Ôn tập chủ nghĩ xã hội khoa học | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ là một hệ tư tưởng mà còn là một phương pháp để phân tích và thay đổi xã hội. Việc hiểu rõ các nguyên tắc và tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ giúp sinh viên có cái nhìn sâu sắc hơn về các vấn đề xã hội và kinh tế hiện nay. Các nước xã hội chủ nghĩa đã áp dụng lý thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học trong thực tiễn để xây dựng hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa theo hướng tiến bộ, công bằng.

On thi mon chu nghia xa hoi khoa hoc co dap an
C âu 1 : Phân tích khái niệm GCCN, Sứ mệnh lịch sử của GCCN:
1
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó.
Khái niệm:
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động, được hình thành và phát
triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đạihội hóa cao;là giai
cấp đại biểu lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày
nay,có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức nhân dân lao động các nước tiến hành
cách mạng XHCN, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân trong XHCN
những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội, làm chủ quá trình sản xuất và phân phối, không còn bóc lột
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần thì
còn một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân bị bóc lột giá trị
thặng dư.
Giai cấp công nhân trong xã hội Tư bản
+ những người trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
+ Là những người không có TLSX, phải đi làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
Quan niệm hiện nay về giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao
gồm những người lao động chân tay trí óc, làm công hưởng lương trong các loại
hình sản xuất kinh doanh dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh dịch
vụ có tính chất công nghiệp.
Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Lênin: “điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác chỗ làm sáng tỏ vai trò
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên hai nội dung cụ thể sau:
- Lãnh đạo nhân dân lao động tiến hành cách mạng hội xóa bỏ chế độ bản
chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người
- Xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa- cộng sản chủ nghĩa
Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự
nghiệp đại của giai cấp công nhân giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng con người và nhân loại.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân các nước khác nhau khác
nhau. Ở nước ta giai cấp công nhân phải
+ Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình lãnh đạo cuộc cách mạng
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành chính quyền, thiết lập chính quyền
chuyên chính dân chủ nhân dân
+ Lãnh đạo nhân dân làm cách mạng XHCN, xây dựng thành công CNXH và tiến
tới xây dựng CNCS.
Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế -xã hội khách quan quy định. Giai cấp công nhân gắn với lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa bản. Do vậy, lực lượng quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN. giai cấp duy nhất khả năng lãnh đạo
hội xây dựng một phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.giai cấp duy nhất
khả năng lãnh đạo hội xây dựng một phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Mặt khác giai cấp công nhân bị giai cấp sản bóc lột nặng nề, lợi ích đối kháng
trực tiếp với giai cấp sản. Họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cuộc cách mạng
hội giải phóng toàn bộ xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa./.
Câu 1: Phân tích khái niệm GCCN, Sứ mệnh lịch sử của GCCN:
- -
GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
hình thành phát triển của nền SX công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển củahình thành phát triển của nền SX công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
LLSX tính chất XHH ngày càngcao; LLSX bản tiên tiến, trực tiếp hoặcLLSX tính chất XHH ngày càngcao; LLSX bản tiên tiến, trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất cải tạo
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất cải tạo
các quan hệ hội; lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên
các quan hệ hội; lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên
CNXH.
CNXH.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người khônghoặc về
bản không liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp sản bị giai cấp
sản bóc lột giái trị thặng dư; các nước hội chủ nghĩa, họ người đã cùng nhân
dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất và cùng nhau hợp tác lao đông vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ".
Giai cấp công nhân hay giai cấpsản, theo Mac là giai cấp của những người phải
bán sức lao động để đổi lấy tiền lương họ không phải chủ sở hữu của phương
tiện sản xuất. Cũng theo Mac, giai cấp công nhân giai cấp tạo ra các giá trị thặng
sự giàu cho hội. Ngày nay, đây giai cấp lao động sản xuất ra của cải
vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng
hiện đại. Sản phẩm thặng do họ làm ra nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu
phát triển xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...
Giai cấp công nhân trong hội bản chủ nghĩa hay còn được gọi giai cấp
sản. Ăngghen định nghĩa: "Giai cấp sản 1 giai cấp hội hoàn toàn chỉ kiếm
sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất
cứ bản nào, đó 1 giai cấp hạnh phúc đau khổ, tức phụ thuộc vào tình
hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những biến động của cuộc
cạnh tranh không ngăn cản nổi". Tuy vậy, khi gọi GCVS GCCN. GCCN
GCVS có trình độ lao động công nghiệp cao, là đứa con của nền đại công nghiệp hiện
đại.
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân những
người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa: GCCN những người lao động
không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc
lột về giá trị thặng dư.
- Lịch sử phát triển của hội giai cấp lịch sử đấu tranh giai cấp.Trong mỗi
thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế hội này sang hình thái kinh
tế-xã hội khác cao hơn luôn một giai cấp đứng vị trí trung tâm, đó giai cấp
cách mạng, đóng vai trò động lực chủ yếu, lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển
biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử.
Trong thời đại ngày nay đó giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ giai
cấp công nhân mới Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ bản
chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân
dân lao động toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây
dựng hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to lớn đó của giai cấp công
nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ý nghĩa quan trong
cả về lý luận lẫn thực tiễn.Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa hội đang trong thời kỳ thoái
trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới, cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại”
về mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đang thời đại
quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang
nhiều biến động, tiêu cực...thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân được đặt ra trở nên bưc thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện
luận và thực tiễn.
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội từ thấp đến cao. Trong hội giai cấp luôn mâu thuẫn giữa Lực lượng sản
xuất phát triển đến trình độ hội hóa cao với Quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu; mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
Mác và .Ănghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao động: là người
sáng tạo chân chính ra lịch sử; người vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản
xuất, giá trị thặng dư, chính trị hội. Khi trong hội còn tồn tại giai cấp bóc lột
trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức sản xuất đó còn giữ vị trí
tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong hội, luôn tồn tại một giai cấp
trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một
phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp hệ tưởng độc lập; giai cấp này phải
tiến hành thuyết phục tập hợp tổ chức quần chúng làm cách mạng. hai nhiệm
vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ XH cũ; xây dựng hình thái kinh tế XH mới
tiến bộ hơn.
SMLS của GCCN VN được thể hiện thông qua việc thực hiện 2 giai đoạn CM:
SMLS của GCCN VN được thể hiện thông qua việc thực hiện 2 giai đoạn CM:
-Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân-Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
- Cách mạng XHCN./.- Cách mạng XHCN./.
Câu 2: Phân tích khái niệm CM XHCN, Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
CNXH bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã hội mà trong
đó các sở hữu các tài sảnthuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm
mục đích tiến đến sự công bằng trong hội trong kinh tế cũng như tiến đến một
sự hợp tác tốt hơn. Quyền điều khiển có thể là trực tiếp qua một tập thể như hình thức
công đoàn hay gián tiếp qua hình thức nhà nước. Nhìn theo khía cạnh kinh tế thì chủ
nghĩa hội đặc tính sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được "cộng
đồng hóa".
Phong trào hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động trong cuối
thế kỷ 19. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói về
những phê phán của các nhà phê bình xã hội châu Âu khi họ phê bình về chủ nghĩa tư
bản về khái niệm sở hữu riêng. Đối với Mac người đã đóng góp một phần lớn
trong việc xây dựng phong trào xã hội hiện đại, thì CNXH sẽ là một hệ thống KT-XH
sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển quyền điều khiển các phương tiện
sản xuất từ tay của một số ít sang tay của một tập thể. Sau đó, xã hội đó sẽ tiến sang
CNCS.
Có rất nhiều tưởng phong trào được gọi, hay tự gọi, theo chủ nghĩa hội.
Nhưng từ thế kỷ 19 đến nay, những người theo chủ nghĩa hội đã không thể đưa ra
một tưởng hay một kế hoạch chung cho họ. Trái lại, những người theo chủ nghĩa
xã hội tự chia họ ra nhiều nhánh khác nhau và nhiều khi đối nghịch nhau, nhất là giữa
những người theo nhánh chủ nghĩa hội cải cách những người theo chủ nghĩa
cộng sản.
các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản hay sử dụng các từ "xã hội chủ nghĩa"
"chủ nghĩa hội" để tự gọi họ nên đã có nhiều nhầm lẫn. Sự khác biệt giữa hai chủ
nghĩa là: theo thuyết của những người theo chủ nghĩa Mác- Lênin CNXH giai
đoạn nằm giữa trong quá trình từ CNTB tiến lên CNCS hay những người theo trường
phái CNXH khác đưa ra CNXH hình thái kinh thái KT-XH không phải CNTB,
không đưa ra mục tiêu tiến đến CNCS. Một số trường phái CNXH vẫn chấp nhận đa
nguyên về kinh tế chính trị. Chủ nghĩa này tạo ra sự bình đẳng hội bằng chính
sách thuế và an sinh xã hội thay vì kinh tế tập thể bắt buộc như chế độ cộng sản.
