy nhiên,
việc thi cử d hời nhà Lý không định thành
luật lệ theo những năm nhất định, lúc cần thì
thi, không thì thôi. Bên cạnh suy tôn Nho
giáo, nhà coi trọng Phật giáo và Lão giáo.
Vì Nho giáo chăm lo tổ chức xã hội, Đạo giáo
chăm lo thể xác con người, Phật giáo chăm lo
đời sống tâm linh con người. Năm 1195,
Cao Tông mở khoa thi Tam giáo để chọn
người tinh thông cả ba đạo: Phật giáo, Lão
giáo và Nho giáo.
Đến thời nhà Trần, việc thi cử đã luật lệ,
quy chế thi cử khá đầy đủ và được tổ chức quy
củ, hạn kỳ mở các khoa thi tương đối đều.
Dưới triều đại nhà Trần, triều đình mở khoa
thi cao nhất gọi là thi Thái học sinh với 3
hoặc 4 trường ( 4 kỳ): Trường/kỳ nhất: Thi
ám tả; Trường/ kỳ hai: thi kinh nghĩa Thơ
phú; Trường / k ba: Thi chế, chiếu, biểu;
Trường / kỳ bốn: Thi văn sách. Theo các nhà
nghiên cứu, thực chất thi Thái học sinh chỉ
công việc của trường, của nhà Quốc học. Tuy
nhiên triều đình vẫn đứng ra tổ chức để đảm
bảo tính chất quốc gia của học vị Thái học
sinh [2, tr 133].
Triều đại nhà Trần đã tổ chức khoa thi tiến sĩ
đầu tiên nước ta - thi Đại tthủ (kỳ thi
này chỉ tổ chức một lần). Như vậy, cùng
với việc xây dựng Văn Miếu ở kinh đô Thăng
Long, triều đại nhà Trần đã cắm mốc cho sự
nghiệp chấ ng giáo dục ở nước ta.
Từ thi cử của các triều đại phong
kiến am bắt đầu phân ba khoa thi:
Hội, Đình. Ai đỗ được bốn trường
thi Hội được gọi là , được dự thi cử nhân
ái học sinh (Thi Hội) năm sau. Ai trúng thi
Thái học sinh thì thi một bài văn sách nữa để
định cao thấp (tức thi Đình). Thi Hội đỗ mới
chỉ được công nhận chưa phải trúng cách,
tiến . Thi Đình mới sắp xếp ban cấp
các loại học vị. thi Đình, vua người trực
tiếp ra đề bài.
Các triều đại phong kiến từ nhà Trần trở đi,
thi cử có nhiều loại khoa thi khác nhau nhưng
đều tựu chung qua ba hội thi chính: Thi
Hương, thi Hội, thi Đình để chọn người tài
phục vụ cho triều đình và đất nước. Tất cả các
khoa thi này đều đặc điểm chung do
triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Công
việc tổ chức thi rất nghiêm ngặt. Trong các kỳ
thi, các triều đại phong kiến đều hết sức
phòng ngừa gian lận trong thi cử. Khi bị phát
giác hành vi gian lận người vi phạm sẽ bị
xử lý rất nghiêm, có thể bị bắt làm nô lệ, bỏ tù
cho đến xử án tử. Những người “tì vết” về
đường học hành thi cử thì đường tiến thân coi
như khép lại. Tổ chức thi cử chăt chẽ, hình
thức xử nghiêm minh những gian lận
chứng tỏ năng lực quản đối với hệ thống
giáo dục của các triều vua từ Lý, Trần đến Lê,
Nguyễn rất cao.
Các triều đại phong kiến nhà Trần đã rất chú
trọng đến điều kiện học tập của Nho sinh khi
tham gia thi. Đây là một yếu tố rất quan trọng
thể hiện sự công bằng trong giáo dục, thi cử.
Căn cứ vào điều kiện học tập không đồng đều
giữa các địa phương, nhà Trần đã quy định
một kỳ thi hai trạng nguyên: Kinh trạng
nguyên cho khu vực thuận lợi Trại trạng
nguyên cho khu vực khó khăn. Đây là một bài
học ý nghĩa quan trọng tạo sự công bằng
trong giáo dục và đào tạo sau này.
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
209 16 92( ): - 86
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
91
Ngoài các kỳ thi văn, các triều đại phong kiến
còn tổ chức các kỳ thi khác. Năm 1227 Nhà
Trần tổ chức thi Tam giáo. Năm 1261, vua trần
Thánh Tông mở khoa thi Thái Y để tuyển
người tinh thông y học. Đến thời nhà Hồ, đưa
môn toán pháp vào kỳ thi thứ năm. Việc đưa
môn toán Pháp vào thi Hương là một điểm mới
mà chưa có triều đại nào ở nước ta làm được.
Chính những yếu ttích cực của thi cử dưới
triều đại nhà Trần tạo nền móng thi cử cho
các triều đại phong kiến sau này. Các tri
đại phong kiến sau này về bản p
theo lối thi cử của triều Trần.
Triều nhà Mạc triều đại tổ ch ình,
lấy tiến đều đặn nhất l đại duy
nhất trong lịch sử khoa bả học Việt
Nam có phụ nữ giả trai đỗ tiến sĩ, đó
là bà Nguyễn Thị Du
Khi thực dân Phá h đô hộ ở Việt Nam,
hội ta thàn i thuộc địa nửa phong
kiến thì k bị bỏ, chúng ta phải theo
theo nền giáo c của người Pháp.
