










Preview text:
lOMoAR cPSD| 48541417
Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà
nước. Cho biết tại sao cơ quan hành chính nhà nước địa phương đều
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Trả lời I. Khái niệm:
- “Nguyên tắc” được hiểu là những điều cơ nhất thiết phải tuân theo một loạt các việc làm.
- Xem xét ở góc độ của luật hành chính, nguyên tắc của quản lý hành chính là tổng
thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo
làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
*Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước:
- Tập dung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước
và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ
sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này.
- Khoản 1, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận rằng Nhà nước “thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Đây là nguyên tắc đòi hỏi trong tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương vừa phải bảo đảm sự chỉ đạo, lãnh đạo tập
trung, thống nhất của cấp trên với cấp dưới và vừa phải mở rộng dân chủ, phát
huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của cấp dưới.
II. Nội dung nguyên tắc dân chủ tron quản lý hành chính:
- Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực
nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành chỉ đạo việc thực hiện chính sách,
pháp luật một cách thống nhất.
- Bảo đảm tập trung không đồng nghĩa duy trì với sự độc đoán, quan liêu mà cần
phải hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ
tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản
lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật.
- Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố
tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.
- Nếu không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô
chính phủ, cục bộ địa phương. lOMoAR cPSD| 48541417
III. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước:
a. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà
nước cùng cấp:
- Theo Điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân và “Nhân dân thwucj hiện quyền lực nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
- Để thực hiện chức năng QLHCNN trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, một hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương đã được hình
thành. Trong tổ chức và hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự
phụ thuộc vào các cơ quyền lực nhà nước cùng cấp.
+ Trong tổ chức: các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định
trong việc thành lập, sát nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Ví dụ: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định:
Khoản 3 Điều 17 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh: “Phê chuẩn
cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; quyết định
thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ”
Điều 2: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
…Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần
bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở”.
Tập trung còn được thể hiện trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn
chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo
cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 quy định:
Điều 1: “Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,…” lOMoAR cPSD| 48541417
Điều 120: “Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp và Chính phủ.”
+ Trong hoạt động : các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình
với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Bên cạnh đó yếu tố dân chủ thể hiện rõ
nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ
quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn
bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước.
Khoản 1 Điều 94 Luật tổ chức HĐND và UBND quy định nhiệm vụ quyền hạn của
UBND cấp tỉnh như sau: “Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thi hành Hiến pháp, luật,
các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp; tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật ở địa phương”.
b. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà
nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có
sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ. Điều này
được thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:
+ Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và Trung ương đưa ra cấp dưới và địa
phương phải có nghĩa vụ thực hiện.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND, Điều 7: “Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự
chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo
của Chính phủ”. Khoản 7 Điều 17 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp
tỉnh: “Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban
nhân dân cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp huyện”
+ Mặt khác, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương
về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà
nước. Sự phục tùng mệnh lệnh không mang ý nghĩa tuyệt đối, phục tùng vô điều kiện
mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
Cấp trên, trung ương phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ lOMoAR cPSD| 48541417
động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện
được “thẩm quyền cấp mình”. Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt
ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo tự chịu trách nhiệm của địa phương, cấp dưới.
c. Việc phân cấp quản lý:
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí đã có sự phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản
lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực
hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc
phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Phải đảm bảo quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt,
những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của
toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
+ Phải mạnh dạn trao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính
chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản
xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
+ Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế
tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại
cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ
được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải
lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới.
Từ nghị quyết đại hội đảng IX vấn đề phân cấp – phân quyền cho bộ máy nhà nước
đã đặt thành vấn đề cấp thiết và bắt đầu thực hiện trên thực tế, đánh đấu bằng việc
ban hành pháp lệnh thủ đô, Nghị định 93/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày
12/12/2001 “về phân cấp quản lí một số lĩnh vực cho thành phố Hồ Chí Minh”; và
một số động thái khác.
Ở đây cần lưu ý, phân cấp quản lý không phải là phân quyền. Phân quyền là
sự phân chia quyền lực, còn phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp lOMoAR cPSD| 48541417
trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt
động quản lí hành chính nhà nước. Quyền lực vẫn được đảm bảo tập trung vào cấp
trên, trung ương, còn cấp dưới, địa phương được trao một số thẩm quyền mà họ có
thể làm được để giảm bớt gánh nặng phải giải quyết nhiều vấn đề của cấp trên, trung
ương. Cấp trên, trung ương vẫn đảm bảo sự tập trung quyền lực trong việc giao
quyền, thực hiện kiểm tra, thanh tra, xử lí những sai trái trong quản lí hành chính nhà
nước. Điển hình như gần đây, Chính phủ và thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
đã trực tiếp xử lí những sai phạm về quản lí đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Tiên
Lãng, thành phố Hải Phòng trong việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất đối với
đầm nuôi tôm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, ra quyết định cách chức chủ tịch,
phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, bãi bỏ những
quyết định trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân huyện đưa ra đối với trường hợp của
ông Đoàn Văn Vươn. Sự việc này cho chúng ta thấy rằng, trong sự phân cấp quản lí
hành chính nhà nước vẫn đảm bảo tập trung quyền lực vào cấp trên, trung ương. d.
Hướng về cơ sở: -
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên
cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế,
văn hóa xã hội trực thuộc. -
Các đơn vị kinh tế được nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp,
có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được nhà nước hướng
dẫn, giúp đỡ về vật chất và tinh thần. -
Các đơn vị văn hóa – xã hội được nhà nước cung cấp những trang thiết bị cần
thiết để giúp đỡ hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần, nhằm tạo ra những điều
kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả. -
Nhà nước có chính sách và biện pháp xử lí 1 cách thống nhất và chặt chẽ tổ
chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở.
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt là tổ chức
và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Điều này được thể hiện ở việc: -
Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên. Biểu hiện của nó là ở việc Uỷ ban nhân dân trực thuộc Hội đồng nhân dân lOMoAR cPSD| 48541417
cùng cấp hoặc Quốc hội (mối phụ thuộc ngang) và Uỷ ban nhân dân cấp trên hoặc
Chính phủ ( mối phụ thuộc dọc ). -
Đối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp. Chẳng hạn như: Sở tài
nguyên và môi trường của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chịu sự quản lí của
Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ tài nguyên và môi trường. - Nguyên tắc
song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự
thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích
ngành với lợi ích của lãnh thổ. Trong đó, mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết
cho cấp dưới phát huy dân chủ, thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ
được giao, mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước
nhằm chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất.
IV. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước hiện nay:
a. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước:
Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà
nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật
một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối
tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả
năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật.
Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này
trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở
rộng quyền dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tham nhũng phát
triển. Ngược lại không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy
tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung
trên cơ sở là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp 1992 sửa
đổi bổ xung năm 2001). Do đó có thể thấy, trong quản lí hành chính nhà nước, tập
trung – dân chủ có ý nghĩa sau: –
Nguyên tắc tập trung – dân chủ là nguyên tắc cơ bản, đóng vai trò là tưởng chỉ
đạo, xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Trong lOMoAR cPSD| 48541417
quản lí hành chính nhà nước thì nguyên tắc này đảm bảo cho sự tập trung quyền lực
nhà nước vào tay chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách
pháp luật một cách thống nhất, đồng thời nguyên tắc này đảm bảo việc mở rộng
quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí,
phát huy khả năng tiềm tang của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính
sách pháp luật. Từ đó giúp cho công tác quản lí hành chính nhà nước đạt được những
hiệu quả tốt trong việc tăng hiệu quả hoạt động của công tác quản lí hành chính nhà nước. –
Nội dung của nguyên tắc này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy
luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lí xã hội chủ nghĩa, đồng thời nó
phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội chủ nghĩa. –
Thực hiện nguyên tắc tập trung – dân chủ trong cải cách hành chính sẽ đảm bảo
sự thống nhất trong tổ chức và hành động của bộ máy nhà nước, phát huy đồng bộ
và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cơ quan hành chính trung ương lẫn cơ quan
hành chính địa phương, của cả hệ thống bộ máy hành chính và từng tổ chức cấu thành
trong nó trong việc thực hiện các nhiệm vụ do tiến trình cải cách nền hành chính đặt
ra. Ngược lại, nếu xa rời nó, xã hội tất yếu sẽ rơi vào tình trạng hoặc là vô chính phủ,
hoặc là độc đoán chuyên quyền.
Do đó nó không chỉ bác bỏ tình trạng lạm quyền của cấp dưới, mà cả thực tế cơ quan
cấp trên “làm thay”, “lấn sân” vào thẩm quyền cơ quan cấp dưới, đồng thời cũng phải
phủ nhận việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy công việc cho cấp trên, và khuyến
khích cấp dưới tham gia vào việc giải quyết vấn đề chung thuộc thẩm quyền cấp trên,
đề xuất những kiến nghị để giải quyết chúng. –
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước
giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân hoàn thiện hơn, người dân có
thể thực hiện quyền giám sát của mình một các hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm
bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lí. b.
Những ưu điểm và hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc này trong quản lí
hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay: lOMoAR cPSD| 48541417
Về ưu điểm, nguyên tắc tập trung – dân chủ đã được tuân thủ triệt để, toàn diện trong
quản lí hành chính nhà nước ở các khâu tổ chức và hoạt động. Nó tạo điều kiện hiệu
quả trong quản lí hành chính nhà nước. Bằng chứng là việc đất nước đã phát triển
nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội,…Đời sống của nhân dân ngày càng
được nâng cao, chất lượng cuộc sống đã có những cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, việc áp dụng nguyên
tắc này một cách máy móc đang làm cho bộ máy hành chính nhà nước trở nên lạc
hậu, ì ạch, kìm hãm sự phát triển của đất nước, đẩy lùi bước tiến của xã hội. Nó làm
cho cơ quan quản lí hành chính cấp dưới trở nên ỉ lại, lạm quyền, nhũng nhiễu nhân
dân, đòi hối lộ…còn cơ quan quản lí hành chính cấp trên trở nên loay hoay, trên bảo
dưới không nghe, tệ quan liêu tham nhũng tràn lan, chia bè phái trong bộ máy lãnh
đạo, không ai chịu trách nhiệm đối với những sai phạm trong quản lí hành
chính…Điều đó đặt ra vấn đề bức thiết trong việc cải cách hành chính để đảm bảo
tập trung – dân chủ đúng theo ý nghĩa vốn có của nó. c.
Giải pháp hoàn thiện nền hành chính dựa trên nguyên tắc tập trung – dân chủ:
Thứ nhất, cần phải thực hiện mạnh mẽ chỉ đạo của Đảng và Bộ chính trị trong việc
cải cách hành chính, lấy cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá trên tinh thần
tinh giản bộ máy hành chính nhằm giải bớt các khâu trung gian và những cơ quan
hoạt động không hiệu quả. Công khai, minh bạch các thủ tục hành chính để nhân dân
được biết nhằm tránh tệ hách dịch, cửa quyền, xoá bỏ văn hoá “phong bì” đã làm xấu
hình ảnh của bộ máy hành chính nhà nước. Công khai các hoạt động của Chính phủ
và Ủy ban nhân dân trong hoạt động quản lí hành chính trên mọi lĩnh vực để dân biết, dân kiểm tra.
Thứ hai, cần tinh giản biên chế cán bộ, công chức nhà nước làm việc không hiệu quả.
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cũng như đạo đức của cán bộ, công chức để hoạt động
hiệu quả. Tuyển dụng những nhân tài trên mọi lĩnh vực vào làm việc trong bộ máy
hành chính nhà nước theo sự giới thiệu của nhân dân, của cơ quan quyền lực nhà
nước, của Đảng…với chế độ đãi ngộ tốt, giữ vị trí cao trong bộ máy hành chính nhà nước. lOMoAR cPSD| 48541417
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, cải thiện đời sống cho nhân
dân, đặc biệt quan tâm tới đội ngũ cán bộ, công chức để họ ổn định cuộc sống, làm
giàu bằng sự đóng góp xứng đáng của mình, hoàn thành trọng trách cao cả mà nhân dân giao phó.
V . Cho biết tại sao cơ quan hành chính nhà nước địa phương đều được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc:
Cơ quan hành chính nhà nước địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc song trùng trực thuộc vì:
• Đảm bảo tính thống nhất trong quản lý Nhà nước : Nguyên tắc này giúp phân
định rõ ràng giữa cơ quan nhà nước tại địa phương là cấp dưới trực tiếp của
chính quyền địa phương và cấp dưới của cơ quan chuyên môn cấp trên. Điều
này đảm bảo sự thống nhất trong thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tránh chồng chéo, xung đột thẩm quyền.
• Tăng cường tính trách nhiệm trong quản lý: Cán bộ, công chức tại địa
phương phải chịu trách nhiệm trước cả chính quyền địa phương và cơ quan
chuyên môn cấp trên. Việc song trùng trực thuộc tạo ra cơ chế kiểm tra, giám
sát chặt chẽ, giúp hạn chế tình trạng lạm quyền, tham nhũng.
• Nâng cao hiệu quả quản lý: Song trùng trực thuộc cho phép cơ quan hành
chính địa phương được tiếp cận cả hướng dẫn chuyên môn của cơ quan cấp
trên và nhu cầu thực tế tại địa phương. Điều này giúp các quyết định quản lý
phù hợp hơn với đặc điểm và tính chất của từng địa phương, nâng cao hiệu
quả thực thi chính sách.
• Tạo sự cân bằng trong phân quyền: Nguyên tắc này vừa đảm bảo sự phân
cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước tại địa phương, vừa không làm mất
đi sự thống nhất, tập trung của hệ thống chính trị. Cơ quan địa phương vừa
có trách nhiệm với địa phương, vừa có trách nhiệm với cơ quan chuyên môn
cấp trên, tạo nên sự cân bằng trong quyền lực và trách nhiệm. KẾT LUẬN
Tập trung – dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước
và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở
tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Việc vận dụng hiệu quả, hợp lí nguyên tắc tập
trung – dân chủ trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước sẽ tạo lập được một
nền hành chính dân chủ, hiện đại, một nền hành chính năng động trong một thế giới lOMoAR cPSD| 48541417
luôn biến đổi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập quốc tế.
Các cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc song trùng trực thuộc, đảm bảo kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo
ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương. Mối phụ thuộc ngang tạo điều
kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, thế mạnh của địa phương để hoàn thành
nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập
trung quyền lực Nhà nước để chỉ đạo hoạt động cấp dưới, tạo nên một hoạt động
chung thống nhất. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung
của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích của ngành với lợi ích vùng lãnh thổ. lOMoAR cPSD| 48541417