XHCN: làm theo năng lực, hưởng theo lao động; XHCS: làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu.
Quan niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất
chế độ bản chủ nghĩa, bằng chế độ hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó,
giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: cách mạng hội chủ nghĩa được hiểu một cuộc cách mạng
chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính sản- nhà nước của
GCCN và quần chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng: cách mạng hội chủ nghĩa quá trình cải biến một cách toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa hội và cuối cùng chủ nghĩa cộng
sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng hội chủ nghĩa bao gồm cả việc
giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động cả quá trình giai
cấp công nhân cùng với quần
chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới trên tất
cả các lĩnh vực đời sống hội, tới khi xây dựng thành công CNXH thì cuộc cách
mạng này mới kết thúc.
Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng
hội do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát
triển hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng
một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C. Mác ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ
những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội ".
Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao, mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. C. Mác đã viết: "Sự
tập trung liệu sản xuất hội hoá lao động đạt đến cái điểm chúng không
còn thích hợp với cái vỏ bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất bản chủ
nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên".
Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng
doanh nghiệp ngày càng tăng với tính tổ chức của sản xuất toàn hội do tính
cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa gây ra.
Quy luật cạnh tranh, tính chất chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng
thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp
công nhân sống bằng việc bán sức lao động, do vậy, một khi sản xuất đình trệ làm
cho công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản
và giai cấp tư sản./.
Câu 2
2
: Phân tích khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội được bắt đầu từ năm 1954 miền
bắc từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hòan thành thắng lợi, đất nước đã hòa
bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
- phát triển theo con đường hội chủ nghĩa phù hợp với quy luật khách quan
của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế- hội: công
nguyên thuỷ, chiếm hữu lệ, phong kiến, bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các
hình thái kinh tế- hội quá trình lịch sử tự nhiên hình thái kinh tế- hội sau
cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế- hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái
kinh tế- xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho ngày nay, chủ nghĩa bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công
nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản
xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn
của nó, đặc biệt mâu thuẫn giữa tính chất hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu nhân bản chủ nghĩa về liệu sản xuất.
Mâu thuẫn này không những không dịu đi ngày càng phát triển gay gắt sâu
sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất hội hóa lao động làm cho
các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư
bản sự ra đời của hội mới - chủ nghĩa hội. Chủ nghĩa bản không phải
tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
- phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời
đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân
chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước
hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người công ăn việc
làm, được ấm no, sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh”. vậy, cuộc cách mạng hội
chủ nghĩa sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách
mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa
xã hội, nhưng nó lại có đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phátđặc điểm riêng
riêng của mỗi quốc gia quy định. Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá
độ với “đặc điểm lớn nhất từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi cả nước
thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích
hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định:
“nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm
chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn thực dân phong kiến còn
nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc
lập của nhân dân ta”
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ nước ta là bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Sẽ sai lầm phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa” theo
kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa hội với chủ nghĩa bản, bỏ qua
cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra các nước hội chủ nghĩa
trước đây.vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã
nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu nhân loại đã đạt được dưới chế độ bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”.
Bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa thực chất phát triển theo con đường “rút ngắn”
quá trình lên chủ nghĩa hội. Nhưng “rút ngắn” không phải đốt cháy giai đoạn,
duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân các thành
phần kinh tế “phi chủ nghĩa hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải
tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất
nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc, bước đi
thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu
nhân loại đã đạt được chủ nghĩa bản không chỉ về lực lượng sản xuất cả
về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình
thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ
được Lênin phân tích sâu sắc trong luận về chủ nghĩabản nhà nước. Thực hiện
các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừatác dụng phát triển nhanh
chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản lên chủ
nghĩa xã hội,hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ
thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra
sự biến đổi về chất củahội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức
tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa là con đường rút ngắn
để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại./.
Câu 2
3
: Phân tích khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
Nhưng khả năng tiền đề để thực hiện con đường đó như thế nào? Phân tích tình
hình đất nước thời đại cho thấy mặc kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn khả
năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về khả năng khách quan
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như bão và toàn
cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất
yếu; mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát
triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém…,
nhờ đó ta có thể thực hiện “con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa hội xu hướng khách quan của loài
người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng
tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu
tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
Về những tiền đề chủ quan
Nước ta nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần thông
minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục
ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa
thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức
quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi
để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp
thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước phát triển.
Qúa độ lên chủ nghĩa hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử
còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến
đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt
qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng giàu tinh thần cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn gắn với
nhân dân, Nhà nước hội Chủ nghĩa của dân, do dân, dân ngày càng được
củng cố vững mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đó những nhân tố chủ quan
cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì qúa độ lên CNXH ở Việt Nam :
Thời quá độ lên chủ nghĩa hội thời cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là :
Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội:
Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, là nền sản xuất đại cơ
khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong
nông nghiệp.
Ngày nay, sở vật chất - thuật của chủ nghĩa hội phải thể hiện được những
thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra
được năng suất lao động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục
tiêu và tính ưu việt của CNXH mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.
Qúa độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa
có tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra;
do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt thời quá độ. tính chất quyết
định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phát triển nguồn lực con người - lực
lượng sản xuất bản của đất nước, yếu tố bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội
ngũ lao động khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản hiệu quả các thành
tựu khoa học, công nghệ hiện đại. vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ sức
mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
công nghệ nền tảng động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quốc
sách hàng đầu” trong chiến lược phát triển đất nước.
Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghiã:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội xây dựng một chế độ hội mớinền kinh tế phát
triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại chế độ công hữu về những liệu sản
xuất chủ yếu. Chế độ công hữuliệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản
xuất hội chủ nghiã; sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ hội
hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa
hội được xây dựng xong về bản.vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý
chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới hội chủ nghĩa. chỉ được hình
thành trong quá trình phát triển kinh tế - hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình
thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa hội nước ta
phải đảm bảo các yêu cầu sau đây :
- Quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều kết
quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
- Quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và
phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng
bộ cả ba mặt đó.
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời quá độ nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng hội chủ
nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế ;
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành
tất yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực
mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những
thách thức nguy cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta
những hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
con đường “ rút ngắn”. Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại
công nghệ hiện đại những kinh nghiệm quản tiên tiến ... nhờ đó, khai thác
hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp
khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Để mở rộng nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cấu xuất - nhập khẩu, đa
dạng hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức các quốc gia trong khu vực quốc tế.
Tuy nhiên, phải xử đúng mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự
chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc với kế thừa, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại ./.
Câu 4: Khái niệm nền văn hoá xã hội chủ nghĩa:
Nói đến khái niệm về văn hoá đã rất nhiều về khái niệm hay định nghĩa về ,VH
nhưng cho đến nay, từ trong nước cũng như trên thế giới vẫn chưa thống nhất được
một khái niệm chung nhất
Phải chăng VH một cái đó quá phức tạp người ta không thể tìm ra được
một khái niệm chung nhất? Có lẽ vì VH là một hiện tượng trừu tượng, là cả một khối
gồm rất nhiều khái niệm, hầu như không thể bản thể hoá chúng được. Do tính phức
tạp như vậy, người ta thể coi VH một hệ thống những khái niệm VH, hoặc
những thành tố của VH được tách riêng và hệ thống hoá các khái niệm chính yếu của
VH.
Qua quá trình tìm hiểu về VH, thể định vị một số dạng tiêu biểu của các khái
niệm về vh quy các dạng khái niệm về VH như sau:
- Khái niệm VH theo nghĩa rộng: là tất cả sự sáng tạo của con người là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực
tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Các giá trị ấy nói lên trình độ phát triển của lịch
sử loài người” VH biểu hiện của trình độ phát triển hội trong từng thời kỳ lịch
sử nhất định. Đây là một khái niệm VH theo nghĩa rộng, mang tính triết học, có phần
nghiêng về hoạt động sáng tạo trong lịch sử hội loài người, thiên về tính giá trị,
được hình thành trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin.
VH là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội ”.
VH tất cả những sản phẩm vật chất (văn hoá vật thể) tinh thần (VH phi vật
thể) do con người sáng tạo ra trong quá khứ, hiện tại. cả hai khái niệm nêu trên đều
gắn với chữ “giá trị”. nghĩa rằng, không phải tất cả những sản phẩm con người
sáng tạo ra đều VH chỉ những sản phẩm chứa đựng giá trị (cái ích cho
con người) nghĩa là, những sản phẩm do con người làm ra (sáng tạo ra) nhưng
không mang tính giá trị thì không phải là VH
Ví dụ: Những danh lam thắng cảnh như vịnh Hạ Long, động Phong Nha v.v… tuy
không phải do con người làm ra nhưng con người tìm ra thưởng thức vẻ đẹp của
(thưởng thức một sáng tạo) cũng VH, VH bao gồm tất cả những dân tộc, tín
ngưỡng, phong tục tập quán. . .