2.2. Những mặt hạn chế của nền giáo dục
và đào tạo ở Việt Nam thời phong kiến
2.2.1. Đối tượng học tập
tưởng Khổng giáo về đối tượng được học
chữ thánh hiền cũng ảnh hưởng sâu đậm đến
giáo dục Việt Nam thời phong kiến. nước
ta thời kỳ này, việc học hành chính quy chỉ
dành riêng cho nam giới, gần như thành lệ,
chỉ nam giới mới được học chữ thánh hiền.
Tuy trong xã hội có một số ít con gái nhà nho,
nhà quý tộc, cung phi trong triều đình được
học tập, nhiều người rất thông minh, giỏi
giang hay chữ nhưng chưa có một phụ nữ nào
được đi thi Hương, thi Hội trừ bà Nguyễn Thị
Duệ ( Thời nhà Mạc) đã giả trai đi thi đỗ
Tiến sĩ. Chính điều này đã tạo ra một bất bình
đẳng giới, hạn chế tài năng của người phụ nữ
trong hội phong kiến, trói buộc người phụ
nữ vào lễ giáo phong kiến. Đây cũng chính là
rào cản, ảnh hưởng tới lộ trình giải phóng
người phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới trong xã
hội thời nay.
Nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến từng
bước được mở rộng và chính quy nhưng chưa
phải nền giáo dục giành cho đại chúng. Đối
tượng được học tập thi cử chủ yếu vẫn là
con em quan lại, quý tộc, con em nhà nông cơ
bản chưa tham gia thi do điều kiện
học tậ ế.
2.2 đích, động cơ học tập
ơ và mục đích của dạy học thời
ng kiến bên cạnh yếu tố tích cực thúc đẩy
on người lòng ham học, hiếu học thì động
mục đích học thời ấy cũng chứa đựng yếu
tố hạn chế, mục đích chính của đa số Nho sinh
ở nước ta chỉ đặt cho mình mục đích học để đi
thi, thi đỗ ra làm quan để vinh thân phì gia. Đạt
được mục đích đó thì xem như việc học tập đã
kết thúc. Ít người chí cao xa, như học để
tham gia tranh luận những vấn đề học thuật,
học để kinh bang tế thế hoặc để phát triển văn
hoá, đạt đến những tầm cao tư tưởng.
Các Nho sinh chưa chú trọng việc học nghề,
điều đó đã làm cho Việt Nam thời phong kiến
thiếu “nghệ tinh” phục vụ quá trình lao động
sản xuất. Các quá trình sản xuất chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm của nhân dân, điều này cản
trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội
nước ta thời gian sau đó. Giáo Phan Ngọc
đã nhận xét rất đúng là: “Khuyết điểm nặng
nhất trong quan điểm học ngày xưa ngoài
học các từ chương ra, Việt Nam trong thời
quân chủ không có trường dạy nghề, mà điều
làm cho một nước giàu “nghệ tinh”,
không phải thơ phú. Chính lối học này tạo
nên cho chúng ta cái bệnh “Thích làm quan”
cách làm quan là “nói cho hay”, điều cản
trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội,
chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên kỹ thuật,
trên “nghệ tinh” [3, tr 500].
2.2.3. Nội dung môn học
Tất c các triều đại phong kiến Việt Nam,
việc dạy và học vẫn xoay quanh lý tưởng của
Nho giáo, bao gồm bốn chữ “Tu, tề, trị, bình”,
“văn tải đạo”, chỉ chú trọng "trí dục"
"đức dục" chưa chú trọng rèn luyện thể,
mỹ điều kiện để phát triển diện con người. -
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
92
Nội dung dạy học chưa chương trình
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, không
chương trình dạy về sản xuất. Tác giả
văn Giang đã nhận xét: “Kiến thức kỹ
năng về sản xuất ra của cải vật chất chưa trở
thành nội dung của giáo dục” [4, tr.16] Chính
điều này đã hạn chế sự phát triển sản xuất của
nước ta, dẫn đến Việt Nam hiện nay vẫn
một nước nông nghiệp đang phát triển.
Các Nho Việt Nam tập quán sùng bái
thánh hiền, tiếp thu tín điều từ Nho gi
Trung Hoa một cách máy móc với ph
pháp tư duy bảo thủ đã hạn chế việc t
luận riêng, hạn chế sự xuất hiện c hái
tư tưởng lớn.
2.2.4. Nội dung thi cử
Lối đào tạo thi cử c iều đại phong
kiến Việt Nam đã h lối suy nghĩ độc
lập, bóp nghẹn phán con người của
người học bở đi học đến lúc thi cử
người học luyện theo khuôn khổ Nho
giáo, học tập ch kinh điển của Nho giáo,
trí, tình cảm hành vi đều phải theo “đạo
thánh hiền”.
Thi cử theo khuôn khổ của Nho giáo, duy chỉ
có dưới thời nhà Lê tổ chức thi thư toán chọn
lại điển thi tuyển chọn lương ý; Thời nhà
Hồ, vào năm 1404, tổ chức thi toán. Điều
này đã lý giải vì sao khoa học kỹ thuật ở nước
ta lại chậm phát triển.
3. Kết luận
Ngay sau khi giành được độc lập, các triều
đại phong kiến Việt Nam đã rất coi trọng giáo
dục. Vì đây là biện pháp chủ yếu, hữu hiệu và
thiết thực nhất để đào tạo nhân tài, xây dựng
đất nước.
Trong suốt gần 10 thế kỷ, dấu ấn đặc trưng
của giáo dục Việt Nam dưới các triều đại
phong kiến nền giáo dục Nho học. Giáo
dục Việt Nam thời kỳ phong kiến đã
những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước
nhà, tạo nền tảng cho sự chấn hưng nền giáo
dục nước nhà.
