Nội dung thuyết trình chính trị học so sánh - Chính Trị Học | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung thuyết trình chính trị học so sánh - Chính Trị Học | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH
Chủ đề: So sánh Nhà nước trong mô hình tổng thống và mô hình hỗn hợp
1. MỞ ĐẦU:
Phương pháp so sánh phương pháp đặc trưng của chính trị học so sánh.
Phương pháp so sánh gồm hai loại so sánh bản: Phương pháp đồng nhất
Phương pháp dị biệt.
Phương pháp so
sánh
Phương pháp đồng nhất Phương pháp dị biệt
Công thức Giống - giống - khác Khác - khác - giống
Đặc điểm -So sánh hai chủ thể
nhiều đặc trưng căn bản
giống nhau các kết
quả giống nhau. Trên cơ sở
đó thể phân tích, tìm
hiểu nguyên nhân, giải
những yếu tố nào tính
chi phối, quyết định trong
đời sống chính trị, những
yếu tố nào không nh
chi phối.
- độ tin cậy chưa hoàn
toàn cao nguyên nhân:
do sự chọn mẫu chưa
khách quan, do không
kiểm soát được toàn bộ các
yếu tố ảnh hưởng...
-So sánh hai chủ thể
nhiều đặc trưng căn bản
khác nhaucác kết quả
khác nhau. Trên cơ sở đó
thể phân tích, tìm hiểu
nguyên nhân, giải những
yếu tố nào tính chi phối,
quyết định trong đời sống
chính trị, những yếu tố nào
không có tính chi phối.
- độ tin cậy cao hơn
phương pháp đồng nhất.
Tuy nhiên, phương pháp
này cũng điểm yếu
thể các nguyên nhân
khác cũng dẫn tới kết quả.
Yêu cầu đặt ra là so sánh Hệ thống nhà nước trong mô hình hỗn hợp và mô
hình tổng thống.
Hai hình hỗn hợp hình tổng thống nhiều đặc trưng bản
khác nhau, nhóm sử dụng Phương pháp so sánh đồng nhất với công thức “giống
– giống khác”
Để thực hiện so sánh, nhóm nghiên cứu chọn các biến nhỏ bao gồm biến
lập phá, hành pháp, tư pháp, nguyên thủ quốc gia để tiến hành so sánh giữa 2 mô
hình. Để thực hiện so sánh, nhóm nghiên cứu đã chọn ra 2 quốc gia tiêu biểu cho
mô hình tổng thống là Mỹ và mô hình hỗn hợp là Pháp để tiến hành so sánh.
2. NỘI DUNG
2.1 So sánh mô hình nghị viện ở 2 nước
2.1.1. Số lượng viện
Tại Mỹ Pháp đều tổ chức theo mô hình lưỡng viện, tức2 viện trong
quan lập Pháp, gọi Thượng viện Hạ viện, Thượng viện được bầu theo
đại diện đơn vị hành chính lãnh thổ, còn hạ viện được bầu theo đại diện cho tầng
lớp nhan dân và bầu theo tỉ lệ dân số.
2.2.2. Cách bầu nghị sĩ
Mỹ Pháp
Thượng viện
Số lượng 100 331
Tính đại diện
Đại diện mỗi bang
2 người
Các thượng nghị sĩ
được bầu gián tiếp
bởi một hội đồng
bầu cử
Nhiệm kỳ
6 năm. 2 năm bầu
lại 1/3
6 năm
Hạ viện
Số lượng 435 577
Tính đại diện
Bầu theo tỉ lệ dân
số mỗi bang
Đại diện theo tỉ lệ
dân số
Nhiệm kỳ 2 năm 5 năm
Xuất phát từ quan điểm kết hợp những ưu điểm của 2 hình Tổng
thống và mô hình nghị viện. Mô hình hỗn hợp đã có sự vay mượn một vài yếu tố
nổi bật của hình tổng thống, điều này được thể hiện trong cấu tổ chức
của thượng viện và hạ viện 2 nướcMỹ và Pháp. Thượng nghị sĩ ở 2 nước đều
mang tính đại diện cho cách đơn vị hành chính nhất định nhiệm kỳ nhìn
chung đề dài hơn so với nhiệm kỳ Hạ viện. Mặc dù các nghị sĩcả 2 viện được
bầu chọn thông qua phiếu bầu, khác với hình Westminster (Thượng nghị
không qua bầu chọn), theo đúng thuyết, quyền lực của thượng viện Hạ
viện tại 2 quốc gia này là gần tương đương nhau. Tuy nhiên, có thế thấy sự khác
biệt trong cán cân quyền lực giữa thượng viện hạ viện của 2 quốc gia này,
điều này được thể hiện ở các nội dung sau:
Thượng viện ở Pháp bị giới hạn về mặt quyền lực hơn so với Thượng viện
Mỹ. Thượng viện Pháp chỉ xuất hiện chủ yếu như một “cơ quan vấn”.
Trong khi đó, vai trò năng lực thực sự của Hạ viện (Quốc hội) ngày càng
được khẳng định so với Thượng viện với các nhánh quyền lực khác. Hạ viện
(Quốc hội) vai trò rất lớn trong việc thành lập Chính phủ quan
Chính phủ phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Thủ tướng Pháp vừa
phải chịu trách nhiệm trước Tổng thống cộng hòa vừa phải chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình. Hạ viện Pháp quyền bỏ phiếu bất tính nhiệm đối với
chính phủ thủ tướng. Hạ viện Pháp cũng quan tiếng nói cuối cùng
trong việc thông qua một dự án luật, bất kể kết quả bỏ phiếu của Thượng viện.
Chủ tịch Hạ viện giữa vai trò chủ tọa hội nghị phê chuẩn các quy định sửa đổi
hiến pháp.
Điều đó cũng phù hợp tất yếu, nếu chúng ta nhìn nhận dưới góc độ
nguồn gốc quyền lực của Thượng viện Hạ viện t ta sẽ thấy được. Nguồn
gốc quyền lực của Hạ viện (Quốc hội) từ nhân dân ra do nhân dân ủy
quyền. Phương thức bầu cử bằng phổ thông đầu phiếu trực tiếp thể hiện tính dân
chủ, tính đại diện rộng rãi của Hạ viện (Quốc hội) Pháp. Chính quyền lực
được xác lập thông qua bầu cử dân chủ tạo nên tính chính đáng trong thực thi
quyền lực của thiết chế này. Trong khi đó, các Thượng nghị sĩ tại Pháp lại được
bầu thông qua hội đồng bầu cử, không phải dân trực tiếp bầu nên do đó quyền
lực sẽ bị hạn chế hơn so với Hạ viện.
Tuy nhiên, tại Mỹ Thượng viện Hạ viện quyền lực gần như ngang
bằng nhau, tạo nên thế đối trọng, cân bằng quyền lực giữa 2 bộ phận của
quan lập pháp. Điều này được thể hiện như sau:
Một là, Mỗi viện của Quốc hội có quyền đưa ra văn bản pháp lý về bất cứ
vấn đề trừ các dự luật về thu ngân sách phải bắt nguồn từ Hạ viện. Song
trên thực tế mỗi viện đều có quyền bỏ phiếu chống lại những văn bản pháp lý đã
được viện kia thông qua. Thượng viện có thể không tán thành một dự luật về thu
ngân sách của Hạ viện - hoặc bất kỳ một dự luật nào liên quan đến vấn đề này -
hoặc bổ sung những sửa đổi làm thay đổi bản chất của chúng. Trong trường hợp
đó, một tiểu ban tham vấn, được thành lập bao gồm thành viên của cả hai viện,
phải đi tới được một sự thỏa hiệp thể chấp nhận đối với cả hai bên trước khi
dự luật trở thành luật.
Thượng viện cũng những quyền hạn nhất định dành riêng cho quan
này, trong đó quyền xác nhận sự bổ nhiệm của tổng thống đối với các quan
chức cao cấp các đại sứ của chính quyền liên bang, cũng như quyền phê
chuẩn tất cả các hiệp ước với 2/3 số phiếu thuận. Trong cả hai trường hợp, hành
động không ủng hộ của Thượng viện sẽ hiệu hóa hành động của ngành hành
pháp. Đây một trong những công cụ khá đắc lực của Thượng viện nhằm tác
động đến chính sách đối ngoại của quốc gia.
Trong trường hợp luận tội các quan chức liên bang, Hạ viện có toàn quyền
đưa ra lời buộc tội về hành vi bất chính thể dẫn tới việc xét xử tòa án.
Thượng viện cũng toàn quyền kiểm tra những trường hợp luận tội xác
minh xem các quan chức là có tội hay vô tội.
Hiến pháp quy định phó tổng thống sẽ chủ tịch Thượng viện. Phó tổng
thống không quyền bỏ phiếu, trừ trường hợp hai bên bằng phiếu nhau.
Thượng viện chọn một chủ tịch lâm thời để điều hành khi phó tổng thống vắng
mặt. Hạ viện tự chọn quan chức điều hành của mình - tức chủ tịch Hạ viện. Chủ
tịch Hạ viện chủ tịch lâm thời Thượng viện bao gi cũng thành viên của
chính đảngsố đại diện lớn nhất ở mỗi viện. Vào đầu mỗi nhiệm kỳ Quốc hội
mới, thành viên của các chính đảng lựa chọn các nhà lãnh đạo của viện các
quan chức khác để xử lý khối lượng các văn bản pháp luật được đề nghị. Các
quan chức này, cùng với các quan chức điều hành chủ tịch các ủy ban, ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với quá trình làm luật.
2.2.3. Sự kiểm soát đối với cơ quan hành pháp
- Cách thức hình thành cơ quan hành pháp:
+ Mỹ, Nghị viện không kiểm soát hành pháp với danh nghĩa kiểm
soát cơ quan do mình lập ra. Bởi lẽ, Tổng thống Mỹ là người đứng đầu nhà nước
ngành hành pháp Mỹ. Tổng thống Phó Tổng thống Mỹ được lựa chọn
thông qua bầu cử theo nhiệm kỳ 4 năm một lần. Công dân ở các bang bầu ra các
đại cử tri. Tập thể đại cử tri này (538 người) sẽ bầu ra Tổng thống Phó Tổng
thống.
+ Ở Pháp, sự hình thành bộ máy hành pháp là sự kết hợp giữa hai mô hình
nước Anh nước Mỹ. Tổng thống Pháp do nhân dân trực tiếp bầu ra theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu giữ nhiệm kỳ 5 năm. Thủ tướng được đề cử
bởi đa số trong Nghị viện và được Tổng thống bổ nhiệm.
- Quyền lực của Tổng thống (Nguyên thủ quốc gia) đối với quan
hành pháp:
+ Ở Mỹ, quyền hành pháp thuộc về tổng thống. Tổng thống Mỹ là nguyên
thủ quốc gia nắm toàn bộ quyền quản lý, điều hành quốc gia. Chính phủ
không phải là cơ quan hiến định và chỉ là bộ máy tham mưu, giúp việc cho Tổng
thống.
+ Pháp, quyền hành pháp cũng thuộc về nguyên thủ quốc gia chính
phủ. Tuy nhiên, Tổng thống Pháp (nguyên thủ quốc gia) mới người nắm
quyền hành pháp một cách thực chất. Tổng thống Pháp nhiều quyền hành
trong việc quản lý nhà nước và là đại diện hành pháp duy nhất. Tổng thống lãnh
đạo tuyệt đối Chính phủ. Tổng thống quyền phủ quyết các chính sách của
Chính phủ. Chính phủ cùng thực thi quyền hành pháp với Tổng thống. Thủ
tướng người đứng đầu Chính phủ, chỉ đạo Chính phủ thực thi chính sách của
Tổng thống.
- Hoạt động chất vấn của nghị viện đối với cơ quan hành pháp.
+ Pháp, trong vòng 4 tuần làm việc của Nghị viện lại có một tuần trong
đó ưu tiên dành cho việc xem xét hoạt động của Chính phủ. Mỗi tuần ít nhất
Nghị viện phải ưu tiên dành một buổi họp để các nghị sĩ chất vấn các thành viên
Chính phủ. Các bộ trưởng của Chính phủ nghĩa vụ trả lời các câu hỏi chất
vấn của thành viên Nghị viện, đồng thời phải trách nhiệm tham dự các phiên
họp khi Nghị viện thảo luận về các dự án luật liên quan đến lĩnh vực phụ trách.
+ Ở Mỹ, Nghị viện thường xuyên tiến hành hoạt động điều trần đối với
quan hành pháp. Việc điều trần được thực hiện để thu thập ý kiến về một dự
luật, điều tra về một vấn đề hoặc giám sát, đánh giá hoạt động của Chính phủ.
Không giống hoạt động chất vấn thường tiến hành tại các kỳ họp toàn thể của
nghị viện các nước, hoạt động điều trần ở Mỹ được thực hiện tại các ủy ban, tiểu
ban của Nghị viện, thậm chí một nhóm nghị cũng thể tổ chức điều trần
được tiến hành ngay khi nảy sinh các vấn đề kinh tế, xã hội cấp thiết.
- Quyền lực của nghị viện trong việc điều tra, thanh tra xét xử đối
với chính phủ:
+ Ở Pháp, khi các thành viên Chính phủ phạm tội, Nghị viện có thể thành
lập tòa án cấp cao để xét xử. Các thành viên của tòa án cấp cao được lựa chọn
trong số các nghị của cả hai viện. Nếu Tổng thống phạm tội phản quốc hoặc
âm mưu xâm hại an toàn của nhà nước, tòa án này cũng thể xét xử cả Tổng
thống sau khi có sự nhất trí của đa số nghị sĩ trong cả hai viện. Ngoài ra, để thực
hiện việc kiểm soát đối với hành pháp, Nghị viện Pháp thể thành lập các ủy
ban điều tra để thu thập thông tin
+ Ở Mỹ, Nghị viện có thể thực hiện thủ tục luận tội đối với các quan chức
hành pháp liên bang (tổng thống, phó tổng thống, bộ trưởng, lãnh đạo các
quan ngang bộ…). Kết quả cao nhất của thủ tục này là khả năng truất quyền đối
với đương sự (khi toàn bộ các điều khoản luận tội đạt được đa số phiếu tán
thành của các thành viên tham gia luận tội).
Tuy nhiên, một điểm quan trọng cho thấy tổng thống Pháp quyền
hơn so với tổng thống Mỹ. Tổng thống Pháp có quyền đề nghị giải tán nghị viện
bầu lại nghị viện mới trước nhiệm kỳ, tổng thống Mỹ thì không quyền
này.
Đánh giá chung: Cả Mỹ và Pháp đều có hệ thống pháp luật phát triển dựa
trên lịch sử và văn hóa riêng của mình. Mặc dù có sự tương đồng trong cơ sở hạ
tầng lập pháp và cơ quan hành pháp viện, nhưng các khác biệt về hệ thống pháp
luật, quy trình lập pháp chi tiết nguyên tắc kiểm soát chính phủ tạo ra những
đặc điểm độc đáo. Cả hai hệ thống đều nhấn mạnh sự cân bằng quyền lực giữa
các quan lập pháp, thực hiện kiểm soát cân nhắc đối với quyền lực hành
pháp.
2.2.4. Quy trình lập pháp
- Cả Mỹ Pháp đều một Quốc hội (Parliament) gồm hai thể, với dự
luật cần được thông qua cả hai thể để trở thành luật.
- Cả hai tổng thống đều có quyền ký hoặc từ chối ký dự luật.
Tuy nhiên, theo những phân tích của nhóm từ sự bất cân xứng về mặt
quyền lực của Hạ viện đối với Thượng viện của nước Pháp, do đó, so với nước
Mỹ, Hạ viện ở Pháp có thực quyền nhiều hơn so với Hạ viện ở Mỹ:
- Mọi dự thảo luật (dù do Chính phủ trình hay do nghị sỹ trình) nếu muốn
trở thành luật thì đều phải được sự chấp thuận của cả hai viện Hạ viện
Thượng viện. Tổng thống Pháp cũng có quyền phủ quyết đối với các đạo luật đã
được Quốc hội thông qua.
- Theo quy định tại Điều 45 Hiến pháp của Pháp, dự án luật được lần lượt
đưa ra xem xét, thảo luận tại 2 Viện của Quốc hội để thông qua một văn bản
thống nhất. Tuy nhiên, đối với dự án luật do Chính phủ trình, nếu sau 2 lần đọc
mỗi Viện quan điểm của hai Viện vẫn khác nhau về dự thảo luật thì Thủ
tướng Chính phủ có thể đề nghị lập Ủy ban hỗn hợp chung của hai. (Đâymột
ủy ban đặc biệt với số lượng thành viên đến từ hai viện ngang bằng nhau. Chức
năng chính của Ủy ban này là tìm kiếm phương án về dự án luật màthể chấp
nhận được đối với cả hai viện. Tuy nhiên, phương án thỏa hiệp này đều phải
được Chính phủ chấp thuận. Nếu như ngay cả cách lập Ủy ban này vẫn không
đưa tới giải pháp mang tính chấp nhận được đối với cả hai Viện, thì sau khi văn
bản đã được Hạ viện và Thượng viện xem xét, thảo luận một lần nữa, Chính phủ
sẽ đề nghị Hạ viện có tiếng nói cuối cùng.)
- Hiến pháp của Mỹ quy định rằng: Tất cả các dự án luật đã được Hạ viện
Thượng viện thông qua, trước khi trở thành luật đều phải trình lên Tổng
thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tổng thống 10 ngày để xem xét quyết
định phê chuẩn dự án luật. Trường hợp đồng ý, Tổng thống sẽ ký vào dự luật và
ghi rõ “phê chuẩn” ngày ký. Một dự luật cũng vẫn thể trở thành luật
không cần Tổng thống ký, nếu Tổng thống không trả lại dự luật với những ý
kiến phản đối củanh trong vòng 10 ngày (không tính các ngày chủ nhật) sau
khi dự luật đã được chuyển tới Tổng thống. Nếu Tổng thống không phê chuẩn
một dự luật, “Tổng thống sẽ gửi trả lại
- Khác với việc phủ quyết toàn bộ đạo luật, Tổng thống thể phủ quyết
một số vấn đề cụ thể của đạo luật, nhất về các khoản ngân sách chi tiêu hàng
năm. Việc phủ quyết này cần phải gửi lại cho hai Viện hai Viện phải thông
qua, sau đó 2 viện thảo luận thống nhất điều chỉnh. Trường hợp Tổng thống
vẫn giữ nguyên quan điểm của mình phủ quyết cả đạo luật phản bác của hai
Viện thì phải hai phần ba số phiếu của mỗi Viện để bác bỏ lại ý kiến phủ
quyết của Tổng thống. Thủ tục ở Thượng viện cũng như ở Hạ viện là cần có 2/3
số phiếu ủng hộ để thông qua dự luật bác bỏ những ý kiến phản đối của Tổng
thống. Nếu 2/3 số phiếu mỗi viện ủng hộ thông qua dự luật, thì dự luật đó
trở thành luật của quốc gia không phụ thuộc vào ý kiến phản đối của Tổng
thống.
Đánh giá chung: Quy trình lập pháp của 2 quốc gia này đề khá chặt chẽ
khi được nghiên cứu kỹ từ 2 viện thượng nghị viện hạ nghị viện. Tuy
nhiên, quyền lực giữa các viện tại mỗi quốc gia có sự khác nhau, Hạ viện ở Pháp
thực quyền nhiều hơn khi thể đưa ra phán quyết cuối cùng không phụ
thuộc vào quyết định của Thượng viện.
2.2 So sánh mô hình chính phủ tại Mỹ và Pháp
2.2.1. So sánh cách thức bầu người đứng đầu của chính phủ Mỹ
chính phủ Pháp
Hệ thống bầu cử: Cả Mỹ Pháp đều hệ thống bầu cử dân chủ, trong
đó công dân quyền bỏ phiếu để bầu người đứng đầu chính phủ. Tuy nhiên,
cách thức bầu cử và hệ thống bầu cử của hai quốc gia này có những khác biệt.
Mỹ Pháp
Tiêu chuẩn ứng
viên
Tổng thống Mỹ phải là
người ít nhất 35 tuổi, phải là
công dân Mỹ trong 14 năm
và được sinh ra ở Mỹ.
Các ứng cử viên tổng thống
cần đảm bảo điều kiện sức
khoẻ cũng như không được
dưới 23 tuổi và quan trọng
nhất là phải có được sự ủng
hộ của một nhóm các chính
khách
Cách thức bầu
Bầu thông qua phiếu đại cử
tri, người dân bầu nên đại cử
tri (Thượng nghị sĩ và hạ
Nghị sĩ của bang)
Bầu cử 2 vòng.
Nhiệm kỳ tối
đa
Nhiệm kỳ tối đa 4 năm, tối
đa 2 nhiệm kỳ
Nhiệm kỳ tối đa 5 năm, tối
đa 2 nhiệm kỳ
Bầu cử tổng thống Mỹ:
Về cơ bản, quá trình tổng thống Mỹ trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn bầu cử sơ bộ:
Cách thức bản để lựa chọn ứng cử viên Tổng thống của một đảng
thường được tiến hành thông qua các cuộc bầu cử bộ. Để được đề cử chính
thức tại hội nghị đảng toàn quốc, một ứng cử viên Tổng thống phải giành được
tối đa số phiếu bầu tại cuộc bầu cử sơ bộ. Mục đích của các cuộc bầu cử sơ bộ là
nhằm tìm hiểu mức độ ủng hộ của cử tri đối với các ứng cử viên của đảng sẽ
tham gia tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử. Về mặt thuyết, quá trình đề cử
ứng cử viên Tổng thống thông qua các cuộc bầu cử sơ bộ là một bước tiến trong
quá trình dân chủ hoá đời sống chính trị nước Mỹ. Nó đã tạo điều kiện cho đông
đảo người dân tham gia vào một trong những sự kiện quan trọng nhất của đời
sống chính trị Mặt khác theo cách này các ứng cử viên cũng không còn phụ
thuộc vào 1 nhóm nhỏ các nhà lãnh đạo đảng, những người trước đây vốn giữ
đặc quyền giới thiệu ứng cử viên.
Hội nghị đảng toàn quốc:
Sau các vòng bỏ phiếu đầu tiên, các ứng cử viên được ít phiếu thường
được vận động rút khỏi danh sách để cho phiếu bầu được tập trung. Ngoài việc
chính thức đề cử các ứng cử viên Tổng thống và Phó Tổng thống, hội nghị cũng
nhiệm vụ thông qua cương lĩnh tranh cử của đảng. Ngay sau khi các ứng cử
viên chính thức được đề cử thì cuộc vận động tranh cử cũng thực sự bắt đầu.
Lúc này, đối thủ của họ không phải người trong nội bộ đảng nữa, đại
diện của các đảng khác.
Công việc quan trọng trước tiên đối với ứng cử viên là phải thành lập một
tổ chức vận động tranh cử cho mình. Để giành chiến thắng trong bầu cử đòi hỏi
các ứng cử viên phải vạch ra được một chiến lược tranh cử ràng. Đây vấn
đề có ý nghĩa then chốt quyết định sự thành bại của chiến dịch. Có thể nói, chiến
dịch vận động tranh cử nhằm tạo cho người dân hình ảnh một vị Tổng thống
tương lai đầy ấn tượng. Hàng loạt các tài liệu được in ấn, các buổi hình, các bài
diễn văn được đọc ở khắp mọi nơi.
Giai đoạn bầu Tổng thống và Phó Tổng thống:
Trong cuộc bầu cử Tổng thống, người dân Mỹ không trực tiếp lựa chọn
người thắng cử. Thay lẽ đó, họ bỏ phiếu bầu các đại cử tri những người
này sẽ thay mặt họ bỏ phiếu bầu Tổng thống. Dựa trên nguyên tắc “người thắng
được tất cả", các ứng cử viên của đảng nào thu được đa số tương đối phiếu bầu ở
một bang sẽ giành được toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó. Sau khi được
bầu, các đại cử tri sẽ gặp nhau tại thủ phủ của bang mình chính thức bầu
Tổng thống vào một ngày đã định.
Theo quy định, khi một người được dề cử làm Tổng thống thì cũng chọn
một người làm Phó Tổng thống cho mình. Cho nên khi bầu chức Tổng thống
đồng thời người ta bầu luôn cả chức Phó Tổng thống. Kết quả bỏ phiếu được gửi
đến Washington. Vào ngày 6-1 của năm sau, tại phiên họp chung của Quốc hội,
dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Thượng viện, các phiếu bầu sẽ được mang ra đêm.
Ứng cử viên nào giành được đa số tuyệt đối phiếu bầu đại cử tri sẽ người
thắng cử. Tuy nhiên, công đoạn này chỉ tính hình thức, thực tế sau ngày
tổng tuyển cử, người ta chỉ cần đếm số dại cử trì của mỗi đảng là đã thể xác
định được ai là Tổng thống.
Bầu cử tổng thống và Thủ tướng Pháp:
Đối với nước Pháp, quy trình bầu cử tổng thống sẽ diễn ra phức tạp hơn
với 2 vòng bầu cử. Trong vòng bầu cử đầu tiên này, ứng cử viên nào có số phiếu
bầu quá bán (hơn 50%) sẽ thắng cử. Trong trường hợp ngược lại, hai ứng cử
viên có số phiếu cao nhất trong số 11 người sẽ đi tiếp vào vòng 2.
Trong nhánh quyền hành pháp bộ máy nhà nước Pháp, ngoài Tổng
thống thì Chính phủ cũng là một thiết chế vô cùng quan trọng trong điều hành và
quản lý đất nước, thực hiện chức năng công quyền. Đặc điểm của tổ chức và vận
hành bộ máy nhà nước Pháp là tồn tại Chính phủ lưỡng đầu - lưỡng đầu chế,
nghĩa Tổng thống đứng đầu nhánh quyền hành pháp, nhưng điều hành Chính
phủ Thủ tướng. Chính phủ lưỡng đầu chính chế cân bằng quyền lực
Pháp. Tổng thống quyền bổ nhiệm Thủ tướng nhưng Hiến pháp năm 1958
quy định Tổng thống chỉ được bổ nhiệm người đứng đầu đảng chiếm đa số trong
Hạ viện (Quốc hội) làm Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, khi cầm lá phiếu đi bầu
Hạ viện (Quốc hội) Pháp, cũng có nghĩa là người dân đang đi bầu Thủ tướng của
mình. Tổng thống được nhân dân toàn quốc trực tiếp bầu ra, Hạ viện (Quốc hội)
cũng do nhân dân toàn quốc trực tiếp bầu ra.
Chính phủ Pháp được hình thành bằng cách thức sau đây: Tổng thống
chọn ứng cử viên vào chức vụ Thủ tướng bổ nhiệm. Thủ tướng trách
nhiệm thành lập Chính phủ lựa chọn các Bộ trưởng đệ trình lên Tổng thống
để Tổng thống bổ nhiệm. Tổng thống quyền tự do khi lựa chọn ứng cử viên
vào chức vụ thủ tướng. Đó là thẩm quyền đặc biệt của tổng thống.
sao Mỹ đứng đầu tổng thống còn Pháp đứng đầu lại Thủ
tướng?
Mỹ, hệ thống chính trị dựa trên Hiến pháp của năm 1787 gồm ba
quan chính trị quan trọng: Tổng thống, Quốc hội (gồm Hạ viện và Thượng viện)
Tòa án Tối cao. Tổng thống người đứng đầu chính phủ chỉ huy tối
cao của lực lượng vũ trang. Vị trí Tổng thống được bầu chọn trực tiếp thông qua
cuộc bầu cử dân chủ đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc đưa ra quyết định
chính trị và quản lý quốc gia.
Trong khi đó, Pháp, hệ thống chính trị dựa trên Hiến pháp của năm
1958 một chính quyền tổng thể hợp, trong đó Tổng thống Thủ
tướng. Tổng thống vai trò đại diện cho quốc gia thẩm quyền trong lĩnh
vực quốc phòng quan hệ quốc tế, trong khi Thủ tướng người đứng đầu
chính phủ, trách nhiệm trong việc thực hiện các chính sách, quản hàng
ngày và đứng đầu kỳ hội đàm trong Quốc hội.
Sự khác biệt này do nguyên nhân lịch sử, trong quá trình phát triển chính
trị, Mỹ được lấy cảm hứng từ các nguyên tắc dân chủ, tự do độc lập, trong
khi Pháp truyền thống tổ chức chính phủ tương đối khác với hệ thống bộ
máy. Mỗi quốc gia sắp xếp cấu trúc lãnh đạo của mình dựa trên công tác hợp tác
giữa các cơ quan chính phủ và nguyện vọng của người dân.
Đánh giá chung: hình nước Mỹ, tổng thống vừa nguyên thủ
quốc gia, vừa người đứng đầu quan hành pháp, tức chính phủ, tổng thống
được người dân bầu nên do đó có quyền lực rất lớn, đối với mô hình nước pháp
theo chế độ lưỡng đầu chế, Tổng thống đứng đầu nhánh quyền hành pháp,
nhưng điều hành Chính phủ là Thủ tướng. Mô hình hỗn hợp cho rằng đây là giải
pháp hữu hiệu góp phần kiểm soát quyền lực của tổng thống (vốn 1 hạn chế
của mô hình tổng thống).
2.2.3 So sánh quy n l c c a nguyên th qu c gia ng i đ ng ườ
đ u c quan hành pháp c a Mỹ v i Pháp ơ
Theo Hiến pháp Mỹ, Tổng thống đảm nhiệm hai chức năng, vừangười
đứng đầu Nhà nước (nguyên thủ quốc gia) vừa người đứng đầu ngành hành
pháp (các cơ quan hành pháp).
Trong vai trò người đứng đầu Nhà nước, Tổng thống Mỹ đại diện cho
nước Mỹ ở cả trong lẫn ngoài nước. Trong vai trò là người đứng đầu ngành hành
pháp, Tổng thống Mỹ cũng đồng thời tổng lệnh các lực lượng lục quân,
không quân, hải quân và lực lượng dự bị ở một số bang,quyền điều hành lực
lượng quốc phòng của mỗi tiểu bang.
Tổng thống Mỹ còn được coinhà lãnh đạo tượng trưng cho chính đảng
của mình. Các chương trình, các sáng kiến tổng thống đưa ra thường phản
ánh quan điểm của đảng mình là thành viên. Hơn nữa, Tổng thống còn được
hậu thuẫn bởi cả hệ thống trong đảng của mình thông qua đó đại bộ phận
dân chúng Mỹ.
Với vai trò tầm ảnh hưởng lớn như vậy, quyền lực của Tổng thống
được Hiến pháp Mỹ quy định, thể hiện trên từng lĩnh vực.
Lĩnh vực hành pháp
Nhà nước Mỹ được thiết lập theo hình tam quyền phân lập, Quốc hội
nắm quyền lập pháp, tổng thống nắm quyền hành pháp còn tòa án nắm quyền
pháp.Tổng thống trực tiếp lãnh đạo ngành hành pháp, toàn quyền thực thi những
chính sách, luật pháp.
Tổng thống quyết định cấu tổ chức, hoạt động của nền hành chính
quốc gia. Lãnh đạo quản chung tất cả các bộ cùng rất nhiều quan, ủy
ban liên bang và đội ngũ quan chức dân sự. Tổng thống cũngngười đề cử, bổ
nhiệm, bãi nhiệm những quan chức hành pháp. Đương nhiên, quyền lực trong
lĩnh vực hành pháp tạo nên phần bản nhất của quyền lực tổng thống, giúp
Tổng thống thực hiện tốt nhất chức năng của mình.
Lĩnh vực lập pháp
Với cách nguyên thủ quốc gia, Tổng thống người duy nhất thay mặt
Nhà nước công bố những đạo luật Quốc hội thông qua. Chỉ khi được tổng
thống công bố, những đạo luật đó mới được ban hành mới bắt đầu hiệu
lực.
Rất nhiều dự luật tại Quốc hội do tổng thống đề nghị qua các thông điệp
gửi cho Quốc hội. Thông điệp của tổng thống đôi khi không chỉ thông báo tình
hình trong nước quốc tế, còn nhằm sửa đổi những đạo luật hoặc kiến
tạo những đạo luật mới. Tổng thống cũng một đảng viên chính thức của đảng
cầm quyền do đó thể dự thảo dự luật rồi trao cho nghị sĩ thuộc đảng mình để
trình trước Quốc hội. Trên thực tế cũng có rất nhiều dự luật được xuất phát từ đề
xuất của Tổng thống.
Ngoài ra, Tổng thống Mỹ là người quyền trong việc lập thực hiện
ngân sách liên bang. Các quan hành pháp soạn thảo dự luật ngân sách quốc
gia trình Tổng thống xem xét. Sau khi Tổng thống phê chuẩn, dự luật ngân sách
được chuyển cho Quốc hội thông qua. Tổng thống cũng quyền triệu tập kỳ
họp Quốc hội bất thường.
Một quyền quan trọng của tổng thống Mỹ trong lĩnh vực lập pháp không thể
không nhắc đến quyền phủ quyết. Tất cả những dự luật do Quốc hội thông
qua, trước khi được ban hành trở thành đạo luật phải đệ trình lên tổng thống.
Trong vòng 10 ngày không kể Chủ nhật, nếu đồng ý, tổng thống sẽ công bố
dự luật đó. Nếu không đồng ý, tổng thống sẽ phủ quyết, gửi trả nơi đã soạn thảo
ra dự luật đó và yêu cầu Quốc hội xem xét lại. Quốc hội phải bàn bạc, sửa đổi...
chỉ khi không dưới 2/3 nghị trong mỗi Viện tán thành thì dự luật này mới
trở thành đạo luật. Một trường hợp tổng thống thể phủ quyết một cách
“kỹ thuật trong 10 ngày như trên, tổng thống không hành động với dự
luật thì coi như tổng thống đồng ý, tuy nhiên, cũng trong thời hạn đó, nếu Quốc
hội kết thúc khóa họp, thì dự luật lại không thể trở thành đạo luật.
Lĩnh vực tư pháp
Tổng thống Mỹ được quyền đề cử bổ nhiệm các thẩm phán liên bang,
bao gồm quan trọng nhất 9 vị thẩm phán Tòa án tối cao. Quyền này phần
nào làm giảm tính độc lập của hệ thống tòa án tạo cho tổng thống một
quyền lực nhất định trong ngành tư pháp.
Tổng thống cũng quyền ân cho bất kỳ ai đã bị kết tội vi phạm luật
pháp liên bang, trừ trường hợp còn nghi vấn hoặc phạm tội phản bội tổ quốc.
Ngoài ra, tổng thống có quyền phát lệnh truy nã, bắt giữ trên phạm vi liên
bang và quốc tế đối với những tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho nước Mỹ và thế
giới.
THỦ TƯỚNG PHÁP
Khác với những quyền hạn của tổng thống mỹ thì thủ tướng pháp ít
quyền hạn hơn và chịu sự tác động từ tổng thống
Theo Điều 39 Hiến pháp 1958 thì cả Thủ tướng thành viên Chính phủ
quyền sáng kiến lập pháp. Thủ tướng quyền đưa ra sáng kiến lập pháp, tự
mình tham gia vào việc xây dựng dự án luật, thể tham gia hoạt động của các
Ủy ban thuộc Nghị viện.
Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo hoạt động của Chính phủ, chịu trách
nhiệm về quốc phòng, đảm bảo việc thực hiện các luật và có quyền ban hành các
văn bản pháp quy, bổ nhiệm các chức vụ dân sự và quân sự. Thủ tướng có quyền
đề nghị tổng thống bổ nhiệm và bãi nhiệm các bộ trưởng; có quyền đưa ra dự án
luật, đề nghị Nghị viện họp bất thường, đề nghị họp ủy ban hỗn hợp giữa Quốc
hội Thượng nghị viện để giải quyết các bất đồng trong quá trình thông qua
luật.
Pháp tồn tại chế độ chính phủ lưỡng đầu nghĩa là tổng thống đứng đầu
nhánh quyền hành pháp, nhưng điều hành chính phủ là thủ tướng. Thủ tướng
thể chủ tọa phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng trong một số trường hợp đặc biệt
khi sự ủy quyền của tổng thống theo chương trình nghị sự nhất định. Vai
trò điều hành của thủ tướng bị chi phối bởi đảng phái trong hạ viện. Thủ tướng
| 1/21

Preview text:

NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH
Chủ đề: So sánh Nhà nước trong mô hình tổng thống và mô hình hỗn hợp 1. MỞ ĐẦU:
Phương pháp so sánh là phương pháp đặc trưng của chính trị học so sánh.
Phương pháp so sánh gồm hai loại so sánh cơ bản: Phương pháp đồng nhất và Phương pháp dị biệt.
Phương pháp so Phương pháp đồng nhất
Phương pháp dị biệt sánh Công thức Giống - giống - khác Khác - khác - giống Đặc điểm
-So sánh hai chủ thể có -So sánh hai chủ thể có
nhiều đặc trưng căn bản nhiều đặc trưng căn bản
giống nhau và có các kết khác nhau và có các kết quả
quả giống nhau. Trên cơ sở khác nhau. Trên cơ sở đó có
đó có thể phân tích, tìm thể phân tích, tìm hiểu
hiểu nguyên nhân, lý giải nguyên nhân, lý giải những
những yếu tố nào có tính yếu tố nào có tính chi phối,
chi phối, quyết định trong quyết định trong đời sống
đời sống chính trị, những chính trị, những yếu tố nào
yếu tố nào không có tính không có tính chi phối. chi phối. - Có độ tin cậy cao hơn
- Có độ tin cậy chưa hoàn phương pháp đồng nhất.
toàn cao vì nguyên nhân: Tuy nhiên, phương pháp
do sự chọn mẫu chưa này cũng có điểm yếu là có
khách quan, do không thể có các nguyên nhân
kiểm soát được toàn bộ các khác cũng dẫn tới kết quả. yếu tố ảnh hưởng...
Yêu cầu đặt ra là so sánh Hệ thống nhà nước trong mô hình hỗn hợp và mô hình tổng thống.
Hai mô hình hỗn hợp và mô hình tổng thống có nhiều đặc trưng cơ bản
khác nhau, nhóm sử dụng Phương pháp so sánh đồng nhất với công thức “giống – giống khác”
Để thực hiện so sánh, nhóm nghiên cứu chọn các biến nhỏ bao gồm biến
lập phá, hành pháp, tư pháp, nguyên thủ quốc gia để tiến hành so sánh giữa 2 mô
hình. Để thực hiện so sánh, nhóm nghiên cứu đã chọn ra 2 quốc gia tiêu biểu cho
mô hình tổng thống là Mỹ và mô hình hỗn hợp là Pháp để tiến hành so sánh. 2. NỘI DUNG
2.1 So sánh mô hình nghị viện ở 2 nước
2.1.1. Số lượng viện
Tại Mỹ và Pháp đều tổ chức theo mô hình lưỡng viện, tức có 2 viện trong
cơ quan lập Pháp, gọi là Thượng viện và Hạ viện, Thượng viện được bầu theo
đại diện đơn vị hành chính lãnh thổ, còn hạ viện được bầu theo đại diện cho tầng
lớp nhan dân và bầu theo tỉ lệ dân số.
2.2.2. Cách bầu nghị sĩ Mỹ Pháp Số lượng 100 331 Các thượng nghị sĩ Thượng viện
Đại diện mỗi bang được bầu gián tiếp Tính đại diện 2 người bởi một hội đồng bầu cử 6 năm. 2 năm bầu Nhiệm kỳ 6 năm lại 1/3 Số lượng 435 577 Bầu theo tỉ lệ dân Đại diện theo tỉ lệ Hạ viện Tính đại diện số mỗi bang dân số Nhiệm kỳ 2 năm 5 năm
Xuất phát từ quan điểm kết hợp những ưu điểm của 2 mô hình là Tổng
thống và mô hình nghị viện. Mô hình hỗn hợp đã có sự vay mượn một vài yếu tố
nổi bật của mô hình tổng thống, điều này được thể hiện rõ trong cơ cấu tổ chức
của thượng viện và hạ viện 2 nước là Mỹ và Pháp. Thượng nghị sĩ ở 2 nước đều
mang tính đại diện cho cách đơn vị hành chính nhất định và nhiệm kỳ nhìn
chung đề dài hơn so với nhiệm kỳ Hạ viện. Mặc dù các nghị sĩ ở cả 2 viện được
bầu chọn thông qua phiếu bầu, khác với mô hình Westminster (Thượng nghị sĩ
không qua bầu chọn), theo đúng lý thuyết, quyền lực của thượng viện và Hạ
viện tại 2 quốc gia này là gần tương đương nhau. Tuy nhiên, có thế thấy sự khác
biệt trong cán cân quyền lực giữa thượng viện và hạ viện của 2 quốc gia này,
điều này được thể hiện ở các nội dung sau:
Thượng viện ở Pháp bị giới hạn về mặt quyền lực hơn so với Thượng viện
ở Mỹ. Thượng viện Pháp chỉ xuất hiện chủ yếu như một “cơ quan tư vấn”.
Trong khi đó, vai trò và năng lực thực sự của Hạ viện (Quốc hội) ngày càng
được khẳng định so với Thượng viện và với các nhánh quyền lực khác. Hạ viện
(Quốc hội) có vai trò rất lớn trong việc thành lập Chính phủ và là cơ quan mà
Chính phủ phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Thủ tướng Pháp vừa
phải chịu trách nhiệm trước Tổng thống cộng hòa vừa phải chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình. Hạ viện Pháp có quyền bỏ phiếu bất tính nhiệm đối với
chính phủ và thủ tướng. Hạ viện Pháp cũng là cơ quan có tiếng nói cuối cùng
trong việc thông qua một dự án luật, bất kể kết quả bỏ phiếu của Thượng viện.
Chủ tịch Hạ viện giữa vai trò chủ tọa hội nghị phê chuẩn các quy định sửa đổi hiến pháp.
Điều đó cũng phù hợp và là tất yếu, nếu chúng ta nhìn nhận dưới góc độ
nguồn gốc quyền lực của Thượng viện và Hạ viện thì ta sẽ thấy được. Nguồn
gốc quyền lực của Hạ viện (Quốc hội) là từ nhân dân mà ra và do nhân dân ủy
quyền. Phương thức bầu cử bằng phổ thông đầu phiếu trực tiếp thể hiện tính dân
chủ, tính đại diện rộng rãi của Hạ viện (Quốc hội) Pháp. Chính vì quyền lực
được xác lập thông qua bầu cử dân chủ tạo nên tính chính đáng trong thực thi
quyền lực của thiết chế này. Trong khi đó, các Thượng nghị sĩ tại Pháp lại được
bầu thông qua hội đồng bầu cử, không phải dân trực tiếp bầu nên do đó quyền
lực sẽ bị hạn chế hơn so với Hạ viện.
Tuy nhiên, tại Mỹ Thượng viện và Hạ viện có quyền lực gần như ngang
bằng nhau, tạo nên thế đối trọng, cân bằng quyền lực giữa 2 bộ phận của cơ
quan lập pháp. Điều này được thể hiện như sau:
Một là, Mỗi viện của Quốc hội có quyền đưa ra văn bản pháp lý về bất cứ
vấn đề gì trừ các dự luật về thu ngân sách là phải bắt nguồn từ Hạ viện. Song
trên thực tế mỗi viện đều có quyền bỏ phiếu chống lại những văn bản pháp lý đã
được viện kia thông qua. Thượng viện có thể không tán thành một dự luật về thu
ngân sách của Hạ viện - hoặc bất kỳ một dự luật nào liên quan đến vấn đề này -
hoặc bổ sung những sửa đổi làm thay đổi bản chất của chúng. Trong trường hợp
đó, một tiểu ban tham vấn, được thành lập bao gồm thành viên của cả hai viện,
phải đi tới được một sự thỏa hiệp có thể chấp nhận đối với cả hai bên trước khi
dự luật trở thành luật.
Thượng viện cũng có những quyền hạn nhất định dành riêng cho cơ quan
này, trong đó có quyền xác nhận sự bổ nhiệm của tổng thống đối với các quan
chức cao cấp và các đại sứ của chính quyền liên bang, cũng như quyền phê
chuẩn tất cả các hiệp ước với 2/3 số phiếu thuận. Trong cả hai trường hợp, hành
động không ủng hộ của Thượng viện sẽ vô hiệu hóa hành động của ngành hành
pháp. Đây là một trong những công cụ khá đắc lực của Thượng viện nhằm tác
động đến chính sách đối ngoại của quốc gia.
Trong trường hợp luận tội các quan chức liên bang, Hạ viện có toàn quyền
đưa ra lời buộc tội về hành vi bất chính có thể dẫn tới việc xét xử ở tòa án.
Thượng viện cũng có toàn quyền kiểm tra những trường hợp luận tội và xác
minh xem các quan chức là có tội hay vô tội.
Hiến pháp quy định phó tổng thống sẽ là chủ tịch Thượng viện. Phó tổng
thống không có quyền bỏ phiếu, trừ trường hợp hai bên bằng phiếu nhau.
Thượng viện chọn một chủ tịch lâm thời để điều hành khi phó tổng thống vắng
mặt. Hạ viện tự chọn quan chức điều hành của mình - tức chủ tịch Hạ viện. Chủ
tịch Hạ viện và chủ tịch lâm thời Thượng viện bao giờ cũng là thành viên của
chính đảng có số đại diện lớn nhất ở mỗi viện. Vào đầu mỗi nhiệm kỳ Quốc hội
mới, thành viên của các chính đảng lựa chọn các nhà lãnh đạo của viện và các
quan chức khác để xử lý khối lượng các văn bản pháp luật được đề nghị. Các
quan chức này, cùng với các quan chức điều hành và chủ tịch các ủy ban, ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với quá trình làm luật.
2.2.3. Sự kiểm soát đối với cơ quan hành pháp
- Cách thức hình thành cơ quan hành pháp:
+ Ở Mỹ, Nghị viện không kiểm soát hành pháp với danh nghĩa là kiểm
soát cơ quan do mình lập ra. Bởi lẽ, Tổng thống Mỹ là người đứng đầu nhà nước
và ngành hành pháp Mỹ. Tổng thống và Phó Tổng thống Mỹ được lựa chọn
thông qua bầu cử theo nhiệm kỳ 4 năm một lần. Công dân ở các bang bầu ra các
đại cử tri. Tập thể đại cử tri này (538 người) sẽ bầu ra Tổng thống và Phó Tổng thống.
+ Ở Pháp, sự hình thành bộ máy hành pháp là sự kết hợp giữa hai mô hình
nước Anh và nước Mỹ. Tổng thống Pháp do nhân dân trực tiếp bầu ra theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và giữ nhiệm kỳ 5 năm. Thủ tướng được đề cử
bởi đa số trong Nghị viện và được Tổng thống bổ nhiệm.
- Quyền lực của Tổng thống (Nguyên thủ quốc gia) đối với cơ quan hành pháp:
+ Ở Mỹ, quyền hành pháp thuộc về tổng thống. Tổng thống Mỹ là nguyên
thủ quốc gia và nắm toàn bộ quyền quản lý, điều hành quốc gia. Chính phủ
không phải là cơ quan hiến định và chỉ là bộ máy tham mưu, giúp việc cho Tổng thống.
+ Ở Pháp, quyền hành pháp cũng thuộc về nguyên thủ quốc gia và chính
phủ. Tuy nhiên, Tổng thống Pháp (nguyên thủ quốc gia) mới là người nắm
quyền hành pháp một cách thực chất. Tổng thống Pháp có nhiều quyền hành
trong việc quản lý nhà nước và là đại diện hành pháp duy nhất. Tổng thống lãnh
đạo tuyệt đối Chính phủ. Tổng thống có quyền phủ quyết các chính sách của
Chính phủ. Chính phủ cùng thực thi quyền hành pháp với Tổng thống. Thủ
tướng là người đứng đầu Chính phủ, chỉ đạo Chính phủ thực thi chính sách của Tổng thống.
- Hoạt động chất vấn của nghị viện đối với cơ quan hành pháp.
+ Ở Pháp, trong vòng 4 tuần làm việc của Nghị viện lại có một tuần trong
đó ưu tiên dành cho việc xem xét hoạt động của Chính phủ. Mỗi tuần ít nhất
Nghị viện phải ưu tiên dành một buổi họp để các nghị sĩ chất vấn các thành viên
Chính phủ. Các bộ trưởng của Chính phủ có nghĩa vụ trả lời các câu hỏi chất
vấn của thành viên Nghị viện, đồng thời phải có trách nhiệm tham dự các phiên
họp khi Nghị viện thảo luận về các dự án luật liên quan đến lĩnh vực phụ trách.
+ Ở Mỹ, Nghị viện thường xuyên tiến hành hoạt động điều trần đối với cơ
quan hành pháp. Việc điều trần được thực hiện để thu thập ý kiến về một dự
luật, điều tra về một vấn đề hoặc giám sát, đánh giá hoạt động của Chính phủ.
Không giống hoạt động chất vấn thường tiến hành tại các kỳ họp toàn thể của
nghị viện các nước, hoạt động điều trần ở Mỹ được thực hiện tại các ủy ban, tiểu
ban của Nghị viện, thậm chí một nhóm nghị sĩ cũng có thể tổ chức điều trần và
được tiến hành ngay khi nảy sinh các vấn đề kinh tế, xã hội cấp thiết.
- Quyền lực của nghị viện trong việc điều tra, thanh tra và xét xử đối với chính phủ:
+ Ở Pháp, khi các thành viên Chính phủ phạm tội, Nghị viện có thể thành
lập tòa án cấp cao để xét xử. Các thành viên của tòa án cấp cao được lựa chọn
trong số các nghị sĩ của cả hai viện. Nếu Tổng thống phạm tội phản quốc hoặc
âm mưu xâm hại an toàn của nhà nước, tòa án này cũng có thể xét xử cả Tổng
thống sau khi có sự nhất trí của đa số nghị sĩ trong cả hai viện. Ngoài ra, để thực
hiện việc kiểm soát đối với hành pháp, Nghị viện Pháp có thể thành lập các ủy
ban điều tra để thu thập thông tin
+ Ở Mỹ, Nghị viện có thể thực hiện thủ tục luận tội đối với các quan chức
hành pháp liên bang (tổng thống, phó tổng thống, bộ trưởng, lãnh đạo các cơ
quan ngang bộ…). Kết quả cao nhất của thủ tục này là khả năng truất quyền đối
với đương sự (khi toàn bộ các điều khoản luận tội đạt được đa số phiếu tán
thành của các thành viên tham gia luận tội).
Tuy nhiên, có một điểm quan trọng cho thấy tổng thống Pháp có quyền
hơn so với tổng thống Mỹ. Tổng thống Pháp có quyền đề nghị giải tán nghị viện
và bầu lại nghị viện mới trước nhiệm kỳ, tổng thống Mỹ thì không có quyền này.
Đánh giá chung: Cả Mỹ và Pháp đều có hệ thống pháp luật phát triển dựa
trên lịch sử và văn hóa riêng của mình. Mặc dù có sự tương đồng trong cơ sở hạ
tầng lập pháp và cơ quan hành pháp viện, nhưng các khác biệt về hệ thống pháp
luật, quy trình lập pháp chi tiết và nguyên tắc kiểm soát chính phủ tạo ra những
đặc điểm độc đáo. Cả hai hệ thống đều nhấn mạnh sự cân bằng quyền lực giữa
các cơ quan lập pháp, thực hiện kiểm soát và cân nhắc đối với quyền lực hành pháp.
2.2.4. Quy trình lập pháp
- Cả Mỹ và Pháp đều có một Quốc hội (Parliament) gồm hai thể, với dự
luật cần được thông qua cả hai thể để trở thành luật.
- Cả hai tổng thống đều có quyền ký hoặc từ chối ký dự luật.
Tuy nhiên, theo những phân tích của nhóm từ sự bất cân xứng về mặt
quyền lực của Hạ viện đối với Thượng viện của nước Pháp, do đó, so với nước
Mỹ, Hạ viện ở Pháp có thực quyền nhiều hơn so với Hạ viện ở Mỹ:
- Mọi dự thảo luật (dù do Chính phủ trình hay do nghị sỹ trình) nếu muốn
trở thành luật thì đều phải được sự chấp thuận của cả hai viện là Hạ viện và
Thượng viện. Tổng thống Pháp cũng có quyền phủ quyết đối với các đạo luật đã
được Quốc hội thông qua.
- Theo quy định tại Điều 45 Hiến pháp của Pháp, dự án luật được lần lượt
đưa ra xem xét, thảo luận tại 2 Viện của Quốc hội để thông qua một văn bản
thống nhất. Tuy nhiên, đối với dự án luật do Chính phủ trình, nếu sau 2 lần đọc
ở mỗi Viện mà quan điểm của hai Viện vẫn khác nhau về dự thảo luật thì Thủ
tướng Chính phủ có thể đề nghị lập Ủy ban hỗn hợp chung của hai. (Đây là một
ủy ban đặc biệt với số lượng thành viên đến từ hai viện ngang bằng nhau. Chức
năng chính của Ủy ban này là tìm kiếm phương án về dự án luật mà có thể chấp
nhận được đối với cả hai viện. Tuy nhiên, phương án thỏa hiệp này đều phải
được Chính phủ chấp thuận. Nếu như ngay cả cách lập Ủy ban này vẫn không
đưa tới giải pháp mang tính chấp nhận được đối với cả hai Viện, thì sau khi văn
bản đã được Hạ viện và Thượng viện xem xét, thảo luận một lần nữa, Chính phủ
sẽ đề nghị Hạ viện có tiếng nói cuối cùng.)
- Hiến pháp của Mỹ quy định rằng: Tất cả các dự án luật đã được Hạ viện
và Thượng viện thông qua, trước khi trở thành luật đều phải trình lên Tổng
thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tổng thống có 10 ngày để xem xét và quyết
định phê chuẩn dự án luật. Trường hợp đồng ý, Tổng thống sẽ ký vào dự luật và
ghi rõ “phê chuẩn” và ngày ký. Một dự luật cũng vẫn có thể trở thành luật mà
không cần Tổng thống ký, nếu Tổng thống không trả lại dự luật với những ý
kiến phản đối của mình trong vòng 10 ngày (không tính các ngày chủ nhật) sau
khi dự luật đã được chuyển tới Tổng thống. Nếu Tổng thống không phê chuẩn
một dự luật, “Tổng thống sẽ gửi trả lại
- Khác với việc phủ quyết toàn bộ đạo luật, Tổng thống có thể phủ quyết
một số vấn đề cụ thể của đạo luật, nhất là về các khoản ngân sách chi tiêu hàng
năm. Việc phủ quyết này cần phải gửi lại cho hai Viện và hai Viện phải thông
qua, sau đó 2 viện thảo luận và thống nhất điều chỉnh. Trường hợp Tổng thống
vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và phủ quyết cả đạo luật phản bác của hai
Viện thì phải có hai phần ba số phiếu của mỗi Viện để bác bỏ lại ý kiến phủ
quyết của Tổng thống. Thủ tục ở Thượng viện cũng như ở Hạ viện là cần có 2/3
số phiếu ủng hộ để thông qua dự luật bác bỏ những ý kiến phản đối của Tổng
thống. Nếu có 2/3 số phiếu ở mỗi viện ủng hộ thông qua dự luật, thì dự luật đó
trở thành luật của quốc gia mà không phụ thuộc vào ý kiến phản đối của Tổng thống.
Đánh giá chung: Quy trình lập pháp của 2 quốc gia này đề khá chặt chẽ
khi được nghiên cứu kỹ từ 2 viện là thượng nghị viện và hạ nghị viện. Tuy
nhiên, quyền lực giữa các viện tại mỗi quốc gia có sự khác nhau, Hạ viện ở Pháp
có thực quyền nhiều hơn khi có thể đưa ra phán quyết cuối cùng không phụ
thuộc vào quyết định của Thượng viện.
2.2 So sánh mô hình chính phủ tại Mỹ và Pháp
2.2.1. So sánh cách thức bầu người đứng đầu của chính phủ Mỹ và chính phủ Pháp
Hệ thống bầu cử: Cả Mỹ và Pháp đều có hệ thống bầu cử dân chủ, trong
đó công dân có quyền bỏ phiếu để bầu người đứng đầu chính phủ. Tuy nhiên,
cách thức bầu cử và hệ thống bầu cử của hai quốc gia này có những khác biệt. Mỹ Pháp
Các ứng cử viên tổng thống
cần đảm bảo điều kiện sức Tổng thống Mỹ phải là
khoẻ cũng như không được
Tiêu chuẩn ứng người ít nhất 35 tuổi, phải là
dưới 23 tuổi và quan trọng viên công dân Mỹ trong 14 năm
nhất là phải có được sự ủng và được sinh ra ở Mỹ.
hộ của một nhóm các chính khách
Bầu thông qua phiếu đại cử
tri, người dân bầu nên đại cử Cách thức bầu Bầu cử 2 vòng.
tri (Thượng nghị sĩ và hạ Nghị sĩ của bang) Nhiệm kỳ tối
Nhiệm kỳ tối đa 4 năm, tối
Nhiệm kỳ tối đa 5 năm, tối đa đa 2 nhiệm kỳ đa 2 nhiệm kỳ
Bầu cử tổng thống Mỹ:
Về cơ bản, quá trình tổng thống Mỹ trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn bầu cử sơ bộ:
Cách thức cơ bản để lựa chọn ứng cử viên Tổng thống của một đảng
thường được tiến hành thông qua các cuộc bầu cử sơ bộ. Để được đề cử chính
thức tại hội nghị đảng toàn quốc, một ứng cử viên Tổng thống phải giành được
tối đa số phiếu bầu tại cuộc bầu cử sơ bộ. Mục đích của các cuộc bầu cử sơ bộ là
nhằm tìm hiểu mức độ ủng hộ của cử tri đối với các ứng cử viên của đảng sẽ
tham gia tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử. Về mặt lý thuyết, quá trình đề cử
ứng cử viên Tổng thống thông qua các cuộc bầu cử sơ bộ là một bước tiến trong
quá trình dân chủ hoá đời sống chính trị nước Mỹ. Nó đã tạo điều kiện cho đông
đảo người dân tham gia vào một trong những sự kiện quan trọng nhất của đời
sống chính trị Mặt khác theo cách này các ứng cử viên cũng không còn phụ
thuộc vào 1 nhóm nhỏ các nhà lãnh đạo đảng, những người trước đây vốn giữ
đặc quyền giới thiệu ứng cử viên.
Hội nghị đảng toàn quốc:
Sau các vòng bỏ phiếu đầu tiên, các ứng cử viên được ít phiếu thường
được vận động rút khỏi danh sách để cho phiếu bầu được tập trung. Ngoài việc
chính thức đề cử các ứng cử viên Tổng thống và Phó Tổng thống, hội nghị cũng
có nhiệm vụ thông qua cương lĩnh tranh cử của đảng. Ngay sau khi các ứng cử
viên chính thức được đề cử thì cuộc vận động tranh cử cũng thực sự bắt đầu.
Lúc này, đối thủ của họ không phải là người trong nội bộ đảng nữa, mà là đại
diện của các đảng khác.
Công việc quan trọng trước tiên đối với ứng cử viên là phải thành lập một
tổ chức vận động tranh cử cho mình. Để giành chiến thắng trong bầu cử đòi hỏi
các ứng cử viên phải vạch ra được một chiến lược tranh cử rõ ràng. Đây là vấn
đề có ý nghĩa then chốt quyết định sự thành bại của chiến dịch. Có thể nói, chiến
dịch vận động tranh cử nhằm tạo cho người dân hình ảnh một vị Tổng thống
tương lai đầy ấn tượng. Hàng loạt các tài liệu được in ấn, các buổi hình, các bài
diễn văn được đọc ở khắp mọi nơi.
Giai đoạn bầu Tổng thống và Phó Tổng thống:
Trong cuộc bầu cử Tổng thống, người dân Mỹ không trực tiếp lựa chọn
người thắng cử. Thay vì lẽ đó, họ bỏ phiếu bầu các đại cử tri và những người
này sẽ thay mặt họ bỏ phiếu bầu Tổng thống. Dựa trên nguyên tắc “người thắng
được tất cả", các ứng cử viên của đảng nào thu được đa số tương đối phiếu bầu ở
một bang sẽ giành được toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó. Sau khi được
bầu, các đại cử tri sẽ gặp nhau tại thủ phủ của bang mình và chính thức bầu
Tổng thống vào một ngày đã định.
Theo quy định, khi một người được dề cử làm Tổng thống thì cũng chọn
một người làm Phó Tổng thống cho mình. Cho nên khi bầu chức Tổng thống
đồng thời người ta bầu luôn cả chức Phó Tổng thống. Kết quả bỏ phiếu được gửi
đến Washington. Vào ngày 6-1 của năm sau, tại phiên họp chung của Quốc hội,
dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Thượng viện, các phiếu bầu sẽ được mang ra đêm.
Ứng cử viên nào giành được đa số tuyệt đối phiếu bầu đại cử tri sẽ là người
thắng cử. Tuy nhiên, công đoạn này chỉ có tính hình thức, vì thực tế sau ngày
tổng tuyển cử, người ta chỉ cần đếm số dại cử trì của mỗi đảng là đã có thể xác
định được ai là Tổng thống.
Bầu cử tổng thống và Thủ tướng Pháp:
Đối với nước Pháp, quy trình bầu cử tổng thống sẽ diễn ra phức tạp hơn
với 2 vòng bầu cử. Trong vòng bầu cử đầu tiên này, ứng cử viên nào có số phiếu
bầu quá bán (hơn 50%) sẽ thắng cử. Trong trường hợp ngược lại, hai ứng cử
viên có số phiếu cao nhất trong số 11 người sẽ đi tiếp vào vòng 2.
Trong nhánh quyền hành pháp và bộ máy nhà nước Pháp, ngoài Tổng
thống thì Chính phủ cũng là một thiết chế vô cùng quan trọng trong điều hành và
quản lý đất nước, thực hiện chức năng công quyền. Đặc điểm của tổ chức và vận
hành bộ máy nhà nước Pháp là tồn tại Chính phủ lưỡng đầu - lưỡng đầu chế, có
nghĩa là Tổng thống đứng đầu nhánh quyền hành pháp, nhưng điều hành Chính
phủ là Thủ tướng. Chính phủ lưỡng đầu chính là cơ chế cân bằng quyền lực ở
Pháp. Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng nhưng Hiến pháp năm 1958
quy định Tổng thống chỉ được bổ nhiệm người đứng đầu đảng chiếm đa số trong
Hạ viện (Quốc hội) làm Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, khi cầm lá phiếu đi bầu
Hạ viện (Quốc hội) Pháp, cũng có nghĩa là người dân đang đi bầu Thủ tướng của
mình. Tổng thống được nhân dân toàn quốc trực tiếp bầu ra, Hạ viện (Quốc hội)
cũng do nhân dân toàn quốc trực tiếp bầu ra.
Chính phủ Pháp được hình thành bằng cách thức sau đây: Tổng thống
chọn ứng cử viên vào chức vụ Thủ tướng và bổ nhiệm. Thủ tướng có trách
nhiệm thành lập Chính phủ và lựa chọn các Bộ trưởng đệ trình lên Tổng thống
để Tổng thống bổ nhiệm. Tổng thống có quyền tự do khi lựa chọn ứng cử viên
vào chức vụ thủ tướng. Đó là thẩm quyền đặc biệt của tổng thống.
Vì sao ở Mỹ đứng đầu là tổng thống còn ở Pháp đứng đầu lại là Thủ tướng?
Ở Mỹ, hệ thống chính trị dựa trên Hiến pháp của năm 1787 gồm ba cơ
quan chính trị quan trọng: Tổng thống, Quốc hội (gồm Hạ viện và Thượng viện)
và Tòa án Tối cao. Tổng thống là người đứng đầu chính phủ và là chỉ huy tối
cao của lực lượng vũ trang. Vị trí Tổng thống được bầu chọn trực tiếp thông qua
cuộc bầu cử dân chủ và đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc đưa ra quyết định
chính trị và quản lý quốc gia.
Trong khi đó, ở Pháp, hệ thống chính trị dựa trên Hiến pháp của năm
1958 và có một chính quyền tổng thể hợp, trong đó có Tổng thống và Thủ
tướng. Tổng thống có vai trò đại diện cho quốc gia và có thẩm quyền trong lĩnh
vực quốc phòng và quan hệ quốc tế, trong khi Thủ tướng là người đứng đầu
chính phủ, có trách nhiệm trong việc thực hiện các chính sách, quản lý hàng
ngày và đứng đầu kỳ hội đàm trong Quốc hội.
Sự khác biệt này do nguyên nhân lịch sử, trong quá trình phát triển chính
trị, Mỹ được lấy cảm hứng từ các nguyên tắc dân chủ, tự do và độc lập, trong
khi Pháp có truyền thống tổ chức chính phủ tương đối khác với hệ thống bộ
máy. Mỗi quốc gia sắp xếp cấu trúc lãnh đạo của mình dựa trên công tác hợp tác
giữa các cơ quan chính phủ và nguyện vọng của người dân.
Đánh giá chung: Ở mô hình nước Mỹ, tổng thống vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp, tức chính phủ, tổng thống
được người dân bầu nên do đó có quyền lực rất lớn, đối với mô hình nước pháp
theo chế độ lưỡng đầu chế, Tổng thống đứng đầu nhánh quyền hành pháp,
nhưng điều hành Chính phủ là Thủ tướng. Mô hình hỗn hợp cho rằng đây là giải
pháp hữu hiệu góp phần kiểm soát quyền lực của tổng thống (vốn là 1 hạn chế
của mô hình tổng thống). 2.2.3 So sánh quy ề n ự l c ủ c a nguyên th ủ qu ố c gia và ng ườ i đ ứ ng ầ đ u c ơ
quan hành pháp củ a Mỹ v ớ i Pháp
Theo Hiến pháp Mỹ, Tổng thống đảm nhiệm hai chức năng, vừa là người
đứng đầu Nhà nước (nguyên thủ quốc gia) vừa là người đứng đầu ngành hành
pháp (các cơ quan hành pháp).
Trong vai trò là người đứng đầu Nhà nước, Tổng thống Mỹ đại diện cho
nước Mỹ ở cả trong lẫn ngoài nước. Trong vai trò là người đứng đầu ngành hành
pháp, Tổng thống Mỹ cũng đồng thời là tổng tư lệnh các lực lượng lục quân,
không quân, hải quân và lực lượng dự bị ở một số bang, có quyền điều hành lực
lượng quốc phòng của mỗi tiểu bang.
Tổng thống Mỹ còn được coi là nhà lãnh đạo tượng trưng cho chính đảng
của mình. Các chương trình, các sáng kiến mà tổng thống đưa ra thường phản
ánh quan điểm của đảng mà mình là thành viên. Hơn nữa, Tổng thống còn được
hậu thuẫn bởi cả hệ thống trong đảng của mình và thông qua đó là đại bộ phận dân chúng Mỹ.
Với vai trò và tầm ảnh hưởng lớn như vậy, quyền lực của Tổng thống
được Hiến pháp Mỹ quy định, thể hiện trên từng lĩnh vực. Lĩnh vực hành pháp
Nhà nước Mỹ được thiết lập theo mô hình tam quyền phân lập, Quốc hội
nắm quyền lập pháp, tổng thống nắm quyền hành pháp còn tòa án nắm quyền tư
pháp.Tổng thống trực tiếp lãnh đạo ngành hành pháp, toàn quyền thực thi những chính sách, luật pháp.
Tổng thống quyết định cơ cấu tổ chức, hoạt động của nền hành chính
quốc gia. Lãnh đạo và quản lý chung tất cả các bộ cùng rất nhiều cơ quan, ủy
ban liên bang và đội ngũ quan chức dân sự. Tổng thống cũng là người đề cử, bổ
nhiệm, bãi nhiệm những quan chức hành pháp. Đương nhiên, quyền lực trong
lĩnh vực hành pháp tạo nên phần cơ bản nhất của quyền lực tổng thống, giúp
Tổng thống thực hiện tốt nhất chức năng của mình. Lĩnh vực lập pháp
Với tư cách nguyên thủ quốc gia, Tổng thống là người duy nhất thay mặt
Nhà nước công bố những đạo luật mà Quốc hội thông qua. Chỉ khi được tổng
thống công bố, những đạo luật đó mới được ban hành và mới bắt đầu có hiệu lực.
Rất nhiều dự luật tại Quốc hội do tổng thống đề nghị qua các thông điệp
gửi cho Quốc hội. Thông điệp của tổng thống đôi khi không chỉ thông báo tình
hình trong nước và quốc tế, mà còn nhằm sửa đổi những đạo luật cũ hoặc kiến
tạo những đạo luật mới. Tổng thống cũng là một đảng viên chính thức của đảng
cầm quyền do đó có thể dự thảo dự luật rồi trao cho nghị sĩ thuộc đảng mình để
trình trước Quốc hội. Trên thực tế cũng có rất nhiều dự luật được xuất phát từ đề xuất của Tổng thống.
Ngoài ra, Tổng thống Mỹ là người có quyền trong việc lập và thực hiện
ngân sách liên bang. Các cơ quan hành pháp soạn thảo dự luật ngân sách quốc
gia trình Tổng thống xem xét. Sau khi Tổng thống phê chuẩn, dự luật ngân sách
được chuyển cho Quốc hội thông qua. Tổng thống cũng có quyền triệu tập kỳ
họp Quốc hội bất thường.
Một quyền quan trọng của tổng thống Mỹ trong lĩnh vực lập pháp không thể
không nhắc đến là quyền phủ quyết. Tất cả những dự luật do Quốc hội thông
qua, trước khi được ban hành trở thành đạo luật phải đệ trình lên tổng thống.
Trong vòng 10 ngày không kể Chủ nhật, nếu đồng ý, tổng thống sẽ ký công bố
dự luật đó. Nếu không đồng ý, tổng thống sẽ phủ quyết, gửi trả nơi đã soạn thảo
ra dự luật đó và yêu cầu Quốc hội xem xét lại. Quốc hội phải bàn bạc, sửa đổi...
và chỉ khi không dưới 2/3 nghị sĩ trong mỗi Viện tán thành thì dự luật này mới
trở thành đạo luật. Một trường hợp mà tổng thống có thể phủ quyết một cách
“kỹ thuật” là trong 10 ngày như ở trên, tổng thống không hành động gì với dự
luật thì coi như tổng thống đồng ý, tuy nhiên, cũng trong thời hạn đó, nếu Quốc
hội kết thúc khóa họp, thì dự luật lại không thể trở thành đạo luật. Lĩnh vực tư pháp
Tổng thống Mỹ được quyền đề cử và bổ nhiệm các thẩm phán liên bang,
bao gồm và quan trọng nhất là 9 vị thẩm phán Tòa án tối cao. Quyền này phần
nào làm giảm tính độc lập của hệ thống tòa án và tạo cho tổng thống có một
quyền lực nhất định trong ngành tư pháp.
Tổng thống cũng có quyền ân xá cho bất kỳ ai đã bị kết tội vi phạm luật
pháp liên bang, trừ trường hợp còn nghi vấn hoặc phạm tội phản bội tổ quốc.
Ngoài ra, tổng thống có quyền phát lệnh truy nã, bắt giữ trên phạm vi liên
bang và quốc tế đối với những tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho nước Mỹ và thế giới. THỦ TƯỚNG PHÁP
Khác với những quyền hạn của tổng thống mỹ thì thủ tướng pháp có ít
quyền hạn hơn và chịu sự tác động từ tổng thống
Theo Điều 39 Hiến pháp 1958 thì cả Thủ tướng và thành viên Chính phủ có
quyền sáng kiến lập pháp. Thủ tướng có quyền đưa ra sáng kiến lập pháp, tự
mình tham gia vào việc xây dựng dự án luật, có thể tham gia hoạt động của các
Ủy ban thuộc Nghị viện.
Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo hoạt động của Chính phủ, chịu trách
nhiệm về quốc phòng, đảm bảo việc thực hiện các luật và có quyền ban hành các
văn bản pháp quy, bổ nhiệm các chức vụ dân sự và quân sự. Thủ tướng có quyền
đề nghị tổng thống bổ nhiệm và bãi nhiệm các bộ trưởng; có quyền đưa ra dự án
luật, đề nghị Nghị viện họp bất thường, đề nghị họp ủy ban hỗn hợp giữa Quốc
hội và Thượng nghị viện để giải quyết các bất đồng trong quá trình thông qua luật.
Pháp tồn tại chế độ chính phủ lưỡng đầu có nghĩa là tổng thống đứng đầu
nhánh quyền hành pháp, nhưng điều hành chính phủ là thủ tướng. Thủ tướng có
thể chủ tọa phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng trong một số trường hợp đặc biệt
khi có sự ủy quyền của tổng thống và theo chương trình nghị sự nhất định. Vai
trò điều hành của thủ tướng bị chi phối bởi đảng phái trong hạ viện. Thủ tướng