Trong cuộc sống hội loài người như: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, . . . những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về ăn, mặc, các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó
tức là VH. VH là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống đòi hỏi
của sự sinh tồn. Trong đó VH vật thể (những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở…), VH phi vật thể (ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học
nghệ thuật) những sản phẩm nhằm phục vụ cho con người, nghĩa chứa đựng
những giá trị.
Trong ý nghĩa rộng nhất, VH tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong hội. VH bao gồm nghệ thuật văn chương, những lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Khái niệm trên vừa nói đến VH vật chất và VH tinh thần, vừa nói đến hệ giá trị
đặc biệt nêu lên “những nét riêng biệt về VH của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội”.
Như vậy, khái niệm trên cũng khái niệm VH theo nghĩa rộng, kèm theo đó
quan điểm công nhận mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có bản sắc VH riêng biệt.
- Khái niệmVăn hoá theo nghĩa hẹp: gồm những khái niệm gắn từ “văn hoá” với
một chuyên ngành nào đó.
Ví dụ: VH dân gian, VH bác học, VH tôn giáo, VH giao tiếp, VH xã hội. VH chính
trị, VH ứng xử , VH nghệ thuật, VH giáo dục (học vấn), VH kinh doanh, VH dân tộc
v.v…đối với những khái niệm VH theo nghĩa hẹp, những từ được gắn với từ “văn
hoá” sẽ chiếm vị trí chính yếu trong khái niệm đó.
dụ: khái niệm“VH tưởng” khái niệm gắn với thể chế chính trị công tác
lý luận; “VH giao tiếp” nói đến mối quan hệ ứng xử giữa người với người.
Để tìm hiểu cội nguồn của VH phải đặt nó trong quá trình hình thành loài người.
Về nguồn gốc loài người trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người. Trải qua
quá trình cải tiến và lao động sáng tạo phương thức kiếm sống của loài vượn với lao
động của hội loài người, "Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn trong
khu vựcđiều kiện địa lý hoặcsự kháng cự của đàn vượn bên cạnh đã hạn định
cho chúng" . Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra thức ăn cho mình chỉ
ăn những thứ sẵn trong tự nhiên. Đó phương thức kiếm ăn của loài vượn
"kinh tế chiếm đoạt". "Nhưng tất cả những cái đó vẫn chưa phải lao động, theo
đúng ý nghĩa của nó. Lao động bắt đầu với việc chế tạo ra công cụ".Như vậy, chính
lao động sáng tạo mới là động lực chính tác động vào quá trình chuyển biến từ vượn
thành người và đó cũng là cội nguồn của VH, hay có thể nói, lao động sáng tạo là bản
chất của VH. Lao động sáng tạo của con người thể hiện ở cả hai lĩnh vực sản xuất cơ
bản của xã hội (sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần).
Vì vậy, khái niệm VH: gồm cả VH vật chất và VH tinh thần. Trong đó, VH vật chất
là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất;
VH tinh thần tổng thể các tưởng, luận giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
Từ sự phân tích trên, khi tìm hiểu khái niệm VH cần lưu ý:
- VH là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không do con người
làm nên không thuộc về khái niệm VH. Do vậy, VH đặc trưng căn bản phân biệt
con người với động vật, đồng thời cũng tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân
tạo với sản phẩm tự nhiên.
- VH xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động ý thức của con người
với tự nhiên, là sự thích nghisáng tạo, phù hợp với chân thiện, mỹ, nên VH cũng
là kết quả của sự thích nghi ấy.
- VH bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không chỉ riêng có tinh
thần mà thôi.
- Với cách hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức con người, nên sự phát triển
của VH bao giờ cũng chịu sự quy định của sở kinh tế, chính trị của một hội
nhất định.
Chính vì vậy, VH trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Nền VH biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của VH, được hình thành
phát triển trên sở KT-CT của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp
thống trị chi phối phương hướng phát triển quyết định hệ thống các chính sách,
pháp luật để quản lý các hoạt động VH./.
Câu 5: Phân tích khái niệm dân tộc:
Dân tộc cộng đồng những người cùng chung một lịch sử, nói chung một ngôn
ngữ, sống chung trên một vùng lãnh thổ và có chung một nền văn hoá.
Dân tộc là tên chỉ cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, sau khi xã
hội đã sự phân chia giai cấp xuất hiện nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ đã
thị tộc, rồi bộ lạc. Những thành viên trong thị tộc gắn với nhau bằng quan hệ
huyết thống. Bộ lạc bao gồm những người cùng họ những người khác họ, cùng
sinh sống trên một địa bàn. Sản xuất phát triển thì bản thân con người cũng phát triển
theo, cùng với những đặc trưng như ngôn ngữ, văn hoá vật chất (thể hiện trong
phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt) văn hoá tinh thần (thể hiện thành ý
thức và các hình thái ý thức). Hình thức của cộng đồng người cũng có sự tiến hoá: từ
phân tán đến tập trung, từ thấp đến cao, kết quả là hình thành nên những tộc người và
những dân tộc khác nhau như chúng ta thấy hiện nay. thể quan niệm dân tộc
cộng đồng những người cùng chung một lịch sử (lịch sử hình thành và phát triển của
dân tộc), nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, chung một nền
văn hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này tổng hợp các giá trị vật chất tinh
thần do con người sáng tạo ra, tiêu biểu cho trình độ văn minh đã đạt được. Văn hoá
của các dân tộc có những nét chung giống nhau (thí dụ như đều trải qua nền văn minh
nông nghiệp tiến lên nền văn minh công nghiệp), nhưng cũng những nét đặc thù
gọi là tính cách dân tộc hay bản sắc dân tộc (các phong tục, tập quán sinh hoạt và ứng
xử, các nếp tâm duy, các ưu thế phát triển về mặt này hay mặt khác) tạo ra
tính đa dạng, cùng phong phú của văn hoá nhân loại.
Về mặt hội, khái niệm dân tộc không phải bao giờ cũng trùng hợp với khái niệm
quốc gia theo nghĩa một cộng đồng chính trị - hội được quản bằng bộ máy
nhà nước. quốc gia chỉ gồm một dân tộc, song phần lớn những quốc gia nhiều
dân tộc (nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một dân tộc chủ yếu, thường đông
hơn và phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có tình hìnhnhững người cùng một dân
tộc nhưng sống phân tán ở những quốc gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc hình
thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn trình độ
phát triển. Củng nhiều dân tộc tự phát liên kết với nhau, hoà nhập vào nhau hoặc
đồng hoá, thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của dân tộc là cần có nhà nước để bảo vệ
lãnh thổ.
Ý thức về chủ quyền lãnh thổ phát triển thành ý thức quốc gia dân tộc hay chủ
nghĩa yêu nước. Nhà nước sự tác động để củng cố sự đoàn kết dân tộc, sự thống
nhất nhiều dân tộc trong biên giới. Khi Nhà nước ban hành những pháp luật thống
nhất trong cả nước, đã đẩy nhanh sự cố kết của dân tộc. Việt Nam đã từng bị ngoại
tộc đô hộ hơn một nghìn năm, cho nên dân tộc Việt Nam đã có ý thức về bản sắc của
dân tộc mình nổi dậy chống lại sự đô hộ ấy. Ý thức về quốc gia - dân tộc đã thể
hiện rõ trong hành động lịch sử, Việt Nam vẫn chưa đạt đến trình độ một nước tư bản
chủ nghĩa.
Rõ ràng là, người Việt Nam đã hình thành nên dân tộc của mình ngay từ thời cổ đại,
chứ không phải đợi đến khi lập ra nhà nước phong kiến độc lập bền vững.
dân tộc hình thành rồi, sau đó mới ý thức dân tộc. Con người được sinh ra
trong cộng đồng, từ cộng đồng. Chỉ có thông qua cộng đồng,đây là cộng đồng dân
tộc, cá nhân con người mới được xã hội hoá, mới trở thành người. Đứa trẻ sơ sinh chỉ
mới là “con người dự bị”; nó phải tập ăn, tập nói như người, cảm xúc, ứng xử và suy
nghĩ như người. Nắm được ngôn ngữ dân tộc - vừa phương tiện giao tiếp, vừa
phương tiện nhận thức - đứa trẻ càng nhanh chóng đi vào những khuôn nếp của
hội, những tục lệ, tín ngưỡng, đạo lý, pháp luật sẵn có của một trình độ văn hoá nhất
định.
Đến tuổi thành niên, mới được hội công nhận một thành viên đủ cách.
Một cách rất tự nhiên, mỗi cá nhân con người đều cảm thấy rất rõ, trong cả thể xác và
tâm hồn mình, người của một dân tộc nhất định. Đó chính ý thức dân tộc, tinh
thần dân tộc hay là chủ nghĩa dân tộc.
Như vậy, ý thức dân tộc trước hết là ý thức về cội nguồn dân tộc của mỗi con người.
Sau đó ý thức về quyền dân tộc: quyền làm chủ lãnh thổ (đất nước), làm chủ đời
sống vật chất tinh thần của dân tộc mình. Đó tinh thần độc lập, tự chủ của mỗi
dân tộc. Đó quyền tự nhiên, mỗi thành viên của dân tộc đều thấy nghĩa vụ
thiêng liêng phải giữ gìn và bảo vệ.
Chủ nghĩa dân tộc còn là ý thức về phẩm giá dân tộc. Dân tộc tồn tại và phát triển là
thành quả của sức lao động và đấu tranh sáng tạo của nhiều thế hệ. Họ đã tạo ra tất cả
những giá trị vật chất và tinh thần hợp thành nền văn hoá dân tộc, vừa có bản sắc
riêng, vừa là bộ phận hợp thành nền văn hoá chung của nhân loại./.
Câu 5
1
: Phân tích khái niệm tôn giáo:
- Khi nói đến tôn giáo, theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề
cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu thế giới phi hiện hữu, thế giới của
người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô hình.
- Tôn giáo không chỉ những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự
nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa
vào thánh thần còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời
thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại,
tương lai cùng chung sống. gieo niềm hi vọng vào con người, phần ảo
tưởng để mà yên tâm, tin tưởng để sống phải sống trong một thế giới trần gian
nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo,
nhằm giải những vấn đề trên trần thế cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó
được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa -
văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những
nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng hội tôn giáo khác
nhau.
Để giải thích nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải làm lịch sử nhận thức
các đặc điểm của quá trình nhận thức dẫn đến việc hình thành quan niệm tôn giáo.
Trước hết, lịch sử nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao, trong đó
giai đoạn thấp giai đoạn nhận thức tự nhiên cảm tính. giai đoạn nhận thức này
(nhất là đối với cảm giác tri giác), con người chưa thể sáng tạo ra tôn giáo, bởi
tôn giáo với cách ý thức, niềm tin bao giờ cũng gắn với cái siêu nhiên, thần
thánh, nhận thức trực quan cảm tính thì chưa thể tạo ra cái siêu nhiên thần thánh
được. Như vậy, tôn giáo chỉ thể ra đời khi con người đã đạt tới một trình độ nhận
thức nhất định. Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên kia… là sản phẩm của những
biểu tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng hư ảo. Nói như vậy có nghĩa là
tôn giáo chỉ thể ra đời một trình độ nhận thức nhất định, đồng thời phải gắn
với sự tự ý thức của con người về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên
ngoài. Khi chưa biết tự ý thức, con người cũng chưa nhận thức được sự bất lực của
mình trước sức mạnh của thế giới bên ngoài, do đó con người chưa nhu cầu sáng
tạo ra tôn giáo để bù đắp cho sự bất lực ấy.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của quá trình nhận thức.
Đó là một quá trình phức tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống nhất một cách biện chứng
giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan. Những hình thức phản ánh thế giới
hiện thực càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người càng khả năng nhận
thức thế giới xung quanh sâu sắc và đầy đủ bấy nhiêu. Nhưng mỗi một hình thức mới
của sự phản ánh không những tạo ra những khả năng mới để nhận thức thế giới sâu
sắc hơn còn tạo ra khả năng “xa rời” hiện thực, phản ánh sai lầm nó. Thực chất
nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm chính sự tuyệt
đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến nó thành cái không
còn nội dung khách quan, không còn sở “thế gian”, nghĩa cái siêu nhiên thần
thánh.
Tôn giáo xuất hiện từ ngay trong thời kỳ nguyên thủy, từ những quan niệm hết sức
dốt nát, tối tăm, nguyên thủy của con người về bản thân mình thiên nhiên bao
quanh họ, họ thể hiện niềm tin bản năng của con người lúc bấy giờ họ chưa gắn
với các lợi ích về kinh tế - hội. Khi hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà
nước, quốc gia với các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn
một nhu cầu tinh thần của quần chúng còn một phương tiện để giai cấp thống
trị duy trì, sự thống trị áp bức giai cấp bóc lột còn thực hiện sự bành trướng,
xâm lược của nhà thống trị, vậy tôn giáo gắn liền với chính trị bị dân tộc hóa.
Từ đó đã dẫn đến sự xuất hiện các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới./.
Câu 5
2
: Phân tích khái niệm gia đình:
Gia đình một hình thức cộng đồng hội đặc biệt của con người, một thiết chế
văn hóa xh đặc thù, được hình thành tồn tại, phát triển dựa trên các mối quan hệ
như quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giáo dục giữa
các thành viên
Đối với sự tồn tại và phát triển loài người:gia đình có vai trò, vị trí hết sức quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Điều đó được thể hiện ở những điểm
cơ bản sau đây:
- Gia đình một trong những yếu tố góp phần hình thành nên xh loài người. Hơn
nữa, còn nhân tố tác động tích cực đến sự tồn tại phát triển của xh. Nếu
không có gia đình thì sẽ không có xh. Theo quan điểm duy vật của Ăngghen , nhân tố
quyết định trong lịch sử quy đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp
nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại, một mặt là sản xuất và tư liệu sinh hoạt
như thực phẩm, áo quần, nhà ở, và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ
đó, mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống.
- Trong hệ thống cơ cấu xh có nhiều bộ phận khác nhau với tư cáchtế bào xh , gia
đình là thiết chếsở ,cơ cấu thiết chế xh nhỏ nhất.cấu thiết chế xh nhỏ nhất
này lại đa dạng và phong phú. Một mặt vừa tuân thủ những quy luật và cơ chế chung
của xh, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi nền văn hóa nhưng mặt khác
gia đình còn tuân theo những quy định và tổ chức riêng của mình.
- Gia đình là cầu nối giữa các thành viên trong gia đình với xh, nhiều thông tin về xh
như các chủ trương chính sách của Đảng Nhà nước tác động đến con người
thông qua gia đình. Mặt khác, gia đình còn nơi cung cấp cho xh những con người
trở thành những chủ nhân của xã hội.
- Gia đình còn là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho con người,nơi hình thành
nhân cách của con người. Do đó, những tình cảm tốt đẹp của con người về quê
hương, đất nước, đồng bào, đồng chí, đều có cội nguồn từ tình yêu đối với gia đình.
- Chức năng tái sản xuất ra con người, tái tạo bảo dưỡng sức lao động của con
người nhằm để duy trì nòi giống cung cấp sức lao động cho xh. Việc thực hiện
chức năng này trong chế độ sản xuất mới vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại phát triển
của xh vừa đáp ứng nhu cầu của chính bản thân con người. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia
dân tộc cụ thể, việc thực hiện chức năng này tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của
mỗi quốc gia.
-chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình: Đây là chức năng cơ bản quan trọng
của gia đình nhằm tọa ra của cải vật chất , đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có,
góp phần làm cho dân giàu , nước mạnh.
Muốn vậy, mỗi thành viên trong gia đình cần phải có việc làm để nguồn thu nhập
ổn định nhưng ngoài ra cần phải biết làm thêm kinh tế phụ gia đình như sản xuất kinh
doanh, làm thêm giờ để tăng thêm thu nhập chính đáng, gắn liền với việc phát triển
kinh tế là việc tổ chức tốt đời sống gia đình, xh phải có trách nhiệm chăm lo cho mọi
gia đình bằng cách phát triển kinh tế, văn hóa ,còn việc tổ chức đời sống gia đình cụ
thể như thế nào, lại chức năng của mỗi gia đình. Muốn vậy mỗi gia đình cần phải
giải quyết một cách hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
- chức năng giáo dục của gia đình: đây chức năng xh hết sức quan trọng của gia
đình nhằm tạo ra người con hiếu thảo, người công dân ích cho gia đình bởi gia
đình là trường học đầu tiên, cha mẹ những người thầy giáo đầu tiên trong cuộc
đời của con gnười. Do đó nội dung của giáo dục gia đình cũng phải chú ý giáo dục
toàn diện bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống , ý thức cộng đồng,
cách cư xử,v.v Để đạt được nội dung đó thì phương pháp giáo dục của gia đình cũng
phải đa dạng, phong phú nhưng trong đó, biện pháp nêu gương vẫn biện pháp
tác dụng giáo dục lớn nhất đó tấm gương ông bà, cha mẹ đối với con cháu hoặc
tấm gương của vợ đối với chông, chồng đối với vợ hoạc tấm gương anh đối với em...
Mặt khác, việc thực hiện chức năng giáo dục này cần phải kết hợp một cách đồng bộ
giữa giáo dục gia đình , giáo dục nhà trường và giáo dục xh nhưng trong đó giáo dục
gia đình vẫn là cái gốc.
- Chức năng thỏa mãn tâm sinh lý ,tình cảm của con người: đây là chức năng có vị trí
đặc biệt quan trọng, có tính văn hóa sinh hoạt của gia đình, đảm bảo cho gia đình
được hạnh phúc vì rằng trong cuộc đời của con ngừoi có nhiều vấn đề phức tạp liên
quan đến giới tính, đến tâm sinh lý lứa tuổi , đến những thuận lợi, khó khăn...đều
được bộc lộ và giải quyết trong phạm vi gia đình./.
Câu 6: Phân tích khái niệm nhân tố con người, phát huy nhân tố con người:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực sự thống nhất giữa yếu tố sinh học yếu tố
hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người sản phẩm của thế giới tự
nhiên. Con người tự nhiên con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu
tố sinh học trong con người điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
vậy, giới tự nhiên “thân thể của con người”. Con người một bộ phận
của tự nhiên, là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ
để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người,
điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai đoạn
mang tính sinh học con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy
định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một
tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của
con người mối quan hệ của đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc
điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản
chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất
quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế
giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đãnhững quan niệm khác nhau phân biệt
con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động. Là “một
động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó
trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã
hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực hội của nó,
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác và Ăngghen đã nêu lên
vai trò lao động sản xuất của con người: “Có thể phân biệt con người với súc vật
bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái cũng được. Bản thân con
người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những liệu sinh hoạt của mình - đó một bước tiến do tổ chức thể của con
người quy định. Sản xuất ra những liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản
xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên : “Con vật chỉ
tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Tính hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục
vụ đời sống của mình; hình thành phát triển ngôn ngữ duy; xác lập quan hệ
hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người,
đồng thời hình thành nhân cách nhân trong cộng đồng hội. sản phẩm của tự
nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quy định
bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật
tự nhiên như quy luật về sự phù hợp thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi
chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người.
Hệ thống các quy luật tâm - ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học
của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy
luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và
hội là sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học nhu cầu hội trong
đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất xã hội; nhu cầu tình
cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học mặt hội, cũng như nhu cầu sinh học nhu cầu hội trong mỗi con
sinh học mặt hội, cũng như nhu cầu sinh học nhu cầu hội trong mỗi con
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã
hội đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
hội đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, đến lượt nó, nhu cầu
được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, đến lượt nó, nhu cầu
hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất vớihội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với
nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người tự nhiên - xã hội.nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người tự nhiên - xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng hoà những quan hệ hội.
Từ những quan niệm đã trình bày trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế
giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với
hội quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy cho cùng
đều mang tính hội, trong đó quan hệ hội giữa người với người quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác mọi hoạt động trong chừng mực liên
quan đến con người.
Bởi vậy, để phát huy nhân tố của con người, Mác cho rằng :“Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người tổng hoà những quan hệ hội”. Mác củng đã khẳng
định rằng, không con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động
thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất tinh thần để tồn tại
phát triển cả thể lực duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ hội đó
(như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ nhân,
gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất hội của mình. Bản chất
hội không nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại,
điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người thế giới động vật trước hết
bản chất hội đấy cũng để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học
trước Mác không thấy được bản chất hội của con người. Mặt khác, cái bản chất
với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất. Do
đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú đa dạng của mỗi
nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
vậy, để phát huy tốt bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị tính mục đích, tự giác, ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông
qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực tác động trở lại hoàn
cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi
con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ năng lực duy, các quy luật nhận
thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người./.
Câu 7: Phân tích Cương lĩnh dân tộc của CN Mac Lênin
Cương lĩnh dân tộc của CN MLN 1 bộ phận không thể tách rời trong cương lĩnh
CM của giai cấp công nhân.Bao gồm 3 nội dung cơ bản
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các
dân tộc hoàn toàn bình đẳng nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc
chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp
bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được
pháp luật bảo vệ được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống hội, trong đó
việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá do lịch
sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân
tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa vanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh
tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nước bản phát triển đối với các
nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
- Các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc
mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị - hội con đường phát triển của dân
tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập
một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ và
lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các
dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm
lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với
lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân nhân dân lao động. Kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng
chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ
các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa (sô vanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến
bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân
tộc của các đảng cộng sản: phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình
| 1/45

Preview text:

On thi mon chu nghia xa hoi khoa hoc co dap an
C âu 11: Phân tích khái niệm GCCN, Sứ mệnh lịch sử của GCCN:
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó. Khái niệm:
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động, được hình thành và phát
triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao;là giai
cấp đại biểu lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày
nay,có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo và tổ chức nhân dân lao động các nước tiến hành
cách mạng XHCN, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân trong XHCN
Là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội, làm chủ quá trình sản xuất và phân phối, không còn bóc lột
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần thì
còn một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân bị bóc lột giá trị thặng dư.
Giai cấp công nhân trong xã hội Tư bản
+ Là những người trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
+ Là những người không có TLSX, phải đi làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
Quan niệm hiện nay về giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao
gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại
hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch
vụ có tính chất công nghiệp.
Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Lênin: “điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên hai nội dung cụ thể sau:
- Lãnh đạo nhân dân lao động tiến hành cách mạng xã hội xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người
- Xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa- cộng sản chủ nghĩa
Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự
nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng con người và nhân loại.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở các nước khác nhau có khác
nhau. Ở nước ta giai cấp công nhân phải
+ Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình lãnh đạo cuộc cách mạng
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành chính quyền, thiết lập chính quyền
chuyên chính dân chủ nhân dân
+ Lãnh đạo nhân dân làm cách mạng XHCN, xây dựng thành công CNXH và tiến tới xây dựng CNCS.
Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế -xã hội khách quan quy định. Giai cấp công nhân gắn với lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Do vậy, nó là lực lượng quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN. Là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã
hội xây dựng một phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Là giai cấp duy nhất có
khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Mặt khác giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có lợi ích đối kháng
trực tiếp với giai cấp tư sản. Họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cuộc cách mạng xã
hội giải phóng toàn bộ xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa./.
Câu 1: Phân tích khái niệm GCCN, Sứ mệnh lịch sử của GCCN:
-
GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình
hình thành và phát triển của nền SX công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
LLSX có tính chất XHH ngày càngcao; là LLSX cơ bản và tiên tiến, trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo
các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về
cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư
sản bóc lột giái trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân
dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất và cùng nhau hợp tác lao đông vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ".
Giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản, theo Mac là giai cấp của những người phải
bán sức lao động để đổi lấy tiền lương và họ không phải là chủ sở hữu của phương
tiện sản xuất. Cũng theo Mac, giai cấp công nhân là giai cấp tạo ra các giá trị thặng
dư và sự giàu có cho xã hội. Ngày nay, đây là giai cấp lao động sản xuất ra của cải
vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng
hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và
phát triển xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...
Giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay còn được gọi là giai cấp vô
sản. Ăngghen định nghĩa: "Giai cấp vô sản là 1 giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm
sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất
cứ tư bản nào, đó là 1 giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, tức là phụ thuộc vào tình
hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những biến động của cuộc
cạnh tranh không gì ngăn cản nổi". Tuy vậy, khi gọi GCVS là GCCN. GCCN là
GCVS có trình độ lao động công nghiệp cao, là đứa con của nền đại công nghiệp hiện đại.
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân là những
người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: GCCN là những người lao động
không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc
lột về giá trị thặng dư.
- Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.Trong mỗi
thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh
tế-xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó là giai cấp
cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển
biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử.
Trong thời đại ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ có giai
cấp công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây
dựng xã hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to lớn đó của giai cấp công
nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa quan trong
cả về lý luận lẫn thực tiễn.Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái
trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới, cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại”
về sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang
có nhiều biến động, tiêu cực...thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân được đặt ra trở nên bưc thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp luôn có mâu thuẫn giữa Lực lượng sản
xuất phát triển đến trình độ xã hội hóa cao với Quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu; mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
Mác và .Ănghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao động: là người
sáng tạo chân chính ra lịch sử; là người có vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản
xuất, giá trị thặng dư, chính trị xã hội. Khi trong xã hội còn tồn tại giai cấp bóc lột
trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức sản xuất đó còn giữ vị trí
tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, luôn tồn tại một giai cấp
trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một
phương thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải
tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm
vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ XH cũ; xây dựng hình thái kinh tế XH mới tiến bộ hơn.
SMLS của GCCN VN được thể hiện thông qua việc thực hiện 2 giai đoạn CM: SMLS của GCCN
-Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - Cách mạng XHCN./.
Câu 2: Phân tích khái niệm CM XHCN, Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
CNXH
bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã hội mà trong
đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm
mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một
sự hợp tác tốt hơn. Quyền điều khiển có thể là trực tiếp qua một tập thể như hình thức
công đoàn hay gián tiếp qua hình thức nhà nước. Nhìn theo khía cạnh kinh tế thì chủ
nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được "cộng đồng hóa".
Phong trào xã hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động trong cuối
thế kỷ 19. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói về
những phê phán của các nhà phê bình xã hội châu Âu khi họ phê bình về chủ nghĩa tư
bản và về khái niệm sở hữu riêng. Đối với Mac người đã đóng góp một phần lớn
trong việc xây dựng phong trào xã hội hiện đại, thì CNXH sẽ là một hệ thống KT-XH
sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển quyền điều khiển các phương tiện
sản xuất từ tay của một số ít sang tay của một tập thể. Sau đó, xã hội đó sẽ tiến sang CNCS.
Có rất nhiều tư tưởng và phong trào được gọi, hay tự gọi, là theo chủ nghĩa xã hội.
Nhưng từ thế kỷ 19 đến nay, những người theo chủ nghĩa xã hội đã không thể đưa ra
một tư tưởng hay một kế hoạch chung cho họ. Trái lại, những người theo chủ nghĩa
xã hội tự chia họ ra nhiều nhánh khác nhau và nhiều khi đối nghịch nhau, nhất là giữa
những người theo nhánh chủ nghĩa xã hội cải cách và những người theo chủ nghĩa cộng sản.
Vì các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản hay sử dụng các từ "xã hội chủ nghĩa" và
"chủ nghĩa xã hội" để tự gọi họ nên đã có nhiều nhầm lẫn. Sự khác biệt giữa hai chủ
nghĩa là: theo lý thuyết của những người theo chủ nghĩa Mác- Lênin CNXH là giai
đoạn nằm giữa trong quá trình từ CNTB tiến lên CNCS hay những người theo trường
phái CNXH khác đưa ra CNXH là hình thái kinh thái KT-XH không phải CNTB, và
không đưa ra mục tiêu tiến đến CNCS. Một số trường phái CNXH vẫn chấp nhận đa
nguyên về kinh tế và chính trị. Chủ nghĩa này tạo ra sự bình đẳng xã hội bằng chính
sách thuế và an sinh xã hội thay vì kinh tế tập thể bắt buộc như chế độ cộng sản.
XHCN: làm theo năng lực, hưởng theo lao động; XHCS: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Quan niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất
là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó,
giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng
chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của
GCCN và quần chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng
sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc
giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai
cấp công nhân cùng với quần
chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công CNXH thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.
Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng
xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát
triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng
một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C. Mác và ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội ".
Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao, mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. C. Mác đã viết: "Sự
tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không
còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên".
Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng
doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sản xuất toàn xã hội do tính
cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa gây ra.
Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng
thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp
công nhân sống bằng việc bán sức lao động, do vậy, một khi sản xuất đình trệ làm
cho công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản và giai cấp tư sản./. Câu 2
2 : Phân tích khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền
bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hòan thành thắng lợi, đất nước đã hòa
bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
-
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan
của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế- xã hội: công xã
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các
hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau
cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế- xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái
kinh tế- xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công
nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản
xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn
có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu
sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho
các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư
bản và sự ra đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là
tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
- phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời
đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân
chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước
hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách
mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa
xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phát
riêng của mỗi quốc gia quy định. Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá
độ với “đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi cả nước
thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ
hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định:
“nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm
chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn
nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta”
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” theo
kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua
cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây. Vì vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã
nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn”
quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn,
duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành
phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải
tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất
nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc, bước đi
thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả
về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình
thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ
được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện
các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát triển nhanh
chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức
tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường rút ngắn
để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại./. Câu 2
3 : Phân tích khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
Nhưng khả năng tiền đề để thực hiện con đường đó như thế nào? Phân tích tình
hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có khả
năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về khả năng khách quan
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn
cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất
yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát
triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém…,
nhờ đó ta có thể thực hiện “con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài
người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng
tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu
tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
Về những tiền đề chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông
minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục
ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí
thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức
quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi
để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp
thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước phát triển.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử
mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến
đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt
qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với
nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được
củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô
cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì qúa độ lên CNXH ở Việt Nam :
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là :
Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội:

Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, là nền sản xuất đại cơ
khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp.
Ngày nay, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện được những
thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra
được năng suất lao động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục
tiêu và tính ưu việt của CNXH mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa
có tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra;
do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kì quá độ. Nó có tính chất quyết
định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực
lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội
ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lí có hiệu quả các thành
tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là “ quốc
sách hàng đầu” trong chiến lược phát triển đất nước.
Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghiã:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát
triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghiã; nó là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội
hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa
xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý
chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ được hình
thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
phải đảm bảo các yêu cầu sau đây :
- Quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết
quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
- Quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và
phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó.
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế ;
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành
tất yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực
mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những
thách thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta
những cơ hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
con đường “ rút ngắn”. Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại
công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lí tiên tiến ... nhờ đó, khai thác có
hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp
khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa
dạng hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, phải xử lí đúng mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự
chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc với kế thừa, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại ./.
Câu 4: Khái niệm nền văn hoá xã hội chủ nghĩa:
Nói đến khái niệm về văn hoá đã có rất nhiều về khái niệm hay định nghĩa về VH,
nhưng cho đến nay, từ trong nước cũng như trên thế giới vẫn chưa thống nhất được
một khái niệm chung nhất
Phải chăng VH là một cái gì đó quá phức tạp mà người ta không thể tìm ra được
một khái niệm chung nhất? Có lẽ vì VH là một hiện tượng trừu tượng, là cả một khối
gồm rất nhiều khái niệm, hầu như không thể bản thể hoá chúng được. Do tính phức
tạp như vậy, người ta có thể coi VH là một hệ thống những khái niệm VH, hoặc
những thành tố của VH được tách riêng và hệ thống hoá các khái niệm chính yếu của VH.
Qua quá trình tìm hiểu về VH, có thể định vị một số dạng tiêu biểu của các khái
niệm về vh và quy các dạng khái niệm về VH như sau:
- Khái niệm VH theo nghĩa rộng: là tất cả sự sáng tạo của con người là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực
tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Các giá trị ấy nói lên trình độ phát triển của lịch
sử loài người” VH là biểu hiện của trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch
sử nhất định. Đây là một khái niệm VH theo nghĩa rộng, mang tính triết học, có phần
nghiêng về hoạt động sáng tạo trong lịch sử xã hội loài người, thiên về tính giá trị,
được hình thành trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin.
VH là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội
”.
VH là tất cả những sản phẩm vật chất (văn hoá vật thể) và tinh thần (VH phi vật
thể) do con người sáng tạo ra trong quá khứ, hiện tại. cả hai khái niệm nêu trên đều
gắn với chữ “giá trị”. Có nghĩa rằng, không phải tất cả những sản phẩm con người
sáng tạo ra đều là VH mà chỉ những sản phẩm có chứa đựng giá trị (cái có ích cho
con người) có nghĩa là, những sản phẩm do con người làm ra (sáng tạo ra) nhưng
không mang tính giá trị thì không phải là VH
Ví dụ: Những danh lam thắng cảnh như vịnh Hạ Long, động Phong Nha v.v… tuy
không phải do con người làm ra nhưng con người tìm ra và thưởng thức vẻ đẹp của
nó (thưởng thức là một sáng tạo) cũng là VH, VH bao gồm tất cả những dân tộc, tín
ngưỡng, phong tục tập quán. . .
Trong cuộc sống xã hội loài người như: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, . . . những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là VH. VH là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn. Trong đó VH vật thể (những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở…), VH phi vật thể (ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học
nghệ thuật) những sản phẩm nhằm phục vụ cho con người, có nghĩa là chứa đựng những giá trị.
Trong ý nghĩa rộng nhất, VH là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. VH bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Khái niệm trên vừa nói đến VH vật chất và VH tinh thần, vừa nói đến hệ giá trị và
đặc biệt là nêu lên “những nét riêng biệt về VH của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội”.
Như vậy, khái niệm trên cũng là khái niệm VH theo nghĩa rộng, kèm theo đó là
quan điểm công nhận mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có bản sắc VH riêng biệt.
- Khái niệmVăn hoá theo nghĩa hẹp: gồm những khái niệm gắn từ “văn hoá” với
một chuyên ngành nào đó.
Ví dụ: VH dân gian, VH bác học, VH tôn giáo, VH giao tiếp, VH xã hội. VH chính
trị, VH ứng xử , VH nghệ thuật, VH giáo dục (học vấn), VH kinh doanh, VH dân tộc
v.v…đối với những khái niệm VH theo nghĩa hẹp, những từ được gắn với từ “văn
hoá” sẽ chiếm vị trí chính yếu trong khái niệm đó.
Ví dụ: khái niệm“VH tư tưởng” là khái niệm gắn với thể chế chính trị và công tác
lý luận; “VH giao tiếp” nói đến mối quan hệ ứng xử giữa người với người.
Để tìm hiểu cội nguồn của VH phải đặt nó trong quá trình hình thành loài người.
Về nguồn gốc loài người trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người. Trải qua
quá trình cải tiến và lao động sáng tạo phương thức kiếm sống của loài vượn với lao
động của xã hội loài người, "Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong
khu vực mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của đàn vượn bên cạnh đã hạn định
cho chúng" . Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra thức ăn cho mình mà chỉ
ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên. Đó là phương thức kiếm ăn của loài vượn là
"kinh tế chiếm đoạt". "Nhưng tất cả những cái đó vẫn chưa phải là lao động, theo
đúng ý nghĩa của nó. Lao động bắt đầu với việc chế tạo ra công cụ".Như vậy, chính
lao động sáng tạo mới là động lực chính tác động vào quá trình chuyển biến từ vượn
thành người và đó cũng là cội nguồn của VH, hay có thể nói, lao động sáng tạo là bản
chất của VH. Lao động sáng tạo của con người thể hiện ở cả hai lĩnh vực sản xuất cơ
bản của xã hội (sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần).
Vì vậy, khái niệm VH: gồm cả VH vật chất và VH tinh thần. Trong đó, VH vật chất
là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất;
VH tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
Từ sự phân tích trên, khi tìm hiểu khái niệm VH cần lưu ý:
- VH là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không do con người
làm nên không thuộc về khái niệm VH. Do vậy, VH là đặc trưng căn bản phân biệt
con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân
tạo với sản phẩm tự nhiên.
- VH xuất hiện là do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người
với tự nhiên, là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với chân thiện, mỹ, nên VH cũng
là kết quả của sự thích nghi ấy.
- VH bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không chỉ riêng có tinh thần mà thôi.
- Với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức con người, nên sự phát triển
của VH bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của một xã hội nhất định.
Chính vì vậy, VH trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Nền VH là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của VH, được hình thành và
phát triển trên cơ sở KT-CT của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp
thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách,
pháp luật để quản lý các hoạt động VH./.
Câu 5: Phân tích khái niệm dân tộc:
Dân tộc là cộng đồng những người cùng chung một lịch sử, nói chung một ngôn
ngữ, sống chung trên một vùng lãnh thổ và có chung một nền văn hoá.
Dân tộc là tên chỉ cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, sau khi xã
hội đã có sự phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ đã
có thị tộc, rồi bộ lạc. Những thành viên trong thị tộc gắn bó với nhau bằng quan hệ
huyết thống. Bộ lạc bao gồm những người cùng họ và những người khác họ, cùng
sinh sống trên một địa bàn. Sản xuất phát triển thì bản thân con người cũng phát triển
theo, cùng với những đặc trưng như ngôn ngữ, văn hoá vật chất (thể hiện trong
phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt) và văn hoá tinh thần (thể hiện thành ý
thức và các hình thái ý thức). Hình thức của cộng đồng người cũng có sự tiến hoá: từ
phân tán đến tập trung, từ thấp đến cao, kết quả là hình thành nên những tộc người và
những dân tộc khác nhau như chúng ta thấy hiện nay. Có thể quan niệm dân tộc là
cộng đồng những người cùng chung một lịch sử (lịch sử hình thành và phát triển của
dân tộc), nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, có chung một nền
văn hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này là tổng hợp các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra, tiêu biểu cho trình độ văn minh đã đạt được. Văn hoá
của các dân tộc có những nét chung giống nhau (thí dụ như đều trải qua nền văn minh
nông nghiệp tiến lên nền văn minh công nghiệp), nhưng cũng có những nét đặc thù
gọi là tính cách dân tộc hay bản sắc dân tộc (các phong tục, tập quán sinh hoạt và ứng
xử, các nếp tâm lý và tư duy, các ưu thế phát triển về mặt này hay mặt khác) tạo ra
tính đa dạng, vô cùng phong phú của văn hoá nhân loại.
Về mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao giờ cũng trùng hợp với khái niệm
quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị - xã hội được quản lý bằng bộ máy
nhà nước. Có quốc gia chỉ gồm một dân tộc, song phần lớn là những quốc gia nhiều
dân tộc (nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một dân tộc chủ yếu, thường là đông
hơn và phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có tình hình là những người cùng một dân
tộc nhưng sống phân tán ở những quốc gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc hình
thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn trình độ
phát triển. Củng có nhiều dân tộc tự phát liên kết với nhau, hoà nhập vào nhau hoặc
đồng hoá, thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của dân tộc là cần có nhà nước để bảo vệ lãnh thổ.
Ý thức về chủ quyền lãnh thổ phát triển thành ý thức quốc gia dân tộc hay chủ
nghĩa yêu nước. Nhà nước có sự tác động để củng cố sự đoàn kết dân tộc, sự thống
nhất nhiều dân tộc trong biên giới. Khi Nhà nước ban hành những pháp luật thống
nhất trong cả nước, đã đẩy nhanh sự cố kết của dân tộc. Việt Nam đã từng bị ngoại
tộc đô hộ hơn một nghìn năm, cho nên dân tộc Việt Nam đã có ý thức về bản sắc của
dân tộc mình và nổi dậy chống lại sự đô hộ ấy. Ý thức về quốc gia - dân tộc đã thể
hiện rõ trong hành động lịch sử, Việt Nam vẫn chưa đạt đến trình độ một nước tư bản chủ nghĩa.
Rõ ràng là, người Việt Nam đã hình thành nên dân tộc của mình ngay từ thời cổ đại,
chứ không phải đợi đến khi lập ra nhà nước phong kiến độc lập bền vững.
Có dân tộc hình thành rồi, sau đó mới có ý thức dân tộc. Con người được sinh ra
trong cộng đồng, từ cộng đồng. Chỉ có thông qua cộng đồng, ở đây là cộng đồng dân
tộc, cá nhân con người mới được xã hội hoá, mới trở thành người. Đứa trẻ sơ sinh chỉ
mới là “con người dự bị”; nó phải tập ăn, tập nói như người, cảm xúc, ứng xử và suy
nghĩ như người. Nắm được ngôn ngữ dân tộc - vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là
phương tiện nhận thức - đứa trẻ càng nhanh chóng đi vào những khuôn nếp của xã
hội, những tục lệ, tín ngưỡng, đạo lý, pháp luật sẵn có của một trình độ văn hoá nhất định.
Đến tuổi thành niên, nó mới được xã hội công nhận là một thành viên đủ tư cách.
Một cách rất tự nhiên, mỗi cá nhân con người đều cảm thấy rất rõ, trong cả thể xác và
tâm hồn mình, là người của một dân tộc nhất định. Đó chính là ý thức dân tộc, tinh
thần dân tộc hay là chủ nghĩa dân tộc.
Như vậy, ý thức dân tộc trước hết là ý thức về cội nguồn dân tộc của mỗi con người.
Sau đó là ý thức về quyền dân tộc: quyền làm chủ lãnh thổ (đất nước), làm chủ đời
sống vật chất và tinh thần của dân tộc mình. Đó là tinh thần độc lập, tự chủ của mỗi
dân tộc. Đó là quyền tự nhiên, mỗi thành viên của dân tộc đều thấy có nghĩa vụ
thiêng liêng phải giữ gìn và bảo vệ.
Chủ nghĩa dân tộc còn là ý thức về phẩm giá dân tộc. Dân tộc tồn tại và phát triển là
thành quả của sức lao động và đấu tranh sáng tạo của nhiều thế hệ. Họ đã tạo ra tất cả
những giá trị vật chất và tinh thần hợp thành nền văn hoá dân tộc, vừa có bản sắc
riêng, vừa là bộ phận hợp thành nền văn hoá chung của nhân loại./. Câu 5
1 : Phân tích khái niệm tôn giáo:
- Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề
cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của
người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô hình.
- Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự
nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa
vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời
thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại,
tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo
tưởng để mà yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có
nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo,
nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó
được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý -
văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những
nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Để giải thích nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải làm rõ lịch sử nhận thức và
các đặc điểm của quá trình nhận thức dẫn đến việc hình thành quan niệm tôn giáo.
Trước hết, lịch sử nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao, trong đó
giai đoạn thấp là giai đoạn nhận thức tự nhiên cảm tính. Ở giai đoạn nhận thức này
(nhất là đối với cảm giác và tri giác), con người chưa thể sáng tạo ra tôn giáo, bởi vì
tôn giáo với tư cách là ý thức, là niềm tin bao giờ cũng gắn với cái siêu nhiên, thần
thánh, mà nhận thức trực quan cảm tính thì chưa thể tạo ra cái siêu nhiên thần thánh
được. Như vậy, tôn giáo chỉ có thể ra đời khi con người đã đạt tới một trình độ nhận
thức nhất định. Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên kia… là sản phẩm của những
biểu tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng hư ảo. Nói như vậy có nghĩa là
tôn giáo chỉ có thể ra đời ở một trình độ nhận thức nhất định, đồng thời nó phải gắn
với sự tự ý thức của con người về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên
ngoài. Khi chưa biết tự ý thức, con người cũng chưa nhận thức được sự bất lực của
mình trước sức mạnh của thế giới bên ngoài, do đó con người chưa có nhu cầu sáng
tạo ra tôn giáo để bù đắp cho sự bất lực ấy.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của quá trình nhận thức.
Đó là một quá trình phức tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống nhất một cách biện chứng
giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan. Những hình thức phản ánh thế giới
hiện thực càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người càng có khả năng nhận
thức thế giới xung quanh sâu sắc và đầy đủ bấy nhiêu. Nhưng mỗi một hình thức mới
của sự phản ánh không những tạo ra những khả năng mới để nhận thức thế giới sâu
sắc hơn mà còn tạo ra khả năng “xa rời” hiện thực, phản ánh sai lầm nó. Thực chất
nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt
đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến nó thành cái không
còn nội dung khách quan, không còn cơ sở “thế gian”, nghĩa là cái siêu nhiên thần thánh.
Tôn giáo xuất hiện từ ngay trong thời kỳ nguyên thủy, từ những quan niệm hết sức
dốt nát, tối tăm, nguyên thủy của con người về bản thân mình và thiên nhiên bao
quanh họ, họ thể hiện niềm tin bản năng của con người và lúc bấy giờ họ chưa gắn
với các lợi ích về kinh tế - xã hội. Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà
nước, quốc gia với các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn là
một nhu cầu tinh thần của quần chúng mà còn là một phương tiện để giai cấp thống
trị duy trì, sự thống trị áp bức giai cấp và bóc lột và còn thực hiện sự bành trướng,
xâm lược của nhà thống trị, vì vậy tôn giáo gắn liền với chính trị và bị dân tộc hóa.
Từ đó đã dẫn đến sự xuất hiện các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới./. Câu 5
2 : Phân tích khái niệm gia đình:
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt của con người, là một thiết chế
văn hóa xh đặc thù, được hình thành và tồn tại, phát triển dựa trên các mối quan hệ
như quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên
Đối với sự tồn tại và phát triển loài người:gia đình có vai trò, vị trí hết sức quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Gia đình là một trong những yếu tố góp phần hình thành nên xh loài người. Hơn
nữa, nó còn là nhân tố tác động tích cực đến sự tồn tại và phát triển của xh. Nếu
không có gia đình thì sẽ không có xh. Theo quan điểm duy vật của Ăngghen , nhân tố
quyết định trong lịch sử quy đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp
nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại, một mặt là sản xuất và tư liệu sinh hoạt
như thực phẩm, áo quần, nhà ở, và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ
đó, mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống.
- Trong hệ thống cơ cấu xh có nhiều bộ phận khác nhau với tư cách là tế bào xh , gia
đình là thiết chế cơ sở , là cơ cấu thiết chế xh nhỏ nhất. Cơ cấu thiết chế xh nhỏ nhất
này lại đa dạng và phong phú. Một mặt vừa tuân thủ những quy luật và cơ chế chung
của xh, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi nền văn hóa nhưng mặt khác
gia đình còn tuân theo những quy định và tổ chức riêng của mình.
- Gia đình là cầu nối giữa các thành viên trong gia đình với xh, nhiều thông tin về xh
như các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước tác động đến con người
thông qua gia đình. Mặt khác, gia đình còn là nơi cung cấp cho xh những con người
trở thành những chủ nhân của xã hội.
- Gia đình còn là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho con người, là nơi hình thành
nhân cách của con người. Do đó, những tình cảm tốt đẹp của con người về quê
hương, đất nước, đồng bào, đồng chí, đều có cội nguồn từ tình yêu đối với gia đình.
- Chức năng tái sản xuất ra con người, tái tạo và bảo dưỡng sức lao động của con
người nhằm để duy trì nòi giống và cung cấp sức lao động cho xh. Việc thực hiện
chức năng này trong chế độ sản xuất mới vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của xh vừa đáp ứng nhu cầu của chính bản thân con người. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia
dân tộc cụ thể, việc thực hiện chức năng này là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
-chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình: Đây là chức năng cơ bản quan trọng
của gia đình nhằm tọa ra của cải vật chất , đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có,
góp phần làm cho dân giàu , nước mạnh.
Muốn vậy, mỗi thành viên trong gia đình cần phải có việc làm để có nguồn thu nhập
ổn định nhưng ngoài ra cần phải biết làm thêm kinh tế phụ gia đình như sản xuất kinh
doanh, làm thêm giờ để tăng thêm thu nhập chính đáng, gắn liền với việc phát triển
kinh tế là việc tổ chức tốt đời sống gia đình, xh phải có trách nhiệm chăm lo cho mọi
gia đình bằng cách phát triển kinh tế, văn hóa ,còn việc tổ chức đời sống gia đình cụ
thể như thế nào, lại là chức năng của mỗi gia đình. Muốn vậy mỗi gia đình cần phải
giải quyết một cách hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
- chức năng giáo dục của gia đình: đây là chức năng xh hết sức quan trọng của gia
đình nhằm tạo ra người con hiếu thảo, người công dân có ích cho gia đình bởi gia
đình là trường học đầu tiên, cha mẹ là những người thầy cô giáo đầu tiên trong cuộc
đời của con gnười. Do đó nội dung của giáo dục gia đình cũng phải chú ý giáo dục
toàn diện bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống , ý thức cộng đồng,
cách cư xử,v.v Để đạt được nội dung đó thì phương pháp giáo dục của gia đình cũng
phải đa dạng, phong phú nhưng trong đó, biện pháp nêu gương vẫn là biện pháp có
tác dụng giáo dục lớn nhất đó lá tấm gương ông bà, cha mẹ đối với con cháu hoặc
tấm gương của vợ đối với chông, chồng đối với vợ hoạc tấm gương anh đối với em...
Mặt khác, việc thực hiện chức năng giáo dục này cần phải kết hợp một cách đồng bộ
giữa giáo dục gia đình , giáo dục nhà trường và giáo dục xh nhưng trong đó giáo dục
gia đình vẫn là cái gốc.
- Chức năng thỏa mãn tâm sinh lý ,tình cảm của con người: đây là chức năng có vị trí
đặc biệt quan trọng, có tính văn hóa sinh hoạt của gia đình, đảm bảo cho gia đình
được hạnh phúc vì rằng trong cuộc đời của con ngừoi có nhiều vấn đề phức tạp liên
quan đến giới tính, đến tâm sinh lý lứa tuổi , đến những thuận lợi, khó khăn...đều
được bộc lộ và giải quyết trong phạm vi gia đình./.
Câu 6: Phân tích khái niệm nhân tố con người, phát huy nhân tố con người:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự
nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu
tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận
của tự nhiên, là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ
để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người,
điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai đoạn
mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy
định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một
tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của
con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc
điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản
chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất
quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế
giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt
con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động. Là “một
động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó
trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã
hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác và Ăngghen đã nêu lên
vai trò lao động sản xuất của con người: “Có thể phân biệt con người với súc vật
bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con
người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản
xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên : “Con vật chỉ
tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục
vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; xác lập quan hệ xã
hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người,
đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự
nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quy định
bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật
tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi
chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người.
Hệ thống các quy luật tâm lý - ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học
của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy
luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và
xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất xã hội; nhu cầu tình
cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã
hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã
hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với
nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người tự nhiên - xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế
giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã
hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy cho cùng
đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để phát huy nhân tố của con người, Mác cho rằng :“Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Mác củng đã khẳng
định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động
thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và
phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó
(như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân,
gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Bản chất
xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại,
điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết
là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học
trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất
với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất. Do
đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá
nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Vì vậy, để phát huy tốt bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông
qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn
cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi
con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận
thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người./.
Câu 7: Phân tích Cương lĩnh dân tộc của CN Mac Lênin
Cương lĩnh dân tộc của CN MLN là 1 bộ phận không thể tách rời trong cương lĩnh
CM của giai cấp công nhân.Bao gồm 3 nội dung cơ bản
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các
dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và
chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp
bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được
pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá do lịch
sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân
tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh
tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các
nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
- Các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc
mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân
tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập
một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ và
lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các
dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm
lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với
lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng
chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ
các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa (sô vanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến
bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân
tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó
bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình