Phân tích môi trường toàn cầu - Quản trị kinh doanh | Trường Đại học Khánh Hòa

Phân tích môi trường toàn cầu - Quản trị kinh doanh | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích môi trường toàn cầu
Mức độ ảnh hưởng toàn cầu của ngành điện tử dân dụng
Đây một ngành tương đối quan trọng và hiện đang rất phát triển với các
công nghệ kỹ thuật cao, nhiều tính năng sử dụng. đã bắt đầu đi vào thị
trường từ rất lâu, đã đang ngày càng hoàn thiện hơn, hiện đại hơn. Hiện
nay nhiều công ty ở Mỹ, Anh, Nhật bản đã nghiên cứu và tìm ra được nhiều
sản phẩm nhiều tính năng dễ sử dụng hỗ trợ rất nhiều cho công việc nội
trợ, quét dọn trong nhà. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang diễn ra thì
ngành điện tử không tránh khỏi những ảnh hưởng của xu hướng này,
những thuận lợi cũng như những khó khăn từ môi trường thế giới.
Xu hướng toàn cầu hóa tạo hội cho các công ty tham gia mạnh hơn vào
nền kinh tế thế giới, các công ty thể đưa dòng sản phẩm điện tử dân
dụng của mình đến tất cả các nước nhu cầu sử dụng, hơn nữa việc các
quốc gia khác tham gia vào WTO sẽ giúp các dòng sản phẩm này được lắp
đặt, sử dụng dễ dàng hơn tại nhiều quốc gia, đồng thời giúp các công ty
hội thâm nhập vào thị trường rộng lớn đầy tiềm năng như châu Á, châu
Mỹ.
Trong mười năm đầu của thế kỉ 21, kinh tế thế giới đã chứng kiến tốc độ
toàn cầu hóa sâu rộng nhanh chóng. Sự hình thành các tổ chức kinh tế
thế giới khu vực, các khu vực mậu dịch tự do, các hiệp định song
phương đa phương đã xóa bỏ các rào cản thương mại, rào cản sản xuất
rào cản về vốn, tăng khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn lực trên
thế giới gia tăng dòng chảy quốc tế về vốn, hàng hóa dịch vụ. Toàn
cầu hóa đã thúc đẩy thương mại quốc tế tăng trưởng mạnh, dòng vốn luân
chuyển nhanh và dễ dàng giũa các quốc gia, các khu vực kinh tế.
Các thị trường tài chính chuyển dịch nhanh chóng, giao dịch tài chính vượt
khỏi biên giới quốc gia làm cho hoạt động đầu quốc tế trở nên dễ
dàng hơn bao giờ hết. Các quy định hạn chế của chính phủ đã được dỡ bỏ
tại hầu hết các trung tâm i chính lớn người nước ngoài được khuyến
khích đầu tư. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hóa cũng kéo theo mặt trái của.
Sự gắn kết giữa các nền kinh tế càng mạnh thì sự tương tác hay phản ứng
dây chuyền càng lan nhanh rộng. Tiêu biểu như cuộc khủng hoảng tài
chính xuất phát từ Hoa vào cuối năm 2007. Chỉ trong một ngày sau sự
kiện Lehman Brothers – tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và của Pháp mất
1.4%, chỉ số Nikkei225 của Nhật Bản giảm gần 5%, chỉ số Hang Seng của
Hồng Kong giảm 5.4%, chỉ schứng khoán của Hàn Quốc mất 6.1%, Đài
Loan mất 4.9% và Thượng Hải mất 4.6%. Tính thanh khoản trên thị trường
tài chính sụt giảm mạnh mẽ, lãi suất Libor trong tháng 10/2008 tăng tới
30% cho thời hạn 1 tháng và 3 tháng, 16% 12% cho thời hạn 6 tháng
12 tháng.
Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đang khiến cho toàn cầu
hóa có xu hướng đảo chiều. G7 (nhóm các nước công nghiệp phát triển)
G20 (nhóm các bộ trưởng tài chính và các thống đốc ngân hàng trung ương
của 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới) theo đánh giá của một số chuyên gia
kinh tế, đã khổng thể đưa ra biện pháp đối phó một cách hiệu quả đối với
cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, ngoài việc mở rộng Quỹ tiền tệ
quốc tế. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng cũng phơi bày những điểm yếu
trong liên minh châu Âu.
Sự hợp nhất thông qua các liên doanh liên kết và các sự thâu tóm khác nhau
đã làm nhanh hơn bước chuyển tiếp đến toàn cầu hóa. Chiến lược kinh
doanh, quảng cáo và R&D của các tập đoàn đang chuyển từ tầm quan trọng
ở thị trường nội địa sang các thị trường quốc tế.
Kết luận:
Đối với mọi doanh nghiệp mức độ ảnh hưởng của các yếu tố môi trường
khác nhau. Nhận định đúng các yếu tố ảnh hưởng giúp công ty nhận biết
được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến hoạt động của công ty. Đối
với Sony yếu tố toàn cầu là yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp. Nhận diện được sự thay đổi giúp công ty nhận diện được cơ hội
đe dọa của môi trường.
Các khuynh hướng biến đổi của môi trường toàn cầu
Một trong những đặc điểm cơ bản của ngành công nghiệp điện tử thế giới là
tính chuyên môn hóa toàn cầu hóa: thay đổi cấu sản xuất và phương
thức sản xuất. Theo đó, các công ty, tập đoàn lớn đã không còn “bao sân”
từ A đến Z quá trình sản xuất chỉ tập trung vào một số khâu giá trị
gia tăng cao (tiếp thị, bán hàng…), còn lại họ thuê các công ty khác dưới
dạng đấu thầu.
Với sự phát triển này, quá trình sản xuất cũng được phân chia thành nhiều
công đoạn, bố trí mỗi công đoạn nhiều quốc gia khác nhau theo yêu cầu
điều kiện cụ thể, tạo ra một mạng lưới sản xuất sản phẩm điện tử mang
tính toàn cầu. Mạng lưới này cung ứng các dịch vụ sản xuất, linh kiện, phụ
tùng, xây dựng và vận hành các dây chuyền lắp ráp, vận chuyển, phân phối
sản phẩm như một chuỗi khép kín. Các công ty, tập đoàn lớn sử dụng mạng
lưới này để giảm chi phí sản xuất và vận chuyển.