Những mặt tích cực của giáo dục Việt Nam
thời kỳ phong kiến nêu trên thực sự đòn
bẩy thúc đ y tinh thần học tập, bồi đắp
nguyên quốc gia trong những giai
đoạn n của lịch sử giáo dục dân tộc.
Đâ ững bài học giá trị cho việc tổ
áo dục và đào tạo hiện nay.
nhiên, trong nền giáo dục phong kiến
ũng đã bộc lộ những yếu điểm cần khắc
phục như nữ giới không được học hành, thi
cử chính thống. Những kiến thức về giới tự
nhiên và về sản xuất vật chất không được Nho
giáo đề cập. Lối học tập với duy bảo thủ,
giáo điều máy móc, chưa tạo được luận
riêng, chưa phát triển được khoa học kỹ thuật
phục vụ sản xuất…
Để phát huy được những mặt tích cực và khắc
phục những hạn chế của nền giáo dục Việt
Nam thời kỳ phong kiến, Đảng ta xác đinh:
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát
triển khoa học công nghệ quốc sách
hàng đầu; đầu cho giáo dục đào tạo
đầu tư phát triển.
Yêu cầu cấp bách đặt ra đối với giáo dục
đào tạo nước nhà trong giai đoạn hiện cần
đổi mới toàn diện nền giáo dục, coi trọng
khoa học kỹ thuật, chú trọng đào tạo nghề,
đào tạo ra nhiều “nghệ tinh” trong các lĩnh
vực sản xuất…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. M. H. Pham, Vietnamese Education before
the Door of the 21st Century (InVietnamese),
Hanoi National Politics Publisher, 1999.
[2]. P. M. S. Nguyen, Encyclopedia of Education
and Training in Vietnam (InVietnamese),
Culture Information Publisher, 2006.
[3]. N. Phan, One Conception of Vietnam Culture
(InVietnamese), Culture Information Publisher, 2005.
[4]. G. Le, V. Glimpse of the History of Over 1000
Years of Vietnam's Education (InVietnamese),
Hanoi National Politics Publisher, 2003.
| 1/7

Preview text:

ISSN: 1859-2171
TNU Journal of Science and Technology 209(16): 8 6 - 92 e-ISSN: 2615-9562
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM
THỜI KỲ PHONG KIẾN
Trần Thị Diệu Linh Trườn
đẳng Kinh tế Tài Chính Thái Nguyên TÓM TẮT
Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến là một chủ đề
ự quan tâm, nghiên cứu của nhiều
học giả. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này thường t
àm rõ một lát cắt như: Nội dung giáo
dục; Hình thức khoa cử; Hệ thống trường lớp…H
ghiên cứu tổng hợp những đặc trưng của
giáo dục nước ta thời kỳ phong kiến. Với ph
p tổng hợp, phân tích tác giả đã khái quát
những mặt tích cực và hạn chế của nền giáo
Nam thời kỳ phong kiến. Nghiên cứu này có
ý nghĩa như một nghiên cứu khái lược, l
cho các nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục Việt
Nam trong từng triều đại của chế độ p .
Từ khóa: Giáo dục Việt Nam thời
ến; giáo dục Nho học; chế độ thi cử thời phong kiến;
mặt tích cực giáo dục thời phon
ặt hạn chế giáo dục thời phong kiến.
Ngày nhận bài:
19; Ngày hoàn thiện: 18/12/2019; Ngày đăng: 26/12/2019 CHARAC
TICS OF VIETNAM EDUCATION IN FEUDAL TIMES Tran Thi Dieu Linh
Thai Nguyen College of Economics and Finance ABSTRACT
Vietnam Education in feudal times was a topic that attracted the attention and research of many
scholars. Studies often focus on clarifying an aspect such as: Education content; Form of
examination; System of schools and classrooms ... there is very little, overview study of the
characteristics of Vietnam Education In feudal times. With the aggregate method, the author has
generalized the positive and limited aspects of Vietnam Education In feudal times . This study is
meant as a brief study, which is the basis for in-depth studies on Vietnamese education in each feudal dynasty.
Keywords: Vietnam education in Feudal times; confucian Education; feudal exam regime; the
positive side of feudal education; limitations of feudal education.

Received: 12/11/2019; Revised: 18/12/2019; Published: 26/12/2019
Email: tranthidieulinhbdmn@gmail.com
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn 86
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 8 6 - 92 1. Đặt vấn đề
tâm, tổ chức học tập, thi cử để lựa chọn nhân
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan
tài cho đất nước. Giáo sư, viện sĩ Phạm Minh
trọng trong đời sống xã hội, luôn được quan tâm
Hạc đã đánh giá: “Đến thời kỳ độc lập dân
hàng đầu vì nó ảnh hưởng đến sự tồn vong,
tộc, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,
hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên,
việc học được tiến hành trong các trường tư,
trong mỗi thời kỳ lịch sử, giáo dục lại có những trường ch
ng chưa phát triển” [1, tr 43].
dấu ấn riêng biệt với những nội dung, phương Từ th
Lý đến thời nhà Nguyễn, giáo
pháp và các chính sách đặc trưng. dụ
Nam đã có những bước phát triển
Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến, bắt
ong nền giáo dục ấy đã tồn tại cả
đầu từ khi Ngô Quyền khởi dựng nền độc lập
g yếu tố tích cực và những hạn chế.
đến khi thực dân Pháp xâm lược đất nước
.1. Những mặt tích cực của nền giáo dục
Dấu ấn giáo dục đặc trưng của thời kỳ
và đào tạo ở Việt Nam thời phong kiến
giáo dục Nho học. Mục tiêu là dạ c
2.1.1. Về mục đích của dạy và học
theo lý tưởng của Nho giáo: “Tu gia,
Nho giáo là một học thuyết chính trị xã hội,
Trị quốc, Bình thiên hạ”.
một trường phái tư tưởng rất coi trọng giáo
Nội dung này đã trở thàn nghiên cứu
dục “Hữu giáo vô loại” – giáo dục cần thiết
của nhiều học giả. Các nh nghiên cứu
cho tất cả mọi người, triết lý giáo dục Nho đã tập trung vào m cạnh cụ thể của
giáo là xem trọng người hiền tài. Vận dụng giáo dục Việt ời phong kiến như
chủ trương giáo dục của Nho giáo, các triều nghiên cứu về thi cử thời phong kiến;
đại phong kiến Việt Nam từ triều đại nhà Lý Nghiên c
thống tổ chức trường,
đến triều đại nhà Nguyễn đã mở rộng cơ hội
lớp…mà chư có đề tài nào phân tích, tổng
học tập, chú trọng lựa chọn người có thực
hợp đặc trưng cơ bản của nền giáo dục Việt
học, thực tài ra đảm nhận công việc triều đình Nam thời phong kiến.
thông qua thi cử với trường quy rất nghiêm
Với phương pháp phân tích, tổng hợp, tác giả
ngặt. Chính điều này đã tạo động lực, niềm
tập trung làm sáng tỏ những mặt tích cực và hạn
đam mê học tập trong xã hội. Các sĩ tử đã
chế của giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến.
không quản gian khó, ngày đêm dùi mài kinh 2. Nội dung nghiên cứu
sử, mong ngày đỗ đạt, thậm chí có người
dành gần như trọn cả đời để đi học và thi:
Trong buổi bình minh của lịch sử ở nước ta,
“Nhân tâm nước mình say mê bia đá bảng
thời đại các Vua Hùng, vua Thục, trong xã hội
vàng, cố sức dùi mài truyện hiền, kinh thánh,
chưa có việc tổ chức dạy và học. Ngay cả
có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều
trong gần 1000 năm chính quyền phương Bắc
chiếu để đua ganh với bọn thiếu niên”. Nhiều
đô hộ, giáo dục Việt Nam bị kìm hãm trong
chính sách đồng hóa thâm hiểm của chính
thanh niên, trai tráng lấy việc học tập, thi cử
quyền đô hộ, giáo dục chỉ hướng vào đối
làm mục tiêu cao nhất trong cuộc đời mình.
tượng kế tục, phục vụ cho bộ máy cai trị, nhân
Có thể khẳng định, mục đích giáo dục của
dân không có cơ hội và điều kiện học tập.
Nho giáo thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tinh
thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi đắp
Giáo dục Việt Nam có những bước đi đầu tiên
nguyên khí cho quốc gia trong mỗi giai đoạn
từ khi Ngô quyền khởi dựng nền độc lập. Tuy
phát triển của lịch sử giáo dục dân tộc.
nhiên, trong thời gian đầu (938 – 1009), do
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội không ổn
2.1.2. Về nội dung dạy và học
định, triều đình lại phải lo chống thù trong,
Nội dung giảng dạy cơ bản của giáo dục Việt
giặc ngoài nên các triều đại Nhà Ngô, nhà
Nam trong thời phong kiến là Tứ thư và Ngũ
Đinh và nhà Tiền Lê, chưa có điều kiện quan
kinh. Nội dung của bộ sách chủ đạo này được
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn 87
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 8 6 - 92
áp dụng trong giáo dục nhằm hướng con
kỳ này vẫn tập trung dạy chữ “Lê” và chữ
người đến làm sáng cái đức sáng của chính
“Văn”. Chữ "Lễ" luôn nhắc nhở người dân
mình, làm mới cho dân, an trụ ở nơi chí thiện
rằng phải học lễ độ, thân ái, hòa thuận với
và ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, thực
mọi người, tôn trọng trật tự, lễ kính với người
hành đạo quân tử… Nội dung dạy và học này
già và phải có trên dưới rõ ràng. Còn chữ
đã tạo ra những điểm mạnh cho giáo dục. "Văn" nh
con người phải học hành để
Giáo dục thực sự là công cụ hữu ích để tu thành i đức.
thân, đào tạo ra những con người lý tưởng, có Vớ
ung dạy và học, văn ôn, võ luyện,
sự hoàn thiện cả về đạo đức, nhân cách cũng
c tu dưỡng đã đào tạo ra những con
như tri thức, lối sống.
i lý tưởng, có sự hoàn thiện cả về đạo
Bên cạnh việc giáo dục và đào tạo quan v
ức, nhân cách cũng như tri thức, lối sống -
theo Nho học, các triều đại phong ki
nguồn lực quan trọng nhất trong mọi hoàn
Việt Nam cũng đã chú trọng tổ chứ
cảnh lịch sử dựng nước và giữ nước.
tập, thi tuyển đội ngũ quan võ đ ào
2.1.3.Về phương pháp dạy và học các đội quân.
Giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến chủ
Dưới thời vua Lý Nhân Tôn áng từ 18
yếu vẫn sử dụng các phương pháp kinh viện,
tuổi trở lên sẽ được tuyể g quân. Dưới
giáo điều. Trong giáo dục tri thức chủ yếu là thời vua Lý Anh Tôn vua còn tập bắn
thày giảng giải, trò ghi nhớ, học thuộc lòng cung, cưỡi ngựa, c quan tập đánh trận
bằng cách ngày đêm dùi mài kinh sử. Ở thời và phá trận. Đ nhà Trần, đào tạo và
kỳ phong kiến, chỉ dạy trẻ cách học thuộc lòng luyện tập võ
củ hơn. Nhà Trần cho lập
chớ không cốt gì cho trẻ luyện tập suy nghĩ. Giảng võ đ
để luyện tập võ nghệ. Để
Lớn thêm ít tuổi cho học câu đối, học thơ, học
củng cố và nâng cao chất lượng quân đội, nhà
phú…Từ nhỏ cho đến lớn, người học chỉ học
Lê đã chú ý tổ chức dạy các môn võ nghệ và
hai khoa là luân lý và văn chương. Học hai
định lệ thi cử để tuyển chọn những người tinh
khoa cơ bản này để rèn luyện tri thức, rèn
thông võ nghệ. Việc dạy và học võ nghệ dưới
luyện các quy tắc ứng xử trong quan hệ giữa
người với người để tạo ra một xã hội hài hòa.
thời Lê rất đơn giản, chưa đặt ra các trường
học và chưa tổ chức thi theo chương trình.
Xã hội phong kiến là chế độ xã hội hà khắc,
Đến thời Lê Trung Hưng, phỏng theo phép
trong quá trình giáo dục, các giáo quan và các
của các Vương triều bên Trung Quốc, ông đã
nhà Nho đã duy trì kỷ luật bằng roi vọt. Học
cho thi võ để tuyển nhân tài. Vào năm 1721,
trò không học bài, học không tập trung… các
Chúa Trịnh Cương đã cho mở trường dạy võ
giáo quan, nhà nho sử dụng roi vọt để răn đe.
và đặt chức quan Giáo thụ để dạy võ nghệ, võ
Nhưng để sử dụng được uy lực của đòn roi
kinh cho con cháu các quan. Việc học và thi
với học trò, người thầy trong xã hội này luôn
võ dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh đã được triều
có cái tâm sáng. Chẳng thế mà sau khi trưởng
thành, không ít người lại thấy biết ơn những
đình định thành lệ, có cấp bằng và người đỗ
trận đòn của thầy ngày bé. Nhưng học sinh
đạt được hưởng quyền lợi như những người
xưa có bị đánh cũng không phản kháng, đơn
đỗ đạt trong các kỳ thi Nho học. Dưới thời Lê
giản vì chúng thấy tâm phục khẩu phục thày.
Trung Hưng, lần đầu tiên nước ta thi chọn
Đây là một đặc điểm của các trường học thời
tiến sĩ võ khoa, gọi là thi Bác cử. Đến triều
phong kiến kể cả trường công và trường tư.
Nguyễn, đến đời vua Minh Mạng mới chính
Còn trong đạo đức thì chủ yếu là phương
thức đặt ra việc dạy và thi võ học.
pháp nêu gương. Cái tâm, cái uy của người
Nội dung dạy và học ngày càng hoàn thiện
Thày và sự lễ nghi, phép tắc của các nho sinh
qua các triều đại phong kiến ở nước ta.
là những bài học giá trị cho các thế hệ học trò
Nhưng tựu chung lại, giáo dục Việt Nam thời học tập và noi theo. 88
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 8 6 - 92
2.1.4. Hệ thống trường, lớp
Hệ thống trường công ở triều đình ngày càng
Trong xã hội thời phong kiến, hệ thống nhà
được hoàn thiện, tăng cường giáo dục cho con
trường tương đối đa đạng và đáp ứng được
em quan lại. Nhưng các triều đại phong kiến
nhu cầu học tập của xã hội.
chưa chú trọng xây dựng hệ thống trường
Vài thập kỷ đầu dưới thời vua Lý Thái Tổ, Lý
công ở các đ a phương. Lần đầu tiên nhà Trần
Thái Tông, các chùa lớn trở thành trung tâm cho mở t
công lập ở phủ Thiên Trường năm 1
đó đến hơn 100 năm nhà Trần
học tập kinh sách nhà Phật cũng như học kiến khô
nhà học ở các địa phương nữa. Đến
thức Nho giáo. Chính vì vậy, triều đình cho
7, đời vua Trần Thuận Tông mới cho
xây dựng rất nhiều chùa lớn, nhiều người qua
ại trường công ở địa phương. Như vậy,
nhà Chùa mà học hành thành tài. Việc dạy học
n đầu hệ thống trường học chủ yếu vẫn chỉ
cho con em nhân dân cũng do nhà chùa đ
được mở ở triều đình, phục vụ quá trình học
nhiệm. Các vị pháp sư lúc ấy không
tập của con em quan lại và những người giàu
những người có học thức cao mà còn ò
có, giáo dục công chưa đáp ứng được nhu cầu
chính trị to lớn. Nhà chùa đã đào t một
học tập của nhân dân. Theo gương nhà Trần,
đội ngũ trí thức có đủ khả năn đương
các triều đại phong kiến nước ta sau này đều
công việc đối nội và đối ngo hà nước.
lần lượt mở rộng hệ thống trường công ở địa Đề cao Nho học, tỏ ọng học, năm
phương phục vụ quá trình học tập cho nhân dân. 1070, Lý Thánh T o xây dựng Văn
Bên cạnh hệ thống trường công do nhà nước Miếu ở kinh đô T ng để thờ Khổng Tử
tổ chức thì còn một bộ phận trường tư. Do và nơi đây cũ
ường học đầu tiên trong
một số người dân không có điều kiện được hệ thống g Việt Nam.
tham gia các lớp học ở trường công bởi chế
Tại địa phươn , nhà Vua cho lập các Văn chỉ
độ và tiêu chuẩn về người học nên họ tham
để làm nơi thờ tự Khổng Tử, khuyến khích
gia học ở các trường tư. Thời phong kiến,
việc học tập tại làng, xã. Đến năm 1076, vua
không có quy định về mở trường tư nên người
Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám
nào biết chữ, dù ít hay nhiều đều có thể mở
làm nơi học tập của con em tầng lớp quý tộc,
trường dạy học. Trường sở có thể là nhà của
quan lại và những người ưu tú.
thày hoặc nhà của một học trò bố mẹ giàu có
Từ khi Quốc Tử Giám được lập thì đây là
mời thày về mở lớp dạy. Việc học khai tâm
trường công điển hình nhất, danh giá nhất,
cho trẻ em hoàn toàn do các trường tư phụ
được đầu tư nhiều nhất về chất và lượng,
trách. Nhờ có các trường tư mà việc học tập
được lập ở kinh đô. Dù các Triều đại phong
đã về đến tận các thôn, xóm. Đến thời nhà
kiến khác nhau có sự thay đổi tên gọi như
Tây Sơn, nhà học ở xã đã được lập và đặt
Quốc học viện, Nhà Thái học… thì đây vẫn là
chức quan giảng dụ để dạy học ở xã.
nơi có đội ngũ thày giỏi, là các nhà nho danh
Với hệ thống trường công và trường tư như
tiếng, thư viện có nhiều sách, thậm chí cả
vậy, môi trường học tập của các Nho sinh và
sách quý hiếm cho người học nghiên cứu, nơi
của con em nhân dân ngày càng được mở
ăn chốn ở thuận lợi cho người học, nhà nước
rộng. Một tỷ lệ khá đông trẻ em dưới thời
chu cấp học bổng. Tuy nhiên chế độ tuyển
phong kiến đều có vài năm cắp sách đi học,
sinh rất chặt chẽ, phụ thuộc nhiều vào nguồn
biết được một ít chữ Nho, đọc thuộc lòng
gốc xuất thân của Nho sinh. Cùng với Quốc
được một vài câu “Thánh hiền” để biết đạo
Tử Giám, Triều đình tổ chức trường học công
làm người. Nhờ có hệ thống giáo dục cả
cho con em quan lại và hoàng thân quốc thích
trường công và trường tư mà “đạo thánh
gồm: Sùng văn quán, Nho lâm quán và Tú
hiền” đã ảnh hưởng không nhỏ tới đông đảo lâm cục. nhân dân ta.
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn 89
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 8 6 - 92
2.1.5. Về chế độ thi cử
Triều đại nhà Trần đã tổ chức khoa thi tiến sĩ
Vua Lê Thánh Tông viết: “Muốn có nhân tài,
đầu tiên ở nước ta - thi Đại tỷ thủ sĩ (kỳ thi
trước hết phải chọn người có học, phép chọn
này chỉ tổ chức có một lần). Như vậy, cùng
người có học thì thi cử là đầu”
với việc xây dựng Văn Miếu ở kinh đô Thăng [2, tr 148]. Thi
cử chính là cơ sở để lựa chọn
Long, triều đại nhà Trần đã cắm mốc cho sự nhân tài, gánh
vác công việc đất nước, có ý nghĩa quan trọng nghiệp chấ
ng giáo dục ở nước ta.
trong phát huy “nguyên khí” quốc gia. Chế độ Từ nă
thi cử của các triều đại phong
khoa cử và chính sách sử dụng nhân tài của kiến
am bắt đầu phân rõ ba khoa thi:
các triều đại phong kiến đã tạo điều kiện cho
Hội, Đình. Ai đỗ được bốn trường
các đời vua chúa giữ gìn và xây dựng non
thi Hội được gọi là cử nhân, được dự thi
sông đất nước với sự cống hiến của các
ái học sinh (Thi Hội) năm sau. Ai trúng thi
công thần tận trung với vua, với nước.
Thái học sinh thì thi một bài văn sách nữa để
định cao thấp (tức thi Đình). Thi Hội đỗ mới
Dưới thời nhà Ngô, nhà Đinh và đầu
chỉ được công nhận là trúng cách, chưa phải Lý chưa có khoa cử.
là tiến sĩ. Thi Đình mới sắp xếp và ban cấp
Khoa thi Nho học đầu tiên tro sử giáo
các loại học vị. Ở thi Đình, vua là người trực
dục nước nhà là khoa thi nh bác sĩ tiếp ra đề bài. (năm 1075) do triều đ Lý tổ chức.
Các triều đại phong kiến từ nhà Trần trở đi, Triều đại nhà Lý đã k nền khoa cử của
thi cử có nhiều loại khoa thi khác nhau nhưng Việt Nam, từ nền cơ sở lý luận cho
đều tựu chung qua ba hội thi chính: Thi đến cả diện mạ
ặt tổ chức giáo dục và
Hương, thi Hội, thi Đình để chọn người tài thi cử Nho uổi ban đầu. Tuy nhiên,
phục vụ cho triều đình và đất nước. Tất cả các việc thi cử d
hời nhà Lý không định thành
khoa thi này đều có đặc điểm chung là do
luật lệ theo những năm nhất định, lúc cần thì
triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Công
thi, không thì thôi. Bên cạnh suy tôn Nho
việc tổ chức thi rất nghiêm ngặt. Trong các kỳ
giáo, nhà Lý coi trọng Phật giáo và Lão giáo.
thi, các triều đại phong kiến đều hết sức
Vì Nho giáo chăm lo tổ chức xã hội, Đạo giáo
phòng ngừa gian lận trong thi cử. Khi bị phát
chăm lo thể xác con người, Phật giáo chăm lo
giác có hành vi gian lận người vi phạm sẽ bị
đời sống tâm linh con người. Năm 1195, Lý
xử lý rất nghiêm, có thể bị bắt làm nô lệ, bỏ tù
Cao Tông mở khoa thi Tam giáo để chọn
cho đến xử án tử. Những người có “tì vết” về
người tinh thông cả ba đạo: Phật giáo, Lão
đường học hành thi cử thì đường tiến thân coi
như khép lại. Tổ chức thi cử chăt chẽ, hình giáo và Nho giáo.
thức xử lý nghiêm minh những gian lận
Đến thời nhà Trần, việc thi cử đã có luật lệ,
chứng tỏ năng lực quản lý đối với hệ thống
quy chế thi cử khá đầy đủ và được tổ chức quy
giáo dục của các triều vua từ Lý, Trần đến Lê,
củ, hạn kỳ mở các khoa thi tương đối đều. Nguyễn rất cao.
Dưới triều đại nhà Trần, triều đình mở khoa
Các triều đại phong kiến nhà Trần đã rất chú
thi cao nhất gọi là thi Thái học sinh với 3
trọng đến điều kiện học tập của Nho sinh khi
hoặc 4 trường ( 4 kỳ): Trường/kỳ nhất: Thi
tham gia thi. Đây là một yếu tố rất quan trọng
ám tả; Trường/ kỳ hai: thi kinh nghĩa và Thơ
thể hiện sự công bằng trong giáo dục, thi cử.
phú; Trường / kỳ ba: Thi chế, chiếu, biểu;
Căn cứ vào điều kiện học tập không đồng đều
Trường / kỳ bốn: Thi văn sách. Theo các nhà
giữa các địa phương, nhà Trần đã quy định
nghiên cứu, thực chất thi Thái học sinh chỉ là
một kỳ thi có hai trạng nguyên: Kinh trạng
công việc của trường, của nhà Quốc học. Tuy
nguyên cho khu vực thuận lợi và Trại trạng
nhiên triều đình vẫn đứng ra tổ chức để đảm
nguyên cho khu vực khó khăn. Đây là một bài
bảo tính chất quốc gia của học vị Thái học
học có ý nghĩa quan trọng tạo sự công bằng sinh [2, tr 133].
trong giáo dục và đào tạo sau này. 90
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 8 6 - 92
Ngoài các kỳ thi văn, các triều đại phong kiến
Nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến từng
còn tổ chức các kỳ thi khác. Năm 1227 Nhà
bước được mở rộng và chính quy nhưng chưa
Trần tổ chức thi Tam giáo. Năm 1261, vua trần
phải nền giáo dục giành cho đại chúng. Đối
Thánh Tông mở khoa thi Thái Y để tuyển
tượng được học tập và thi cử chủ yếu vẫn là
người tinh thông y học. Đến thời nhà Hồ, đưa
con em quan lại, quý tộc, con em nhà nông cơ
môn toán pháp vào kỳ thi thứ năm. Việc đưa bản chưa
tham gia thi vì do điều kiện
môn toán Pháp vào thi Hương là một điểm mới học tậ ế.
mà chưa có triều đại nào ở nước ta làm được. 2.2
đích, động cơ học tập
Chính những yếu tố tích cực của thi cử dưới
ơ và mục đích của dạy và học thời
triều đại nhà Trần tạo nền móng thi cử cho
ng kiến bên cạnh yếu tố tích cực thúc đẩy
các triều đại phong kiến sau này. Các tri
on người lòng ham học, hiếu học thì động cơ
đại phong kiến sau này về cơ bản mô p
và mục đích học thời ấy cũng chứa đựng yếu
theo lối thi cử của triều Trần.
tố hạn chế, mục đích chính của đa số Nho sinh
Triều nhà Mạc là triều đại tổ ch ình,
ở nước ta chỉ đặt cho mình mục đích học để đi
lấy tiến sĩ đều đặn nhất và l đại duy
thi, thi đỗ ra làm quan để vinh thân phì gia. Đạt
nhất trong lịch sử khoa bả học ở Việt
được mục đích đó thì xem như việc học tập đã Nam có phụ nữ giả trai đỗ
kết thúc. Ít người có chí cao xa, như học để tiến sĩ, đó là bà Nguyễn Thị Du
tham gia tranh luận những vấn đề học thuật,
học để kinh bang tế thế hoặc để phát triển văn Khi thực dân Phá h đô hộ ở Việt Nam,
hoá, đạt đến những tầm cao tư tưởng. xã hội ta thàn i thuộc địa nửa phong kiến thì k
bị bỏ, chúng ta phải theo
Các Nho sinh chưa chú trọng việc học nghề, theo nền giáo c của người Pháp.
điều đó đã làm cho Việt Nam thời phong kiến
thiếu “nghệ tinh” phục vụ quá trình lao động
2.2. Những mặt hạn chế của nền giáo dục
sản xuất. Các quá trình sản xuất chủ yếu dựa
và đào tạo ở Việt Nam thời phong kiến
trên kinh nghiệm của nhân dân, điều này cản
2.2.1. Đối tượng học tập
trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Tư tưởng Khổng giáo về đối tượng được học
nước ta thời gian sau đó. Giáo sư Phan Ngọc
chữ thánh hiền cũng ảnh hưởng sâu đậm đến
đã nhận xét rất đúng là: “Khuyết điểm nặng
giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Ở nước
nhất trong quan điểm học ngày xưa là ngoài
ta thời kỳ này, việc học hành chính quy chỉ
học các từ chương ra, Việt Nam trong thời
dành riêng cho nam giới, gần như thành lệ,
quân chủ không có trường dạy nghề, mà điều
chỉ nam giới mới được học chữ thánh hiền.
làm cho một nước giàu có là “nghệ tinh”,
Tuy trong xã hội có một số ít con gái nhà nho,
không phải ở thơ phú. Chính lối học này tạo
nhà quý tộc, cung phi trong triều đình được
nên cho chúng ta cái bệnh “Thích làm quan”
học tập, nhiều người rất thông minh, giỏi
mà cách làm quan là “nói cho hay”, điều cản
giang hay chữ nhưng chưa có một phụ nữ nào
trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì
được đi thi Hương, thi Hội trừ bà Nguyễn Thị
chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên kỹ thuật,
Duệ ( Thời nhà Mạc) đã giả trai đi thi và đỗ
trên “nghệ tinh” [3, tr 500].
Tiến sĩ. Chính điều này đã tạo ra một bất bình
2.2.3. Nội dung môn học
đẳng giới, hạn chế tài năng của người phụ nữ
Tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam,
trong xã hội phong kiến, trói buộc người phụ
việc dạy và học vẫn xoay quanh lý tưởng của
nữ vào lễ giáo phong kiến. Đây cũng chính là
Nho giáo, bao gồm bốn chữ “Tu, tề, trị, bình”,
rào cản, ảnh hưởng tới lộ trình giải phóng
“văn dĩ tải đạo”, chỉ chú trọng "trí dục" và
người phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới trong xã
"đức dục" mà chưa chú trọng rèn luyện thể, hội thời nay.
mỹ - điều kiện để phát triển diện con người.
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn 91
Trần Thị Diệu Linh
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 8 6 - 92
Nội dung dạy và học chưa có chương trình
nhà, tạo nền tảng cho sự chấn hưng nền giáo
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, không dục nước nhà.
có chương trình dạy về sản xuất. Tác giả Lê
Những mặt tích cực của giáo dục Việt Nam
văn Giang đã nhận xét: “Kiến thức và kỹ
thời kỳ phong kiến nêu trên thực sự là đòn
năng về sản xuất ra của cải vật chất chưa trở
bẩy thúc đ y tinh thần học tập, bồi đắp
thành nội dung của giáo dục” [4, tr.16] Chính nguyên quốc gia trong những giai
điều này đã hạn chế sự phát triển sản xuất của đoạn
n của lịch sử giáo dục dân tộc.
nước ta, dẫn đến Việt Nam hiện nay vẫn là Đâ
ững bài học có giá trị cho việc tổ
một nước nông nghiệp đang phát triển.
áo dục và đào tạo hiện nay.
Các Nho sĩ Việt Nam có tập quán sùng bái
nhiên, trong nền giáo dục phong kiến
thánh hiền, tiếp thu tín điều từ Nho gi
ũng đã bộc lộ những yếu điểm cần khắc
Trung Hoa một cách máy móc với ph
phục như nữ giới không được học hành, thi
pháp tư duy bảo thủ đã hạn chế việc t
cử chính thống. Những kiến thức về giới tự
luận riêng, hạn chế sự xuất hiện c hái
nhiên và về sản xuất vật chất không được Nho tư tưởng lớn.
giáo đề cập. Lối học tập với tư duy bảo thủ,
2.2.4. Nội dung thi cử
giáo điều và máy móc, chưa tạo được lý luận
Lối đào tạo và thi cử c iều đại phong
riêng, chưa phát triển được khoa học kỹ thuật kiến Việt Nam đã h lối suy nghĩ độc phục vụ sản xuất… lập, bóp nghẹn lý phán con người của
Để phát huy được những mặt tích cực và khắc người học bở
đi học đến lúc thi cử
phục những hạn chế của nền giáo dục Việt người học luyện theo khuôn khổ Nho
Nam thời kỳ phong kiến, Đảng ta xác đinh: giáo, học tập
ch kinh điển của Nho giáo, lý
“Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát
trí, tình cảm và hành vi đều phải theo “đạo
triển khoa học và công nghệ là quốc sách thánh hiền”.
hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”
Thi cử theo khuôn khổ của Nho giáo, duy chỉ .
có dưới thời nhà Lê tổ chức thi thư toán chọn
Yêu cầu cấp bách đặt ra đối với giáo dục và
lại điển và thi tuyển chọn lương ý; Thời nhà
đào tạo nước nhà trong giai đoạn hiện là cần
Hồ, vào năm 1404, có tổ chức thi toán. Điều
đổi mới toàn diện nền giáo dục, coi trọng
này đã lý giải vì sao khoa học kỹ thuật ở nước
khoa học kỹ thuật, chú trọng đào tạo nghề,
ta lại chậm phát triển.
đào tạo ra nhiều “nghệ tinh” trong các lĩnh vực sản xuất… 3. Kết luận
Ngay sau khi giành được độc lập, các triều TÀI LIỆU THAM KHẢO
đại phong kiến Việt Nam đã rất coi trọng giáo
[1]. M. H. Pham, Vietnamese Education before
dục. Vì đây là biện pháp chủ yếu, hữu hiệu và
the Door of the 21st Century (InVietnamese),
thiết thực nhất để đào tạo nhân tài, xây dựng
Hanoi National Politics Publisher, 1999.
[2]. P. M. S. Nguyen, Encyclopedia of Education đất nước.
and Training in Vietnam (InVietnamese),
Trong suốt gần 10 thế kỷ, dấu ấn đặc trưng
Culture Information Publisher, 2006.
của giáo dục Việt Nam dưới các triều đại
[3]. N. Phan, One Conception of Vietnam Culture
phong kiến là nền giáo dục Nho học. Giáo
(InVietnamese), Culture Information Publisher, 2005.
[4]. V.G. Le, Glimpse of the History of Over 1000
dục Việt Nam thời kỳ phong kiến đã có
Years of Vietnam's Education (InVietnamese),
những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước
Hanoi National Politics Publisher, 2003. 92
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn