Ôn tập câu hỏi đúng sai - Giáo dục học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
1.Các lý thuyết kinh tế của Chủ nghĩa trọng nông ra đời trong bối cảnh tích lũy nguyên thủy của CNTB. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
ĐỀ 1
I-Câu hỏi đúng/ sai
1.Các lý thuyết kinh tế của Chủ nghĩa trọng nông ra đời trong bối cảnh tích lũy nguyên thủy của CNTB
Sai vì các lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng nông ra đời khi tư tưởng kinh tế của
trường phái trọng thương không còn phù hợp về mặt lý luận trong hoàn cảnh phát triển
của tư bản chủ nghĩa. Lúc này các công trường thủ công ngày càng được mở rộng, đòi
hỏi phải có những lý thuyết kinh tế mới về tổ chức sản xuất nhằm đạt được những năng
suất lao động xã hội cao hơn.
2. Kinh tế chính trị Mác Lê nin kế thừa trực tiếp những giá trị khoa học của KTCT tư sản cổ điển Anh.
Đúng vì Các Mác (1818-1883) và Phriđrích ăngghen (1820-1895) là người sáng lập chủ
nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội
khoa học dựa trên cơ sở kế thừa có tính phê phán và chọn lọc những lý luận khoa học của
kinh tế chính trị cổ điển Anh.
3. Quy luật kinh tế có đặc điểm là sự hoạt động và phát huy tác dụng của nó phải thông
qua hành động của con người
Đúng vì quy luật kinh tế là quy luật xã hội, nên khác với các quy luật tự nhiên, quy luật
kinh tế chỉ phát sinh tác dụng thông qua hoạt động kinh tế của con người. Nếu nhận thức
đúng và hành động theo quy luật kinh tế sẽ mang lại hiệu quả, ngược lại sẽ phải chịu những tổn thất.
4. Kinh tế chính trị là môn khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu mặt kĩ thuật của nền sản xuất xã hội
Sai vì kinh tế chính trị nghiên cứu toàn diện và tổng hợp quan hệ sản xuất trong sự tác
động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nghiên cứu quá trình sản
xuất của cải vật chất nhưng không phải sản xuất của những đơn vị, cá nhân riêng biệt mà 1
là nền sản xuất có tính chất xã hội, có tính chất lịch sử. Kinh tế chính trị đi sâu vào các
mối liên hệ bản chất bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế, vạch ra các quy
luật chung của sự vận động của một phương thức sản xuất nhất định.
II- Câu hỏi tự luận
2. Phân tích đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác- Lênin. Phân biệt đối tượng
nghiên cứu của KTCT Mác- Lênin và đối tượng nghiên cứu của các khoa học kinh
tế khác, cho ví dụ minh họa.
* Phân tích đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác- Lênin
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin được xác định dựa trên
quan điểm duy vật lịch sử. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Nhưng
bất cứ nền sản xuất nào cũng đều diễn ra trong một phương thức sản xuất nhất định
tức là trong sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Kinh tế chính
trị là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu của nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là
quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ
sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt
khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc
thượng tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý... có tác động trở lại mạnh mẽ
đối với quan hệ sản xuất. Vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ
sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
* Phân biệt đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác- Lênin và đối tượng nghiên cứu
của các khoa học kinh tế khác, cho ví dụ minh họa Sự khác biệt:
Đối với các khoa học kinh tế khác thì nghiên cứu quan hệ thuộc một lĩnh vực, một khía
cạnh của nền sản xuất xã hội, nghiên cứu biểu hiện kỹ thuật của sự sàn xuất và trao đổi. 2
Hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ nhấn mạnh đôi tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
Mác - Lênin là mặt quan hệ sản xuất, mà quan hộ sản xuất thì lại chỉ quy về quan hệ sở
hữu, quan hệ tô chức quản lý, quan hệ phân phối thu nhập. Cách hiểu này phù hợp với
điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa tâp trung, không thực sát với quan điểm của các nhà
kinh điển của kinh tế chính trị Mác - Lênin nêu trên và không thực sự phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế thị trường.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị không phải là quan hệ thuộc một lĩnh vực,
một khía cạnh của nền sản xuất xã hội mà là chỉnh thể thống nhất của các quan hệ sản
xuất và trao đổi. Đó là hệ thống các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao
đổi, các quan hệ trong mỗi khâu và các quan hệ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất
xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng của sàn xuất và thị trường. Kinh tế chính
trị không nghiên cứu biểu hiện kỹ thuật của sự sản xuất và trao đổi mà là hệ thống các
quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi.
Ví dụ: Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ
sở hữu; quan hệ quản lý; quan hệ phân phối, phân bồ nguồn lực; quan hệ xã hội trong lưu
thông; quan hệ xã hội trong tiêu dùng; quan hệ xã hội trong quản trị phát triển quốc gia;
quản trị phát triển địa phương; quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; giữa sản xuất và thị trường...
3. Phân tích các chức năng của KTCT Mác- Lênin. Cho ví dụ và rút ra ý nghĩa của
việc học tập KTCT Mác- Lênin đối với bản thân
* Phân tích các chức năng của KTCT Mác- Lênin và cho ví dụ
- Chức năng nhận thức
Nhận thức là chức năng chung của mọi khoa học, là lý do xuất hiện của các khoa học
trong đó có kinh tế chính trị. Một môn khoa học nào đó còn cần thiết là vì còn có những
vấn đề cần phải nhận thức, khám phá. Chức năng nhận thức của kinh tế chính trị biểu
hiện ở chỗ nó cần phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời sống
xã hội, tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các 3
quy luật kinh tế một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
Ví dụ: Đối với các hiện tượng trong đời sống, khi một thanh sắt được nung nóng sẽ
chuyển sang màu vàng rực. Thông qua quan sát con người kết luận rằng thanh sắt sẽ bị chuyển màu khi nung nóng.
- Chức năng thực tiễn
Cũng giống nhiều môn khoa học khác, chức năng nhận thức của kinh tế chính trị không
có mục đích tự thân, không phải nhận thức để nhận thức, mà nhận thức để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị.
Chức năng thực tiễn và chức năng nhận thức của kinh tế chính trị có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Từ việc nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình kinh tế của đời sống xã hội,
phát hiện ra bản chất của chúng, các quy luật chi phối chúng và cơ chế hoạt động của các
quy luật đó, kinh tế chính trị cung cấp những luận cứ khoa học để hoạch định đường lối,
chính sách và biện pháp kinh tế. Đường lối, chính sách và các biện pháp kinh tế dựa trên
những luận cứ khoa học đúng đắn đã nhận thức được sẽ đi vào cuộc sống làm cho hoạt
động kinh tế có hiệu quả cao hơn. Cuộc sống chính là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của
các chính sách, biện pháp kinh tế và xa hơn nữa là kiểm nghiệm chính những kết luận mà
kinh tế học chính trị đã cung cấp trước đó. Thực tiễn vừa là nơi xuất phát vừa là nơi kiểm
nghiệm tính đúng đắn của lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận
kinh tế là ở sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế.
Ví dụ: Đối với các hoạt động vật chất của con người
Các nhà khoa học nghiên cứu, phân tích các thí nghiệm tìm ra vật liệu mới, các loại máy
móc, thiết bị phục vụ nhu cầu con người.
- Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết
luận của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất chung 4
là cơ sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành (như kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp, xây dựng, giao thông...) và các môn kinh tế chức năng (kinh tế lao động, kế
hoạch, tài chính, tín dụng, thống kê...). Ngoài ra, kinh tế chính trị cũng là cơ sở lý luận
cho một số môn khoa học khác (như địa lý kinh tế, dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân,
lý thuyết về quản lý ...).
Ví dụ: Con người có nguồn gốc từ loài vượn, sau khoảng thời gian dài tiến hóa thì dần
hoàn thiện và phát triển, không phải con người là tự nhiên mà xuất hiện, do trời đất hay bất kỳ ai tạo ra.
- Chức năng tư tưởng
Là môn khoa học xã hội, kinh tế chính trị có chức năng tư tưởng. Trong các xã hội có
giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ các quan điểm lý luận
của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của những giai cấp hoặc tầng lớp xã hội nhất
định. Các lý luận kinh tế chính trị của giai cấp tư sản đều phục vụ cho việc củng cố sự
thống trị của giai cấp tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của giai cấp tư sản.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học cho sự hình thành thế giới quan, nhân
sinh quan và niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột giai cấp và dân tộc, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ: cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột giai cấp và dân
tộc, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, làm cho niềm tin có một căn cứ khoa
học vững chắc đủ sức vượt qua khó khăn, kể cả những thất bại tạm thời trong quá trình
phát triển của cách mạng.
*Rút ra ý nghĩa của việc học tập KTCT Mác- Lênin đối với bản thân
Kinh tế chính trị có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Học tập môn kinh tế chính
trị giúp cho em hiểu được bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, nắm được các
quy luật kinh tế chi phối sự vận động và phát triển kinh tế; phát triển lý luận kinh tế và 5
vận dụng lý luận đó vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh bệnh chủ quan, giáo điều,
duy ý chí. Học tập kinh tế chính trị, nắm được các phạm trù và quy luật kinh tế, là cơ sở
để hình thành tư duy kinh tế, không những cần thiết cho các nhà quản lý vĩ mô mà còn rất
cần cho quản lý sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp của mọi tầng lớp dân cư, ở tất cả
các thành phần kinh tế. Nắm vững kiến thức kinh tế chính trị, em sẽ có khả năng hiểu
được một cách sâu sắc các đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và các
chính sách kinh tế cụ thể của Đảng và Nhà nước ta, tạo niềm tin có cơ sở khoa học vào
đường lối, chiến lược, chính sách đó. ĐỀ 2
I-Câu hỏi đúng/ sai
1.Giá trị của một hàng hóa do hao phí lao động của người sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Sai vì Giá trị của một hàng hóa được quyết định bởi lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó.
2. Tiền giấy không có giá trị thực mà chỉ có giá trị danh nghĩa
Đúng vì tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị do nhà nước phát hành và buộc xã hội công
nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền)
nên nhà nước không thể tùy ý in bao nhiêu tiền giấy cũng được, mà phải tuân theo quy
luật lưu thông tiền giấy.
3. Nguyên tắc ngang giá của quy luật giá trị biểu hiện ở chỗ: giá cả của một hàng hóa
luôn phản ánh đúng giá trị của nó.
Đúng vì hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như
nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
4. Cạnh tranh là động lực mạnh mẽ thúc tiến bộ khoa học kĩ thuật và sự phát triển lực lượng sản xuất. 6
Đúng vì một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc
người sản xuất phải thường xuyên năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao tay nghề, hoàn thiện tổ chức quản lý để
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế…
II- Câu hỏi tự luận
1. Phân tích điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa; khái niệm và thuộc tính của
hàng hóa. Lấy ví dụ thực tiễn để minh họa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra không
phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
- Thứ nhất: Phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa
sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Khi có
phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do
đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Phân công lao động xã
hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm
thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân
công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
-Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: những người
sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao
động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá. 7
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân
và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.
=> Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất
phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất
lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được
giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Đó là hai điều kiện cần và đủ
của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa.
Ví dụ: Quá trình hình thành hàng hóa đi kèm với sự tiến triển của loài người. Sự xuất
hiện của hàng hóa đánh dấu sự hình thành của các cộng đồng và bộ lạc. Loài người
không thể tự sản xuất đầy đủ mọi thứ để đáp ứng nhu cầu của mình, do đó họ bắt đầu
thực hiện trao đổi với nhau để đảm bảo sự tồn tại.
2. Phân tích khái niệm, ưu thế và khuyết tật của nền KTTT. Liên hệ với thực tiễn
nền KTTT ở Việt Nam.
Khái niệm: Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh
tranh bình đẳng và ổn định. Ưu thế:
- Nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho sự tự do kinh doanh và khởi nghiệp. Các doanh
nghiệp có quyền tự quyết về việc sản xuất, phân phối và tiếp thị hàng hóa, dịch vụ. Điều
này tạo động lực cho sự sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh chóng với thay đổi trong thị trường.
- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến, nâng
cao chất lượng sản phẩm/ dịch vụ, cung cấp giá cả cạnh tranh và tăng lợi ích cho người tiêu dùng. 8
- Trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp phải tìm cách tối ưu hóa quy trình sản xuất,
sử dụng nguồn lực hiệu quả và cải thiện năng suất để tồn tại và thành công. Từ đó dẫn
đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Nền kinh tế thị trường khuyến khích sự đa dạng hóa trong cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Có nhiều doanh nghiệp khác nhau hoạt động trong các ngành công nghiệp khác nhau,
giúp giảm rủi ro về mặt kinh tế và tạo ra sự linh hoạt trong việc phục vụ nhu cầu của
người tiêu dùng. Đặc biệt là khi nhu cầu, kỳ vọng của người tiêu dùng ngày càng tăng cao.
- Trong môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp thường đầu tư vào nghiên cứu và phát
triển để cải thiện công nghệ, quy trình sản xuất và sản phẩm. Điều này giúp thúc đẩy sự
tiến bộ kỹ thuật và sự đổi mới, góp phần vào sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
- Nền kinh tế thị trường đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển sẽ có cơ hội
tiếp xúc và chuyển giao công nghệ sản xuất, quản lý từ các nước phát triển, góp phần xây
dựng và phát triển kinh tế đất nước. Trong nền thương mại quốc tế, mức độ thị trường
hóa nền kinh tế có thể là tiêu chí để xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.
Ví dụ: Việt Nam đã được 72 quốc gia, bao gồm các nền kinh tế lớn như Canada,
Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Vương quốc Anh,... công nhận là nền kinh tế thị
trường. Điều này có nghĩa là Việt Nam đáp ứng các tiêu chí của một nền kinh tế thị
trường như sự tự do hóa thương mại, sự cạnh tranh, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh.
Khuyết tật của nền KTTT:
- Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân và doanh nghiệp có khả năng sản xuất, kinh
doanh hiệu quả hơn sẽ có lợi thế cạnh tranh và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này
dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, gây ra bất bình đẳng trong xã hội.
- Nền kinh tế thị trường dựa trên nguyên tắc cung - cầu, tức là sản phẩm và dịch vụ chỉ
được sản xuất khi có nhu cầu và lợi nhuận. Điều này có thể dẫn đến tình trạng những 9
người khó khăn, có nhu cầu nhưng không có khả năng chi trả sẽ không được tiếp cận với
các sản phẩm/ dịch vụ cần thiết.
- Nếu các nhà sản xuất nhỏ lẻ bị các hãng sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính, sau cùng chỉ
còn lại số ít các nhà sản xuất lớn mạnh thâu tóm các ngành kinh tế. Nền kinh tế thị trường
có thể biến thành nền kinh tế độc quyền chi phối, gây tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng.
- Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp, khi các
doanh nghiệp phải cắt giảm lao động để giảm chi phí. Ngoài ra, sự chênh lệch giữa cung
– cầu cũng có thể dẫn đến lạm phát, khi giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao.
- Kinh tế thị trường có thể không đáp ứng đủ nhu cầu về các hàng hóa và dịch vụ công
như giáo dục, y tế, và an ninh công cộng, vì những hàng hóa này thường không mang lại
lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp tư nhân.
- Kinh tế thị trường có thể tạo điều kiện cho sự hình thành và duy trì của các quyền lực
thị trường như monopoly (độc quyền) và oligopoly (độc quyền của một số ít), hạn chế sự cạnh tranh lành mạnh.
Ví dụ: Thị trường không tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, có sự ảnh
hưởng ngoại lai. Thông tin không được công khai minh bạch để người tiêu dùng và các
doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định thông minh. Việc lách luật, đầu cơ và vi phạm đạo
đức kinh doanh cần được kiểm soát một cách nghiêm ngặt để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Liên hệ với thực tiễn nền KTTT ở Việt Nam:
Có thể nói, trải qua 38 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn
thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị 10
trường khu vực và thế giới”. “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới
kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc
đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Nhờ vậy, sau 38 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu
nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới
cho nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung
khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những
lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn,
chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp,
phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và
nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
3. Phân tích vai trò của các chủ thể chính tham gia thị trường. Lấy ví dụ thực tiễn để minh họa
* Vai trò của các chủ thể chính tham gia thị trường:
Mỗi chủ thể tham gia và thị trường đều đóng vai trò quan trọng và có những nhiệm vụ
riêng để đảm bảo hoạt động thị trường luôn được suôn sẻ và hiệu quả dưới đây là một số
vai trò của một số chủ thể trên thị trường
- Người mua: người mua có vai trò quan trọng trong việc quyết định cung cầu trên thị
trường, họ sẽ lựa chọn sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình và sẽ quyết
định mức giá họ sẵn sàng trả 11
- Người bán: người bán có vai trò chủ động trong việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ
đến người mua, họ sẽ quyết định mức giá bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình để đảm
bảo sự cạnh tranh và cân bằng giữa cung và cầu trên thị trường
- Trung gian: trung gian giúp kết nối người mua và người bán trên thị trường. Họ có vai
trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho việc giao dịch được diễn ra dễ dàng hơn
- Các tổ chức tài chính: các tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán và quỹ
đầu tư có vai trò quan trọng trong việc cung cấp Tài nguyên tài chính cho các chủ thể khác
- Chính phủ có vai trò quản lý và giám sát hoạt động thị trường để đảm bảo sự minh bạch
công bằng an toàn cho người tiêu dùng
- Người tiêu dùng: người tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. Họ cũng có vai trò trong việc đánh giá chất
lượng sản phẩm và dịch vụ đưa ra quyết định mua hàng và giúp định hình xu hướng của thị trường. Ví dụ minh họa:
Chủ thể tham gia thị trường bất động sản
Chủ thể tham gia thị trường bất động sản – Chủ thể cung bất động sản: Bao gồm tất cả
những người có quyền đưa bất động sản tham gia vào các giao dịch mua bán, chuyển
nhượng, cho thuê, thế chấp…bất động sản theo các quy định cụ thể của quốc gia.
+ Những người tham gia vào bất động sản có thể là những người muốn mua bất động sản
để sử dụng vào các mục đích tiêu dùng cá nhân của mình như để ở hoặc phục vụ cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh của người mua. Ngoài ra, cầu bất động sản còn bao gồm
một lượng những người mua bất động sản chỉ nhằm để tích trữ tài sản hoặc chờ tăng giá bán lại kiếm lời.
Chủ thể là các tổ chức trung gian trong thị trường bất động là cầu nối hữu hình hoặc vô
hình liên kết các chủ thể tham gia thị trường bất động sản. 12
+ Sự tham gia trực tiếp của Nhà nước vào thị trường: định hướng, dẫn dắt các thành phần
kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh bất
động sản theo cơ chế thị trường đồng thời khắc phục các khuyết điểm của thị trường để
đảm bảo tính ổn định, bền vững, công bằng và ổn định xã hội. ĐỀ 3
I-Câu hỏi đúng/ sai
1.Lưu thông hàng hóa là nguồn gốc trực tiếp của GTTD
Sai vì để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư
liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người
công nhân làm thuê đã tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính mình. Như vậy,
lao động sống là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
2. Sức lao động có công dụng đặc biệt là có thể tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Đúng vì để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị
trường một loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
3. Tư bản bất biến có vai trò trực tiếp trong việc tạo GTTD
Sai vì tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị
thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ
phận tư bản đã lớn lên.
4. Khoa học và công nghệ ngày càng trở thành nhân tố quan trọng của quá trình sản xuất ra GTTD trong nền KTTT TBCN.
Đúng vì để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển 13
mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
5. Tỉ suất lợi nhuận tăng lên thì tỉ suất lợi tức giảm xuống và ngược lại.
Sai vì tỉ suất lợi nhuận tăng lên thì tỉ suất lợi tức cũng sẽ tăng và ngược lại. Khi lợi
nhuận tăng lên thì khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản; khoản tiền lãi thu được do cho vay cũng tăng theo.
II- Câu hỏi tự luận
1.Phân tích nguồn gốc và bản chất của GTTD; các phương pháp sản xuất GTTD. Ý
nghĩa thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
*Phân tích nguồn gốc, bản chất của GTTD và các phương pháp sản xuất GTTD Nguồn gốc:
Mục đích của nhà tư bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động là để
tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu
sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư có hai đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Bản chất:
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. C. Mác viết: "Bí quyết của sự tự tăng
thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không
công nhất định của người khác"1. Sở dĩ nhà tư bản chi phối được số lao động không công
ấy vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất. Việc nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng
dư do quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra gọi là bóc lột giá trị thặng dư.
Các phương pháp sản xuất GTTD: 14
- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt
quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời
gian lao động tất yếu không thay đổi.
- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất
yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để
hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều
kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới
sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà vẫn bán được với
giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng dư cao hơn. Khi số đông các xí
nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu
ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng
trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động
lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động
cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch
là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Ví dụ: Khi một người lao động làm việc trong một ngày, giá trị sản phẩm mà họ tạo ra là
1 đồng. Tuy nhiên, từ ngày thứ hai trở đi, với cùng một lượng sức lao động đã bỏ ra vào
ngày trước đó, người lao động này sẽ sản xuất ra 3 đồng. Chênh lệch giữa giá trị sản
phẩm (3 đồng) và số tiền nhà tư bản trả cho công nhân (1 đồng) là giá trị thặng dư sức lao động.
* Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. 15
Giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích bản chất của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, cơ chế sinh sản và phát triển của tư bản, cũng như nguồn gốc và
biểu hiện của các mâu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Giá trị thặng dư cũng
là cơ sở để xây dựng lý luận về giai cấp, chính sách, chiến lược và mục tiêu của phong
trào công nhân và xã hội chủ nghĩa.
2. Phân tích khái niệm tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích
lũy tư bản. Vì sao sự tăng lên của quy mô tích lũy tư bản sẽ dẫn đến sự bần cùng
hóa giai cấp công nhân ?
* Khái niệm tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản Khái niệm:
Tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một bộ phận giá trị thặng dư trở lại thành tư bản. Quá
trình tích lũy tư bản xảy ra khi cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức đầu tư tiền và tài sản
vào các hoạt động kinh doanh hoặc sản xuất để tạo ra thu nhập và lợi nhuận. Lợi nhuận
này sau đó được sử dụng để tái đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh, từ đó tạo ra
thêm tư bản và tăng trưởng kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
- Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m')
Thông thường, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy
móc, thiết bị và công nhân. Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm công nhân mà bắt
số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao động bằng cách tăng thời gian lao
động và cường độ lao động; đồng thời, tận dụng một cách triệt để công suất của số máy
móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng. - Năng suất lao động
Khi năng suất lao động tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng sẽ giảm.
Theo đó, sự giảm này sẽ đem lại hai hệ quả cho quá trình tích lũy: 16
+ Tăng cường tiêu dùng: Một là, đối với phần khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần
dành cho tích lũy có thể lấn sang phần tiêu dùng. Tức, với giá cả thấp hơn, người tiêu
dùng có thể mua được nhiều hàng hóa và sử dụng nhiều dịch vụ hơn từ cùng một số tiền.
+ Đầu tư mở rộng: Một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển
hóa thành khối lượng tư liệu sản xuất và tăng thêm sức lao động phụ nhiều hơn trước.
Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng và nâng cao sản
xuất. Khi giá cả tư liệu sản xuất giảm, doanh nghiệp có thể mua được nguyên liệu và
trang thiết bị với giá thấp hơn, từ đó tăng cường hoạt động sản xuất và mở rộng quy mô kinh doanh.
- Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
+ Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị từ những tư liệu lao động mà toàn bộ hiện vật của
chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
+ Tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động được chuyển vào sản phẩm theo
từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao. Do đó, sự chênh lệch giữa hai loại tư bản này
chính là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất.
- Quy mô của tư bản ứng trước
Nếu trình độ bóc lột không thay đổi, khối lượng tư bản khả biến sẽ quyết định khối
lượng giá trị thặng dư. Bộ phận tư bản khả biến càng lớn sẽ khiến cho khối lượng giá trị
thặng dư bóc lột được càng lớn. Từ đó, nhà tư bản có thể đồng thời có thêm quỹ tiêu
dùng cho bản thân và tích lũy để mở rộng quy mô sản xuất.
Như vậy có thể nói, quy mô của tư bản ứng trước càng lớn sẽ khiến cho tích lũy tư bản càng cao.
* Sự tăng lên của quy mô tích lũy tư bản sẽ dẫn đến sự bần cùng hóa giai cấp công nhân vì:
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của nhà tư 17
bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không
ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột
công nhân làm thuê. Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư
do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ
phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do
đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.
3. Phân tích các hình thức biểu hiện của GTTD trong chủ nghĩa tư bản. Ý nghĩa lí
luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
1. Lợi nhuận: Đây là hình thức biểu hiện phổ biến nhất của giá trị thặng dư trong chủ
nghĩa tư bản. Lợi nhuận là khoản tiền còn lại sau khi trừ đi các chi phí, lãi vay, thuế và
các khoản chi khác. Đây là khoản tiền mà doanh nghiệp kiếm được từ hoạt động sản xuất
kinh doanh và làm phước cho chủ sở hữu.
2. Lợi ích cổ đông: Đối với các công ty có vốn cổ phần, giá trị thặng dư có thể biểu hiện
qua tiền cổ tức trả cho các cổ đông. Cổ tức là khoản tiền mà công ty chi trả cho cổ đông
dựa trên lợi nhuận mà công ty đạt được.
3. Lợi ích tư nhân: Giá trị thặng dư cũng có thể biểu hiện qua sự tăng trưởng tài sản của
cá nhân. Đối với những người sở hữu tài sản, giá trị thặng dư được thể hiện qua việc tài
sản của họ gia tăng. Ví dụ, nếu giá trị của một căn nhà tăng lên sau một thời gian, chủ sở
hữu căn nhà đó sẽ có lợi ích tư nhân từ sự gia tăng giá trị này.
4. Lợi ích xã hội: Một phần của giá trị thặng dư cũng có thể được sử dụng để đóng góp
vào các hoạt động xã hội, như các chương trình từ thiện, viện trợ cho người nghèo, hay
đầu tư vào giáo dục và y tế công cộng. Điều này giúp những người có khả năng tài chính
cao thể hiện sự trách nhiệm và đóng góp tích cực cho cộng đồng xung quanh.
Như vậy, hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư là rất đa dạng và phụ thuộc vào từng
ngữ cảnh cụ thể trong nền kinh tế thị trường. * Ý nghĩa lý luận 18
- Với các hình thức của giá trị thặng dư đã luận chứng một cách khoa học tính chất lịch
sử quá độ của chủ nghĩa tư bản, sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản và tính tất
yếu của sự quá độ lên phương thức sản xuất mới cao hơn.
- Hơn hết học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đã chỉ rõ mối quan hệ giữa năng suất lao
động, lao động thặng dư và giá trị thặng dư. Chỉ khi nào xã hội loài người phát triển đến
một giai đoạn lịch sử nhất định, trên cơ sở năng suất lao động đạt đến một giai đoạn lịch
sử nhất định, thì người lao động mới có thể cung cấp lao động thặng dư và sản phẩm thặng dư.
*Ý nghĩa thực tiễn:
- Các hình thưc biểu hiện của giá trị thặng dư được đề cập và nghiên cứu trong học thuyết
kinh tế của C.Mác đã phơi trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong những thời
kỳ trước đây. Giúp khơi nguồn cho phong trào đấu tranh giữa giai cấp vô sản chống lại chủ nghĩa tư bản.
- Đặc biệt giá trị thặng dư không chỉ giúp tồn tại xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư
còn có thể giúp kinh tế, xã hội phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội. Nó đã cấu
thành động lực để giúp kinh tế tăng trưởng và phát triển. Từ đó, các nhà đầu tư, chủ
doanh nghiệp sẽ đưa ra những kế hoạch, chiến lược sản xuất để có thể tạo ra nhiều giá trị
thặng dư, giúp thu lại lợi nhuận và doanh thu nhiều hơn. Bên cạnh đó vẫn đảm bảo về
quyền lợi, và chế độ đãi ngộ tốt với công nhân, người lao động. ĐỀ 4
I-Câu hỏi đúng/ sai
1. Cách mạng công nghiệp góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển
Đúng: Sự thay thế lao động thủ công (còn gọi là lao động tay chân) của con người bằng
lao động máy móc, chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang nền sản xuất cơ khí. Việc thay
thế lao động thủ công bằng máy móc; nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao
động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn chính là ý 19
nghĩa lớn nhất của cách mạng công nghiệp.
2. Vốn và tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực hàng đầu thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam.
Sai vì cùng với các nguồn lực về lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên…, khoa học và
công nghệ được coi là nguồn lực quan trọng, có tác động lớn đối với phát triển kinh tế.
3. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững
Đúng vì nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực góp phần thu hút đầu tư, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế - xã hội. Muốn phát triển kinh tế – xã hội, ngoài yếu tố công nghệ,
vốn… phải dựa vào yếu tố nguồn nhân lực. Song, phát triển đất nước ở bất kỳ thời kỳ nào
cũng không thể dựa vào nguồn nhân lực chung chung mà cần phải có nguồn nhân lực
phát triển. Hay nói cách khác nguồn nhân lực đó đã có biến đổi về số lượng, cơ cấu và
chất lượng, nguồn nhân lực đã qua đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, ngày càng
đáp ứng được yêu cầu tốt hơn của nền kinh tế.
4. Hiệu quả của hội nhập kinh tế ở Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp.
Đúng vì nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là nội dung cấp bách, là chìa
khóa để thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, để tham gia hội nhập kinh tế xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ.
5. Hội nhập kinh tế quốc tế khiến làm mất đi tính độc lập, tự chủ của các nước đang phát
triển và nước kém phát triển.
Sai vì hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ
với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế
vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải
quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm(1). Về bản chất, hội nhập quốc tế
là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và lợi ích 20