Khuynh hướng biến đổi ảnh hưởng đến cầu của ngành điện tử dân
dụng
Kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục và nhu cầu mua các sản phẩm
điện tử gia dụng gia tăng
Năm 2005, tổng sản phẩm thế giới (GWP) tăng lên 4,6%, dẫn đầu là Trung Quốc (9,3%),
Ấn Độ (7,6%), Nga (5,9%). Kết quả tăng trưởng này được chủ yếu do sự tăng
trưởng của các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Đức và đặc biệt là Hoa Kỳ
với sự tăng trưởng mạnh trở lại (3,5%).
Năm 2007, Tổng sản phẩm thế giới (GWP) 46.770 tỉ USD, tính theo sức mua tương
đương là 65.960 tỉ USD. Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông - Bắc Á chiếm trên 3/4 GWP toàn cầu.
GDP bình quân đầu người là 6.600 USD, tính theo sức mua tương đương là 10.200 USD.
Tổng giá trị xuất khẩu là 12.030 tỉ USD, tổng giá trị nhập khẩu là 11.950 tỉ USD
Năm 2008 khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thế giớim vào cuộc ảnh hưởng của
là hết sức mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nửa cuối năm tài khóa
2008 (tháng 10/2008 đến hết tháng 3 năm 2009), tại Nhật Bản có hơn 100 nhà máy lớn bị
đóng cửa, nhiều gấp hơn 4 lần so với giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 9/2008. Đặc biệt
trong các lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị, sản phẩm điện gia dụng, thực phẩm
nhiều nhà máy buộc phải đóng cửa do tình hình bán hàng kém. Trong đó cả các hãng
điện tử, thiết bị điện nổi tiếng của Nhật Bản thế giới. Chẳng hạn như hãng Panasonic
đã quyết định đóng cửa 13 nhà máy, chủ yếu các nhà máy sản xuất màn hình ti vi sử
dụng trong ô tô; Hãng Juki đóng cửa 4 nhà máy sản xuất phụ tùng máy khâu, Sony đóng
cửa nhà máy sản xuất linh kiện ti vi... Trong số hơn 100 nhà máy bị đóng cửa trong giai
đoạn nói trên, có tới có tới 94 nhà máy bị đóng cửa trong khoảng từ tháng 1 đến hết tháng
3/2009. Các hãng sản xuất đều cho rằng, trong thời gian trước mắt, không thể trông đợi
kinh tế hồi phục đồng Yên giảm giá. vậy, họ buộc phi cắt giảm đầu nhân
công. Trong quý IV/2008 quý I/2009, 20 tập đoàn hàng đầu Nhật Bản đã cắt giảm
tổng cộng 87.000 nhân công cả ở trong nước và nước ngoài. Tính tới cuối tháng 3/09, các
tập đoàn này có tổng cộng 2,858 triệu nhân viên, giảm 3% so với cuối tháng 9/2008. Việc
cắt giảm nhân công diễn ra phổ biến trong ngành công nghiệp điện tử, do nhu cầu của thế
giới giá cả của các mặt hàng điện tử giảm. Trong quý IV/2008 quý I/2009,
Panasonic đã cắt giảm khoảng 21.000 việc làm, mức cắt giảm lớn nhất trong số 20 tập
đoàn nói trên. Tiếp theo Sony, với số nhân viên bị sa thải14.000. NEC cũng đã cắt
giảm 13.000 nhân công kế hoạch cắt giảm thêm ít nhất 7.000 nhân công nữa trong
các tháng tiếp theo.
Vài năm trở lại đây, kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, các khu vực bắt đầu tăng trưởng trở
lại nhưng còn khá chậm, châu Âu bắt đầu vực dậy sau suy thoái. Tuy vẫn tồn tại nhiều
nguy thách thức nhưng tình hình kinh tế thế giới trong vài năm tới được dự báo sẽ
sáng sủa hơn. Liên hợp quốc nhận định: với những dấu hiệu cải thiện như hiện nay, tăng
trưởng kinh tế toàn cầu sẽ cải thiện trong vòng hai năm tới thể đạt mức 3% trong
năm 2014; 3,3% trong năm 2015, cao hơn so với mức 2,1% trong năm 2013.
Khuynh hướng: Kinh tế thế giới hồi phục nhanh chóng tạo nên sức mua mạnh mẽ từ
người tiêu dùng.
hội: Nhu cầu mua sắm các sản phẩm điện tử gia dụng cũng từ đây tăng lên cao,
tạo bước đệm để cho ngành điện tử gia dụng phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai.
Khuynh hướng biến đổi ảnh hưởng đến cung của ngành điện tử dân
dụng
Với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, đã sự
bùng nổ của cách mạng kỹ thuật số và công nghệ truyền dẫn
Cáp kỹ thuật số công nghệ đã cho phép các nhà cung cấp cáp nén các kênh video
để họ mất không gian tần số ít hơn cung cấp khác nhau, cách giao tiếp hai khả
năng. Điều này đã cho phép các nhà cung cấp truyền hình cáp kỹ thuật số để cung cấp
nhiều kênh hơn, video về các dịch vụ theo yêu cầu (không sử dụng một đường dây điện
thoại), dịch vụ điện thoại, dịch vụ internet tốc độ cao, các dịch vụ truyền hình tương
tác. Ngoài ra, công nghệ cáp kỹ thuật số cho phép sửa chữa sai sót để đảm bảo chất lượng
của tín hiệu nhận được sử dụng một hệ thống phân phối an toàn kỹ thuật số (nghĩa
một tín hiệu an toàn được mã hóa để ngăn chặn việc nghe trộm và đánh cắp các dịch vụ).
Trung tâm của cuộc cách mạng này sản xuất hàng loạt sử dụng rộng rãi
của logic kỹ thuật số mạch, và các công nghệ dẫn xuất của nó, bao gồm cả các máy tính,
kỹ thuật số điện thoại di động, và máy fax .
Các cuộc cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi hoàn toàn cách cá nhân và các công ty
tương tác. Các công ty nhỏ trong khu vực đã bất ngờ được tiếp cận với các thị trường lớn
hơn nhiều. Những khái niệm như theo yêu cầu dịch vụ công nghệ sản xuất chi phí
giảm nhanh chóng thực hiện đổi mới mới thể trong tất cả các khía cạnh của ngành
công nghiệp và cuộc sống hàng ngày.
Trong truyền thông kỹ thuật số, sự phát triển của công nghệ truyền dẫn bao gồm
cả mạng máy tính, các mạng Internet và phát thanh truyền hình kỹ thuật số, điện thoại
3G , người có thâm nhập xã hội tăng theo cấp số nhân trong những năm 2000, cũng đóng
một vai trò rất lớn trong cuộc cách mạng kỹ thuật số như họ đồng thời cung cấp giải trí
phổ biến, truyền thông, và kết nối trực tuyến.
Ví dụ, phần cứng đã có thể khuếch đại các tín hiệu kỹ thuật số và vượt qua nó trên
không mất thông tin trong tín hiệu. Quan trọng tương đương với cách mạng khả năng
dễ dàng di chuyển các thông tin số giữa các phương tiện truyền thông, truy cập hoặc
phân phối nó từ xa.
Khuynh hướng: sự gia tăng các công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất ngày càng nhiều
kéo theo đó là chất lượng nguồn cung cấp các sản phẩm điện tử ngày càng cao.
Cơ hội: người tiêu dùng được sở hữu nhiều sản phẩm hiện đại, cao cấp hơn.
Kết luận về môi trường toàn cầu:
Cơ hôi:
Tiềm năng thị trường còn nhiều
Cơ hội tham gia vào dây chuyền toàn cầu hóa của ngành điện tử dân dụng
Thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới
Đe dọa:
Cạnh tranh gay gắt trong ngành
Khủng hoảng kinh tế
Đòi hỏi ngày càng khắt khe của người tiêu dùng
Sự bất ổn về giá nguyên liệu đầu vào gây khó khăn trong sản xuất
Môi trường kinh tế
o Tăng trưởng kinh tế
Giai đoạn 2002-2007: Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng trở lại(chấm dứt 15 năm suy thoái
trì trệ). Kinh tế khởi sắc kéo dài kỉ lục liên tục 69 tháng kể từ tháng 2 năm 2002 cho
tới tháng 10 năm 2007, vượt qua con số 57 tháng của thời kì tăng trưởng cao những năm
cuối của thập kỉ 60 thế kỷ 19. Tuy vậy trong khoảng thờigian này, tăng trưởng GDP chỉ
duy trì ở mức 1,5%-2% so với mức 10% thực tế đạt được trong suốt thời tăng trưởng cao
trước đây.
Giai đoạn 2007- quí II 2009: Những khó khăn kinh tế ngày càng chồng chất kể từ cuối
năm 2007: Lạm phát, phá sản thất nghiệp hàng loạt. Ảnh hưởng nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nền kinh tế Nhật Bản đã rơi vào tình trạng xấu nhất
chưa từng thấy kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tất cả các chỉ số kinh tế bản
(sản xuất và xuất khẩu, phá sản, thất nghiệp,thị trường chứng khoán, giảm phát, đồng yên
tăng giá) đều ở mức thấp nhất trong vòng nhiều năm.
Kể từ Quý IV năm 2008, Nền kinh tế Nhật Bản đã suy giảm mạnh và đặc biệt
nghiêm trọng trong quý I/2009. Các số liệu được Văn phòng Nội các Nhật Bản công
bố ngày 20/5/2009 cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong quý I đã giảm 4%
so với quý trước và giảm tới 15,2% so với cùng kỳ năm trước đó. Cũng trong năm này
xuất khẩu Nhật Bản bị chựng lại.
Bước sang năm 2010 kinh tế Nhật nói chung đã lại vươn lên. Nhưng Nhật Bản kém may
mắn. Đến tháng 3/2011 trận động đất sóng thần, kéo theo đó thảm họa Fukushima
khiến cho kinh tế Nhật lại gặp thêm khó khăn. Tuy nhiên, nhờ tiêu thụ nội địa và chi tiêu
công cộng tăng nhanh trong thời gian này vào quý 1 m 2012 với tỉ lệ 23tăng trưởng
GDP 5,7 %. Bước sang quý 2, tỉ lệ tăng trưởng GDP phần bị chậm lại nhưng vẫn
trên số không. Đến Quý 3 thì tổng sản phẩm nội địa Nhật Bản bị giảm mạnh - giảm đến
3,5 %. Hai nguyên nhân chính là thị trường châu Âu và Trung Quốc giảm nhập hàng của
Nhật. Hai ngành nghề bị tác hại mạnh hơn cả xe hơi và điện tử. Tiếp theo đó là đầu
của các doanh nghiệp cũng sụt giảm chi tiêu của các hộ gia đình cũng bị chựng lại.
Chính quyền của Thủ tướng Noda đã thông qua hai gói kích cầu, trị giá 5 8,5 tỉ Euro
để tạo 120.000 công việc làm cho người dân. Nhờ đó nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu có
sự tăng trưởng thực chất, cho dù mức độ của sự tăng trưởng này vẫn còn rất khiêm tốn.
o Lạm phát
Từ năm 2007, tình hình lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Tỷ lệ lạm phát cơ bản
của Nhật Bản đã tăng lên mức cao kỷ lục mới là 1,2% trong tháng 3/2008 trong
bối cảnh giá năng lượng thực phẩm leo thang. Đây mức tăng mạnh nhất
kể từ tháng 3/1998. Năm tài khóa 2007-2008, Nhật Bản có 11.333 công ty phá
sản, tăng18,4% so với năm tài khóa trước, mức cao nhất kể từ năm tài khóa
2000-2001. Vào năm 2009 Nhật Bản lại phải đối phó với tình trạng giảm phát,
mặc dù Ngân hàng Trung Ương Nhật Bản (BOJ) đã hạ lãi suất tới mức rất hấp,
nhưng lạm phát của nước này lại giảm xuống -1,7% và -1,1% trong năm 2010.
Chi tiêu hộ gia đình đã giảm liên tiếp trong vòng 3 tháng qua, do giá xăng dầu,
bánh sữa tăng, khiến người dân phải hạn chế tiêu dùng. Theo quan
thống Nhật, chi tiêu hộ gia đình đã giảm 3,2%, mức lớn nhất kể từ tháng
9/2006. Tỷ lệ thất nghiệp đã ở mức 4%. Điều này tạo ra những nguy cơ rất lớn
cho những doanh nghiệp cả người tiêu dùng của Nhật Bản. Bởi lẽ, khi tỉ lệ
lạm phát cao thì đồng nghĩa với việc chi phí của các doanh nghiệp tăng sức
mua của người tiêu dùng giảm từ đó dẫn tới doanh thu, lợi nhuận của doanh
nghiệp bị giảm và nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng giảm.
o Tỷ giá
Hiện nay, một vấn đề cấp thiết với những doanh nghiệp Nhật bản việc
đồng Yên mạnh. Đồng Yên mạnh được xem một trong những nguyên
nhân khiến các công ty Nhật làm ăn bếtt. Đồng nội tệ của một quốc gia
tăng giá thường làm hàng xuất khẩu của nước đó trở nên đắt đỏ hơn ở nước
ngoài. Cũng trong ngày 31/10, Chính phủ Nhật đã ra quyết định can thiệp
lần thứ 3 trong năm vào thị trường ngoại hối để giảm nhiệt tỷ giá đồng Yên,
hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu của nước này. Cuộc khủng hoảng đối với
ngành điện tử Nhật còn tồi tệ hơn, người Nhật bắt đầu hiểu tại sao nhiều
công ty sản xuất tiviđiện tử của Nhật biến mất trong thập niên 1980 khi
những hàng của Nhật như Sony, Panasonic Toshiba tấn công vào thị
trường Mỹ.
Ngay từ cuối năm 2008, sự lên giá mạnh của đồng Yên so với USD cũng
gây áp lực không nhỏ cho các nhà xuất khẩu Nhật. Nguyên nhân do các nhà
đầu ạt rút vốn về nước lo ngại khủng hoảng tài chính thị trường
bên ngoài đã đẩy đồng Yênng 25% so với USD. Trong suốt năm 2012,
đồng yên Nhật Bản liên tục tăng giá, gây trở ngại cho ngành xuất khẩu.
Trước hiện tượng này nhiều doanh nghiệp đã di dời sở sản xuất ra nước
ngoài.
o Lãi suất
Đây là yếu tố tác động đến cả mức cầu đối với sản phẩm và chi phí vốn của
doanh nghiệp. Đến năm 2008, Nhật Bản vẫn giữ mức lãi suất bản
0,5% bởi mối lo ngại đang gia tăng về nguy tăng trưởng chậm lại của
nền kinh tế toàn cầu cũng như đà sụt giảm tăng trưởng của nền kinh tế Nhật
Bản, do đầu yếu hơn vào thị trường nhà trong nước. Mức lại xuất này
được Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) quyết định giữ nguyên không
tăng từ tháng 02/2007. Quyết định này của Ngân hàng Nhật Bản nhằm duy
trì phần trăm lãi suất trong nước ở mức rất thấp để kích thích nhu cầu trong
nước và tăng trưởng kinh tế. Lãi suất thấp nhưng dù vậy, lạm phát của nước
này trong năm 2007 0,7%, năm 2009 lại giảm xuống -1,7% -1,1%
trong năm 2010. Đến năm 2011, lãi suất của công trái dài hạn của Nhật Bản
chỉ mức 1,3% không một quốc gia công nghiệp phát triển nào lại trả
lãi suất ở mức thấp như vậy. Từ đó, có thể chắc chắn một điều rằng các nhà
đầu nước ngoài sẽ không dại cho Nhật Bản vay tiền với lãi suất
đó. Thế nhưng với tỉ lệ lãi suất từ ngân hàng thấp như vậy thì vấn đề vốn
với các doanh nghiệp Nhật Bản sẽ trở nên dễ dàng hơn bởi họ thể vay
vốn để kinh doanh với mức lãi suất có thể coi là thấp nhất trên thế giới.
Việc hạ lãi suất sẽ có tác động tích cực đầu tiên với ngành ngân hàng bởi nó
giúp giảm nhanh giá vốn, đẩy nhanh hoạt động tín dụng. Đồng thời, tạo
điều kiện cho DN giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh
khả năng cạnh tranh. Lãi suất cho vay thấp luôn động lực khuyến
khích các DN mở rộng đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh
qua đó kích thích tăng trưởng trong toàn bộ nền kinh tế.Việc hạ lãi suất
về mặt thuyết sẽ tác động kép, vừa giúp tăng niềm
tin vào đà tăng của chứng khoán khiến đầu tư chứng khoán sinh lời tốt hơn
trong tương quan với các kênh đầu khác, vừa khiến người gửi tiền giảm
tỷ trọng gửi ngân hàng và tăng tỷ trọng đầu tư.
Nhận xét:
Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế Nhật Bản nhiều thay đổi lớn, đặc
biệt sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảnh kinh tế thế giới năm 2008
thảm họa động đất sóng thần năm 2011 đã làm giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tăng tỷ giá và lạm phát.
Lãi suất tỷ giá hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế các công
cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất tỷ giá luôn mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch định
của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây
ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát “chảy
máu” ngoại tệ, đầu tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu nước ngoài…Vì
vậy, trong quản chính sách lãi suất tỷ giá phải được xử một
cách đồng bộ phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ
nhất định. Lãi suất tỷ giá tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm
chế sự phát triển của các yếu tố trên các yếu tố tác động đến quá trình hình
thành lãi suất tỷ giá kết quả hàng loạt quá trình tương tác khác
nhau. Vai trò, phương thức, cường độ của từng yếu tố lại phụ thuộc vào
môi trường, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước và thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển. Như vậy, s thay đổi của lãi suất tỷ giá tùy thuộc rất nhiều
yếu tố, các yếu tố lại thường đan xen vào nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở một
thời điểm cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ yếu tố nổi bật nguyên nhân làm
thay đổi lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu tố trở thành hệ quả của sự thay đổi
lãi suất tỷ giá. Chính mối quan hệ biện chứng này làm cho việc điều
hành xử mối quan hệ giữa lãi suất tỷ giá trở nên khó khăn, phức
tạp. Vai trò của lãi suất tỷ giá như những công cụ tích cực trong phát
triển kinh tế, đồng thời những công cụ kềm hãm của chính sự phát triển
ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về trong việc sử dụng chúng.
| 1/8

Preview text:

Phân tích môi trường toàn cầu
 Mức độ ảnh hưởng toàn cầu của ngành điện tử dân dụng
Đây là một ngành tương đối quan trọng và hiện đang rất phát triển với các
công nghệ kỹ thuật cao, nhiều tính năng sử dụng. Nó đã bắt đầu đi vào thị
trường từ rất lâu, đã và đang ngày càng hoàn thiện hơn, hiện đại hơn. Hiện
nay nhiều công ty ở Mỹ, Anh, Nhật bản đã nghiên cứu và tìm ra được nhiều
sản phẩm có nhiều tính năng dễ sử dụng hỗ trợ rất nhiều cho công việc nội
trợ, quét dọn trong nhà. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang diễn ra thì
ngành điện tử không tránh khỏi những ảnh hưởng của xu hướng này, có
những thuận lợi cũng như những khó khăn từ môi trường thế giới.
Xu hướng toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các công ty tham gia mạnh hơn vào
nền kinh tế thế giới, các công ty có thể đưa dòng sản phẩm điện tử dân
dụng của mình đến tất cả các nước có nhu cầu sử dụng, hơn nữa việc các
quốc gia khác tham gia vào WTO sẽ giúp các dòng sản phẩm này được lắp
đặt, sử dụng dễ dàng hơn tại nhiều quốc gia, đồng thời giúp các công ty có
cơ hội thâm nhập vào thị trường rộng lớn đầy tiềm năng như châu Á, châu Mỹ.
Trong mười năm đầu của thế kỉ 21, kinh tế thế giới đã chứng kiến tốc độ
toàn cầu hóa sâu rộng và nhanh chóng. Sự hình thành các tổ chức kinh tế
thế giới và khu vực, các khu vực mậu dịch tự do, các hiệp định song
phương và đa phương đã xóa bỏ các rào cản thương mại, rào cản sản xuất
và rào cản về vốn, tăng khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn lực trên
thế giới và gia tăng dòng chảy quốc tế về vốn, hàng hóa và dịch vụ. Toàn
cầu hóa đã thúc đẩy thương mại quốc tế tăng trưởng mạnh, dòng vốn luân
chuyển nhanh và dễ dàng giũa các quốc gia, các khu vực kinh tế.
Các thị trường tài chính chuyển dịch nhanh chóng, giao dịch tài chính vượt
khỏi biên giới quốc gia và làm cho hoạt động đầu tư quốc tế trở nên dễ
dàng hơn bao giờ hết. Các quy định hạn chế của chính phủ đã được dỡ bỏ
tại hầu hết các trung tâm tài chính lớn và người nước ngoài được khuyến
khích đầu tư. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hóa cũng kéo theo mặt trái của.
Sự gắn kết giữa các nền kinh tế càng mạnh thì sự tương tác hay phản ứng
dây chuyền càng lan nhanh và rộng. Tiêu biểu như cuộc khủng hoảng tài
chính xuất phát từ Hoa Kì vào cuối năm 2007. Chỉ trong một ngày sau sự
kiện Lehman Brothers – tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và của Pháp mất
1.4%, chỉ số Nikkei225 của Nhật Bản giảm gần 5%, chỉ số Hang Seng của
Hồng Kong giảm 5.4%, chỉ số chứng khoán của Hàn Quốc mất 6.1%, Đài
Loan mất 4.9% và Thượng Hải mất 4.6%. Tính thanh khoản trên thị trường
tài chính sụt giảm mạnh mẽ, lãi suất Libor trong tháng 10/2008 tăng tới
30% cho thời hạn 1 tháng và 3 tháng, 16% và 12% cho thời hạn 6 tháng và 12 tháng.
Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đang khiến cho toàn cầu
hóa có xu hướng đảo chiều. G7 (nhóm các nước công nghiệp phát triển) và
G20 (nhóm các bộ trưởng tài chính và các thống đốc ngân hàng trung ương
của 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới) theo đánh giá của một số chuyên gia
kinh tế, đã khổng thể đưa ra biện pháp đối phó một cách hiệu quả đối với
cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, ngoài việc mở rộng Quỹ tiền tệ
quốc tế. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng cũng phơi bày những điểm yếu trong liên minh châu Âu.
Sự hợp nhất thông qua các liên doanh liên kết và các sự thâu tóm khác nhau
đã làm nhanh hơn bước chuyển tiếp đến toàn cầu hóa. Chiến lược kinh
doanh, quảng cáo và R&D của các tập đoàn đang chuyển từ tầm quan trọng
ở thị trường nội địa sang các thị trường quốc tế. Kết luận:
Đối với mọi doanh nghiệp mức độ ảnh hưởng của các yếu tố môi trường là
khác nhau. Nhận định đúng các yếu tố ảnh hưởng giúp công ty nhận biết
được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến hoạt động của công ty. Đối
với Sony yếu tố toàn cầu là yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp. Nhận diện được sự thay đổi giúp công ty nhận diện được cơ hội và
đe dọa của môi trường.
 Các khuynh hướng biến đổi của môi trường toàn cầu
Một trong những đặc điểm cơ bản của ngành công nghiệp điện tử thế giới là
tính chuyên môn hóa và toàn cầu hóa: thay đổi cơ cấu sản xuất và phương
thức sản xuất. Theo đó, các công ty, tập đoàn lớn đã không còn “bao sân”
từ A đến Z quá trình sản xuất mà chỉ tập trung vào một số khâu có giá trị
gia tăng cao (tiếp thị, bán hàng…), còn lại họ thuê các công ty khác dưới dạng đấu thầu.
Với sự phát triển này, quá trình sản xuất cũng được phân chia thành nhiều
công đoạn, bố trí mỗi công đoạn ở nhiều quốc gia khác nhau theo yêu cầu
và điều kiện cụ thể, tạo ra một mạng lưới sản xuất sản phẩm điện tử mang
tính toàn cầu. Mạng lưới này cung ứng các dịch vụ sản xuất, linh kiện, phụ
tùng, xây dựng và vận hành các dây chuyền lắp ráp, vận chuyển, phân phối
sản phẩm như một chuỗi khép kín. Các công ty, tập đoàn lớn sử dụng mạng
lưới này để giảm chi phí sản xuất và vận chuyển.
 Khuynh hướng biến đổi ảnh hưởng đến cầu của ngành điện tử dân dụng
Kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục và nhu cầu mua các sản phẩm
điện tử gia dụng gia tăng
Năm 2005, tổng sản phẩm thế giới (GWP) tăng lên 4,6%, dẫn đầu là Trung Quốc (9,3%),
Ấn Độ (7,6%), Nga (5,9%). Kết quả tăng trưởng này có được chủ yếu là do sự tăng
trưởng của các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Đức và đặc biệt là Hoa Kỳ
với sự tăng trưởng mạnh trở lại (3,5%).
Năm 2007, Tổng sản phẩm thế giới (GWP) là 46.770 tỉ USD, tính theo sức mua tương
đương là 65.960 tỉ USD. Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông - Bắc Á chiếm trên 3/4 GWP toàn cầu.
GDP bình quân đầu người là 6.600 USD, tính theo sức mua tương đương là 10.200 USD.
Tổng giá trị xuất khẩu là 12.030 tỉ USD, tổng giá trị nhập khẩu là 11.950 tỉ USD
Năm 2008, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu mà ảnh hưởng của nó
là hết sức mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nửa cuối năm tài khóa
2008 (tháng 10/2008 đến hết tháng 3 năm 2009), tại Nhật Bản có hơn 100 nhà máy lớn bị
đóng cửa, nhiều gấp hơn 4 lần so với giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 9/2008. Đặc biệt
trong các lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị, sản phẩm điện gia dụng, thực phẩm có
nhiều nhà máy buộc phải đóng cửa do tình hình bán hàng kém. Trong đó có cả các hãng
điện tử, thiết bị điện nổi tiếng của Nhật Bản và thế giới. Chẳng hạn như hãng Panasonic
đã quyết định đóng cửa 13 nhà máy, chủ yếu là các nhà máy sản xuất màn hình ti vi sử
dụng trong ô tô; Hãng Juki đóng cửa 4 nhà máy sản xuất phụ tùng máy khâu, Sony đóng
cửa nhà máy sản xuất linh kiện ti vi... Trong số hơn 100 nhà máy bị đóng cửa trong giai
đoạn nói trên, có tới có tới 94 nhà máy bị đóng cửa trong khoảng từ tháng 1 đến hết tháng
3/2009. Các hãng sản xuất đều cho rằng, trong thời gian trước mắt, không thể trông đợi
kinh tế hồi phục và đồng Yên giảm giá. Vì vậy, họ buộc phi cắt giảm đầu tư và nhân
công. Trong quý IV/2008 và quý I/2009, 20 tập đoàn hàng đầu Nhật Bản đã cắt giảm
tổng cộng 87.000 nhân công cả ở trong nước và nước ngoài. Tính tới cuối tháng 3/09, các
tập đoàn này có tổng cộng 2,858 triệu nhân viên, giảm 3% so với cuối tháng 9/2008. Việc
cắt giảm nhân công diễn ra phổ biến trong ngành công nghiệp điện tử, do nhu cầu của thế
giới và giá cả của các mặt hàng điện tử giảm. Trong quý IV/2008 và quý I/2009,
Panasonic đã cắt giảm khoảng 21.000 việc làm, mức cắt giảm lớn nhất trong số 20 tập
đoàn nói trên. Tiếp theo là Sony, với số nhân viên bị sa thải là 14.000. NEC cũng đã cắt
giảm 13.000 nhân công và có kế hoạch cắt giảm thêm ít nhất 7.000 nhân công nữa trong các tháng tiếp theo.
Vài năm trở lại đây, kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, các khu vực bắt đầu tăng trưởng trở
lại nhưng còn khá chậm, châu Âu bắt đầu vực dậy sau suy thoái. Tuy vẫn tồn tại nhiều
nguy cơ thách thức nhưng tình hình kinh tế thế giới trong vài năm tới được dự báo sẽ
sáng sủa hơn. Liên hợp quốc nhận định: với những dấu hiệu cải thiện như hiện nay, tăng
trưởng kinh tế toàn cầu sẽ cải thiện trong vòng hai năm tới và có thể đạt mức 3% trong
năm 2014; 3,3% trong năm 2015, cao hơn so với mức 2,1% trong năm 2013.
Khuynh hướng: Kinh tế thế giới hồi phục nhanh chóng tạo nên sức mua mạnh mẽ từ người tiêu dùng.
Cơ hội: Nhu cầu mua sắm các sản phẩm điện tử gia dụng cũng từ đây mà tăng lên cao,
tạo bước đệm để cho ngành điện tử gia dụng phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai.
 Khuynh hướng biến đổi ảnh hưởng đến cung của ngành điện tử dân dụng
Với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, đã có sự
bùng nổ của cách mạng kỹ thuật số và công nghệ truyền dẫn
Cáp kỹ thuật số công nghệ đã cho phép các nhà cung cấp cáp nén các kênh video
để họ mất không gian tần số ít hơn và cung cấp khác nhau, cách giao tiếp hai khả
năng. Điều này đã cho phép các nhà cung cấp truyền hình cáp kỹ thuật số để cung cấp
nhiều kênh hơn, video về các dịch vụ theo yêu cầu (không sử dụng một đường dây điện
thoại), dịch vụ điện thoại, dịch vụ internet tốc độ cao, và các dịch vụ truyền hình tương
tác. Ngoài ra, công nghệ cáp kỹ thuật số cho phép sửa chữa sai sót để đảm bảo chất lượng
của tín hiệu nhận được và sử dụng một hệ thống phân phối an toàn kỹ thuật số (nghĩa là
một tín hiệu an toàn được mã hóa để ngăn chặn việc nghe trộm và đánh cắp các dịch vụ).
Trung tâm của cuộc cách mạng này là sản xuất hàng loạt và sử dụng rộng rãi
của logic kỹ thuật số mạch, và các công nghệ dẫn xuất của nó, bao gồm cả các máy tính,
kỹ thuật số điện thoại di động, và máy fax .
Các cuộc cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi hoàn toàn cách cá nhân và các công ty
tương tác. Các công ty nhỏ trong khu vực đã bất ngờ được tiếp cận với các thị trường lớn
hơn nhiều. Những khái niệm như theo yêu cầu dịch vụ và công nghệ sản xuất và chi phí
giảm nhanh chóng thực hiện đổi mới mới có thể có trong tất cả các khía cạnh của ngành
công nghiệp và cuộc sống hàng ngày.
Trong truyền thông kỹ thuật số, sự phát triển của công nghệ truyền dẫn bao gồm
cả mạng máy tính, các mạng Internet và phát thanh truyền hình kỹ thuật số, điện thoại
3G , người có thâm nhập xã hội tăng theo cấp số nhân trong những năm 2000, cũng đóng
một vai trò rất lớn trong cuộc cách mạng kỹ thuật số như họ đồng thời cung cấp giải trí
phổ biến, truyền thông, và kết nối trực tuyến.
Ví dụ, phần cứng đã có thể khuếch đại các tín hiệu kỹ thuật số và vượt qua nó trên
không mất thông tin trong tín hiệu. Quan trọng tương đương với cách mạng là khả năng
dễ dàng di chuyển các thông tin số giữa các phương tiện truyền thông, và truy cập hoặc phân phối nó từ xa.
Khuynh hướng: sự gia tăng các công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất ngày càng nhiều
kéo theo đó là chất lượng nguồn cung cấp các sản phẩm điện tử ngày càng cao.
Cơ hội: người tiêu dùng được sở hữu nhiều sản phẩm hiện đại, cao cấp hơn.
Kết luận về môi trường toàn cầu: Cơ hôi:
 Tiềm năng thị trường còn nhiều
 Cơ hội tham gia vào dây chuyền toàn cầu hóa của ngành điện tử dân dụng
 Thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới Đe dọa:
 Cạnh tranh gay gắt trong ngành  Khủng hoảng kinh tế
 Đòi hỏi ngày càng khắt khe của người tiêu dùng
 Sự bất ổn về giá nguyên liệu đầu vào gây khó khăn trong sản xuất
Môi trường kinh tế o Tăng trưởng kinh tế
Giai đoạn 2002-2007: Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng trở lại(chấm dứt 15 năm suy thoái
và trì trệ). Kinh tế khởi sắc kéo dài kỉ lục liên tục 69 tháng kể từ tháng 2 năm 2002 cho
tới tháng 10 năm 2007, vượt qua con số 57 tháng của thời kì tăng trưởng cao những năm
cuối của thập kỉ 60 thế kỷ 19. Tuy vậy trong khoảng thờigian này, tăng trưởng GDP chỉ
duy trì ở mức 1,5%-2% so với mức 10% thực tế đạt được trong suốt thời tăng trưởng cao trước đây.
Giai đoạn 2007- quí II 2009: Những khó khăn kinh tế ngày càng chồng chất kể từ cuối
năm 2007: Lạm phát, phá sản và thất nghiệp hàng loạt. Ảnh hưởng nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nền kinh tế Nhật Bản đã rơi vào tình trạng xấu nhất
chưa từng thấy kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tất cả các chỉ số kinh tế cơ bản
(sản xuất và xuất khẩu, phá sản, thất nghiệp,thị trường chứng khoán, giảm phát, đồng yên
tăng giá) đều ở mức thấp nhất trong vòng nhiều năm.
Kể từ Quý IV năm 2008, Nền kinh tế Nhật Bản đã suy giảm mạnh và đặc biệt
nghiêm trọng trong quý I/2009. Các số liệu được Văn phòng Nội các Nhật Bản công
bố ngày 20/5/2009 cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong quý I đã giảm 4%
so với quý trước và giảm tới 15,2% so với cùng kỳ năm trước đó. Cũng trong năm này
xuất khẩu Nhật Bản bị chựng lại.
Bước sang năm 2010 kinh tế Nhật nói chung đã lại vươn lên. Nhưng Nhật Bản kém may
mắn. Đến tháng 3/2011 trận động đất và sóng thần, kéo theo đó là thảm họa Fukushima
khiến cho kinh tế Nhật lại gặp thêm khó khăn. Tuy nhiên, nhờ tiêu thụ nội địa và chi tiêu
công cộng tăng nhanh trong thời gian này vào quý 1 năm 2012 với tỉ lệ 23tăng trưởng
GDP là 5,7 %. Bước sang quý 2, tỉ lệ tăng trưởng GDP có phần bị chậm lại nhưng vẫn
trên số không. Đến Quý 3 thì tổng sản phẩm nội địa Nhật Bản bị giảm mạnh - giảm đến
3,5 %. Hai nguyên nhân chính là thị trường châu Âu và Trung Quốc giảm nhập hàng của
Nhật. Hai ngành nghề bị tác hại mạnh hơn cả là xe hơi và điện tử. Tiếp theo đó là đầu tư
của các doanh nghiệp cũng sụt giảm và chi tiêu của các hộ gia đình cũng bị chựng lại.
Chính quyền của Thủ tướng Noda đã thông qua hai gói kích cầu, trị giá 5 và 8,5 tỉ Euro
để tạo 120.000 công việc làm cho người dân. Nhờ đó nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu có
sự tăng trưởng thực chất, cho dù mức độ của sự tăng trưởng này vẫn còn rất khiêm tốn. o Lạm phát
Từ năm 2007, tình hình lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Tỷ lệ lạm phát cơ bản
của Nhật Bản đã tăng lên mức cao kỷ lục mới là 1,2% trong tháng 3/2008 trong
bối cảnh giá năng lượng và thực phẩm leo thang. Đây là mức tăng mạnh nhất
kể từ tháng 3/1998. Năm tài khóa 2007-2008, Nhật Bản có 11.333 công ty phá
sản, tăng18,4% so với năm tài khóa trước, mức cao nhất kể từ năm tài khóa
2000-2001. Vào năm 2009 Nhật Bản lại phải đối phó với tình trạng giảm phát,
mặc dù Ngân hàng Trung Ương Nhật Bản (BOJ) đã hạ lãi suất tới mức rất hấp,
nhưng lạm phát của nước này lại giảm xuống -1,7% và -1,1% trong năm 2010.
Chi tiêu hộ gia đình đã giảm liên tiếp trong vòng 3 tháng qua, do giá xăng dầu,
bánh mì và sữa tăng, khiến người dân phải hạn chế tiêu dùng. Theo cơ quan
thống kê Nhật, chi tiêu hộ gia đình đã giảm 3,2%, mức lớn nhất kể từ tháng
9/2006. Tỷ lệ thất nghiệp đã ở mức 4%. Điều này tạo ra những nguy cơ rất lớn
cho những doanh nghiệp và cả người tiêu dùng của Nhật Bản. Bởi lẽ, khi tỉ lệ
lạm phát cao thì đồng nghĩa với việc chi phí của các doanh nghiệp tăng và sức
mua của người tiêu dùng giảm từ đó dẫn tới doanh thu, lợi nhuận của doanh
nghiệp bị giảm và nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng giảm. o Tỷ giá
Hiện nay, một vấn đề cấp thiết với những doanh nghiệp Nhật bản là việc
đồng Yên mạnh. Đồng Yên mạnh được xem là một trong những nguyên
nhân khiến các công ty Nhật làm ăn bết bát. Đồng nội tệ của một quốc gia
tăng giá thường làm hàng xuất khẩu của nước đó trở nên đắt đỏ hơn ở nước
ngoài. Cũng trong ngày 31/10, Chính phủ Nhật đã ra quyết định can thiệp
lần thứ 3 trong năm vào thị trường ngoại hối để giảm nhiệt tỷ giá đồng Yên,
hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu của nước này. Cuộc khủng hoảng đối với
ngành điện tử Nhật còn tồi tệ hơn, người Nhật bắt đầu hiểu tại sao nhiều
công ty sản xuất tivi và điện tử của Nhật biến mất trong thập niên 1980 khi
những hàng của Nhật như Sony, Panasonic và Toshiba tấn công vào thị trường Mỹ.
Ngay từ cuối năm 2008, sự lên giá mạnh của đồng Yên so với USD cũng
gây áp lực không nhỏ cho các nhà xuất khẩu Nhật. Nguyên nhân do các nhà
đầu tư ồ ạt rút vốn về nước vì lo ngại khủng hoảng tài chính ở thị trường
bên ngoài đã đẩy đồng Yên tăng 25% so với USD. Trong suốt năm 2012,
đồng yên Nhật Bản liên tục tăng giá, gây trở ngại cho ngành xuất khẩu.
Trước hiện tượng này nhiều doanh nghiệp đã di dời cơ sở sản xuất ra nước ngoài. o Lãi suất
Đây là yếu tố tác động đến cả mức cầu đối với sản phẩm và chi phí vốn của
doanh nghiệp. Đến năm 2008, Nhật Bản vẫn giữ mức lãi suất cơ bản là
0,5% bởi mối lo ngại đang gia tăng về nguy cơ tăng trưởng chậm lại của
nền kinh tế toàn cầu cũng như đà sụt giảm tăng trưởng của nền kinh tế Nhật
Bản, do đầu tư yếu hơn vào thị trường nhà ở trong nước. Mức lại xuất này
được Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) quyết định giữ nguyên không
tăng từ tháng 02/2007. Quyết định này của Ngân hàng Nhật Bản nhằm duy
trì phần trăm lãi suất trong nước ở mức rất thấp để kích thích nhu cầu trong
nước và tăng trưởng kinh tế. Lãi suất thấp nhưng dù vậy, lạm phát của nước
này trong năm 2007 là 0,7%, năm 2009 lại giảm xuống -1,7% và -1,1%
trong năm 2010. Đến năm 2011, lãi suất của công trái dài hạn của Nhật Bản
chỉ ở mức 1,3% và không một quốc gia công nghiệp phát triển nào lại trả
lãi suất ở mức thấp như vậy. Từ đó, có thể chắc chắn một điều rằng các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ không dại gì cho Nhật Bản vay tiền với lãi suất
đó. Thế nhưng với tỉ lệ lãi suất từ ngân hàng thấp như vậy thì vấn đề vốn
với các doanh nghiệp Nhật Bản sẽ trở nên dễ dàng hơn bởi họ có thể vay
vốn để kinh doanh với mức lãi suất có thể coi là thấp nhất trên thế giới.
Việc hạ lãi suất sẽ có tác động tích cực đầu tiên với ngành ngân hàng bởi nó
giúp giảm nhanh giá vốn, đẩy nhanh hoạt động tín dụng. Đồng thời, tạo
điều kiện cho DN giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh
và khả năng cạnh tranh. Lãi suất cho vay thấp luôn là động lực khuyến
khích các DN mở rộng đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh
và qua đó kích thích tăng trưởng trong toàn bộ nền kinh tế.Việc hạ lãi suất
về mặt lý thuyết sẽ có tác động kép, vừa giúp tăng niềm
tin vào đà tăng của chứng khoán khiến đầu tư chứng khoán sinh lời tốt hơn
trong tương quan với các kênh đầu tư khác, vừa khiến người gửi tiền giảm
tỷ trọng gửi ngân hàng và tăng tỷ trọng đầu tư. Nhận xét:
Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế Nhật Bản có nhiều thay đổi lớn, đặc
biệt là sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảnh kinh tế thế giới năm 2008 và
thảm họa động đất sóng thần năm 2011 đã làm giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tăng tỷ giá và lạm phát.
Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công
cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch định
của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây
ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát “chảy
máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài…Vì
vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một
cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ
nhất định. Lãi suất và tỷ giá tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm
chế sự phát triển của các yếu tố trên các yếu tố tác động đến quá trình hình
thành và lãi suất và tỷ giá là kết quả hàng loạt quá trình tương tác khác
nhau. Vai trò, phương thức, cường độ của từng yếu tố lại phụ thuộc vào
môi trường, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước và thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển. Như vậy, sự thay đổi của lãi suất và tỷ giá tùy thuộc rất nhiều
yếu tố, các yếu tố lại thường đan xen vào nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở một
thời điểm cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ có yếu tố nổi bật là nguyên nhân làm
thay đổi lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu tố trở thành hệ quả của sự thay đổi
lãi suất và tỷ giá. Chính mối quan hệ biện chứng này làm cho việc điều
hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá trở nên khó khăn, phức
tạp. Vai trò của lãi suất và tỷ giá như là những công cụ tích cực trong phát
triển kinh tế, đồng thời là những công cụ kềm hãm của chính sự phát triển
ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về trong việc sử dụng chúng.