Phân tích nội dung quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật qua các ví dụ cụ thể? (KHTN-Đại học Quốc Gia Hà Nội)

Vì vậy, sản xuất hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử tức là nó chỉ tồn tại khi có cả 2 điều kiện và mất đi khi 1 trong 2 điều kiện đó mất đi.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

1/Phân tích nội dung quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật qua các
ví dụ cụ thể?
Nội dung quy luật lượng chất
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở 1 thể thống nhất bao gồm phần chất và phần lượng. Trong đó
phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có sự biến đổi. Sự
biến đổi này của lương sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong 1 điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, 1 sự vật, hiện tượng sẽ có sự
biến đổi về lượng, đến 1 mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng
và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với 1 lượng mới. Tuy nhiên bản chất của
lượng là vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến 1 thời điểm nào đó nó
sẽ làm phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa 2 mặt lượng và chất tác động với nhau qua 2 mặt: chúng tạo nên sự vận
động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách
khác, lượng biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên
bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói 1 cách ngắn gọn thì nôi dung quy luật lượng chất là bất cứ 1 sự vật, hiện tượng nào cũng đều
vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến 1 mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên
nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất
yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến
đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất
Ý nghĩa trong nhận thức
-Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận
động và phát triển.
-Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại 2 mặt: lượng và chất. Do đó khi nhận thức, ta cần nhận
thức về cả 2 mặt lượng và chất để có cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại
xung quanh ta.
-Cần làm quy luật phát triển của sự vật, hiện ợng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút,
bước nhảy.
Ý nghĩa trong thực tiễn
-Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút).
-Cần tránh 2 khuynh hướng sau:
+Thứ nhất, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không muốn
thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
+Thứ 2, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà 1 cá nhân không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi
về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất.
-Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
-Bước nhảy là 1 giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy 1 cách cẩn thận.
-Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước nhảy 1
cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể tránh được những hậu quả không
đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về
lượng ban đầu.
2/Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật qua các
ví dụ cụ thể?
Nội dung quy luật mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân; giải quyết mâu thuẫn đó
động lực của sự vận động, phát triển; sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng tự
thân. Quá trình từ khác nhau, thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập kết
quả mẫu thuẫn mới trong một sự vật, hiện tượng dạng thống nhất thường trải qua ba giai đoạn
chính, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của mình:
- Giai đoạn 1 (giai đoạn khác nhau): khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu thuẫn
thườngđược biểu hiện ở khác nhau giữa các mặt đối lập.
- Giai đoạn 2 (giai đoạn từ khác nhau chuyển thành mâu thuẫn): trong quá trình vận động,
pháttriển của các mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và bài trừ, phủ định lẫn nhau ở
giai đoạn 1; sự khác nhau chuyển thành mâu thuẫn.
- Giai đoạn 3 (giai đoạn giải quyết mâu thuẫn): khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt với
nhau,nếu điều kiện thì hai mặt đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc triệt tiêu nhau; hoặc cả
hai mặt đó đều bị triệt tiêu; sự vật, hiện tượng chuyển sang chất mới. Mâu thuẫn được giải quyết
với kết quả hai mặt đối lập bị phá huỷ, sự thống nhất giữa hai mặt mới được hình thành cùng
với sự hình thành của mẫu thuẫn mới. Mâu thuẫn này lại được giải quyết làm cho sự vật, hiện
tượng mới luôn xuất hiện thay thế sự vật, hiện ợng cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm
cho sự vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là quan hệ giữa mâu thuẫn biện
chứng với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, trong đó mâu thuẫn giữa các mặt đối lập
là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập tính tạm thời, tương đối, điều kiện, thoáng
qua,nghĩa là sự thống nhất đó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật, hiện tượng.
- Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn
địnhtương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của
sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa
quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực tiễn. Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của
sự vận động, phát triển, có tính khách quan phổ biến.
3/ Phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật của cặp phạm trù qua các ví dụ cụ thể?
Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại,
cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
- Nguyên nhân cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn trước kết quả. Còn kết quả
chỉxuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp
nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biển hiểu hiện mối liên hệ nhân quả.
- Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể.Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động
lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm trí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, thể phân
loạinguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân chủ quan
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
- Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ
độngđối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
- Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một
hiệntượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và
ngược lại.
- Một hiện tượng nào đó kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ
trởthành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết
thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không khâu nào là bắt đầu hay
cuối cùng.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật của cặp phạm trù
Mối liên hệ nhân quả tính chất khách quan tính phổ biên, nghĩa không sự vật, hiện
tượng nào trong thế giới vật chất lại không nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể
nhận thức ngay được nguyên nhân.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn m nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần
tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả
thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này vai trò khác nhau đối với việc
hình thành kết quả.
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. vậy, trong hoạt động thực tiến chúng ta cần phải khai
thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng,
nhằm đạt mục đích.
4/ Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, ý nghĩa phương pháp luận của quy
luật của cặp phạm trù qua các ví dụ cụ thể?
Nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng: cái chung, cái riêng và cái đơn nhất đều tồn
tại khách quan và có mối quan hệ hữu cơ với nhau.Mối quan hệ đó thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua các cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại
của mình. Không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Thứ 2, cái riêng chỉ tồn tại trong quan hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập,
tách rời tuyệt đối cái chung.
Thứ 3, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, vì ngoài những điểm chung, cái riêng
còn có cái đơn nhất.
Thứ 4, cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh thuộc tính,những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất,
quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật của cặp phạm trù
Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái
chung để cải tạo cái riêng.
Khi vận dụng cái chung, phải cá biệt hoá cái chung trong mỗi hoàn cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn phải tạo ra điều thuận lợi để cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển
hoá lẫn nhau nếu có lợi cho con người.
5/Phân tích so sánh phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản
xuất giá trị thăng dư tương đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng Phương pháp sản xuất giá trị thăng
dư tuyệt đối dư tương đối
Cách thức Kéo dài ngày lao động, vượt qua thời Tăng năng suất lao động xã hội-> rút
tiến hành gian lao động tất yếu, hoặc tang cường ngắn thời gian lao động tất yếu-> làm
độ lao động. tang thời gian lao động thăng dư.
Năng suất lao động, thời gian lao động Cường độ lao động, độ dài ngày
lao tất yếu không thay đổi. động không đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Kết quả Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối tạo ra nhiều giá trị thặng dư
hơn so với phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối với cùng quy sản xuất
và thời gian sản xuất.
Cơ sở thưc Dựa vào tang cường độ lao động, Dựa vào sự tăng năng suất lao động, hiện
được áp dụng phổ biến ở giai đoạn chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư đầu của chủ nghĩa
tư bản, khi lao động bản đã phát triển mạnh mẽ, năng suất còn ở trình độ thủ công và năng
suất lao động tang lên nhanh chóng.
lao động còn thấp.
Giới hạn Giới hạn bởi yếu tố thể chất và tinh Không có giới hạn, vì năng suất lao
thần của người lao động. Ngoài ra, do động có thể tăng lên. đấu tranh quyết
liệt của công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không
thể kéo dài vô hạn.
6/Trình bày bản chất của tiền. Vì sao tiền là 1 hàng hóa đặc biệt?
Bản chất của tiền
Giá trị sử dụng của tiền là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu sử dụng làm
vật trung gian trong trao đổi.
Như vậy người ta sẽ dùng đến tiền khi có nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vị.
Giá trị sử dụng của một loại tiền là do xã hội quy định, có nghĩa xã hội còn thừa nhận loại tiền
này còn thực hiện tốt vai trò tiền tệ thì loại tiền đó còn giá trị sử dụng và còn tồn tại. Trên thế
giới, bên cạnh việc xuất hiện các đồng tiền mới thì có những loại tiền cũng biến mất khi không
còn giá trị sử dụng.
-Bản chất của tiền là: là loại hàng hóa đặc biệt, được tách ra từ các hàng hóa nói chung và tiền
làm vật ngang giá chung dùng để trao đổi hàng hóa.
Vì sao tiền là 1 hàng hóa đặc biệt?
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì:
Tiền tệ chỉ xuất hiện khi sản xuất hàng hóa đã phát triển.
Tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của các hình thái giá trị.
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa.
7/ Trình bày lý luận về hàng hóa sức lao động, phân tích vì sao sức lao động là hang hóa
đặc biệt?
Trình bày lý luận về hàng hóa sức lao động
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Phải có sức lao động
mới tạo ra quá trình sản xuất, kinh doanh. Nhưng không phải trong bất điều kiện nào, sức lao
động cũng là hàng hóa.
Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa khi nó mang những điều kiện sau:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động của mình. Chỉ đơn
giản là có sức khỏe, hoặc trình độ, kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu công việc. Họ có quyền bán sức
lao động của mình như một hàng hóa. Những người này làm công nhân, nhân viên và phải chịu
sự quản lý của người thuê họ làm việc.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, họ
trở thành người “vô sản”. Ngoài bán sức lao động, đi làm thuê, họ không khả năng tìm được
công việc tự sản xuất phục vụ đời sống. Để tồn tại, người đó buộc phải bán sức lao động của mình
để kiếm sống. Tức là phải đi làm thuê và làm việc theo yêu cầu.
Thuộc tính của hàng a sức lao động, cũng giống như mọi hàng hóa khác. Hàng hóa sức lao động
cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Yếu tố quyết định giá trị hàng hóa sức lao động:
Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định bởi lượng thời gian lao động cần thiết để sản
xuất tái sản xuất ra sức lao động. Con người thể quen việc, làm nhanh hơn để tạo ra nhiều
sản phẩm hơn. Sức lao động là khả năng lao động gắn liền với cơ thể sống của con người. Qua đó
mang đến hàng hóa với các thuộc tính riêng được phản ánh qua kết quả lao động.
Vì vậy để duy trì sự hoạt động bình thường của con người phải cần có những tư liệu sản xuất nhất
định. Đây các liệu người sử dụng lao động sẵn có. Họ chỉ tham gia vào mục đích giám
sát, quản lý chứ không trực tiếp tham gia lao động.
Do đó giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị những liệu sản xuất cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động gồm có:
Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định một cách gián tiếp thông qua các giá trị tư liệu
sản xuất ra sức lao động. Nhà tư bản tính toán để nhận về các lợi nhuận lớn trong hoạt động kinh
doanh. Bao gồm:
+ Giá trị những tư liệu sản xuất về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy
trì hoạt động sống của bản thân mỗi người công nhân. Để họ thể đảm bảo sử dụng tiền lương
trong nhu cầu cuộc sống.
Ngoài ra còn phí tổn đào tạo người công nhân để trình độ tay nghthích hợp; Đây khác
biệt mang đến mức lương cao hơn.
+ Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cho gia đình người lao động.
Đặc điểm của hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động công cụ của để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng sức
lao động của người sử dụng sức lao động. Giá trị này phản ánh chất lượng, hiệu quả thực hiện
công việc lao động.
Khác với hàng hóa thông thường (sau một thời gian tiêu dùng sẽ mất đi giá trị giá trị sử dụng
theo thời gian) thì hàng hóa sức lao động, khi được tiêu dùng, ngoài việc sản xuất ra một loại hàng
hóa nào đó thì đồng thời nó cũng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đặc
biệt là đối với người lao động tay nghề, trình độ cao. Càng làm việc, lương nhận về của họ càng
cao khi được người sử dụng lao động đánh giá cao.
Phần giá trị lớn hơn đó trong hiệu quả kinh doanh được gọi là giá trị thặng dư. Đây là điểm cơ
bản nhất của hàng hóa sức lao động. Nhà tư bản được nhận các lợi ích lớn trong quá trình quản
lý, định hướng sản xuất, kinh doanh của mình.
Phân tích vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt
Không giống với những loại hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc
biệt. Vì nó được hình thành bởi con người với những nhu cầu phức tạp và đa dạng, về cả vật chất
lẫn tinh thần theo quá trình phát triển của xã hội.
Theo đó, công nhân không chỉ có nhu cầu đáp ứng về vật chất mà còn cần đáp ứng những nhu
cầu về tinh thần như: giải trí, được khuyến khích, được tôn trọng,… Và như một lẽ dĩ nhiên,
những nhu cầu này luôn thay đổi và phát triển theo thời gian và sự phát triển của xã hội.
Cũng chính vì con người là chủ thể của sức lao động, nên việc cung cấp hàng hoá đặc biệt này sẽ
phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của cá nhân với những đặc điểm riêng biệt về: tâm lý, nhận thức,
văn hoá, khu vực địa lý, môi trường sinh hoạt,…
Bên cạnh đó, hàng hoá sức lao động là một loại hàng hoá tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội. Điều
này thể hiện ở chỗ người lao động luôn tạo ra những hàng hoá khác có giá trị lớn hơn giá trị của
sức lao động để đáp ứng nhu cầu và mục tiêu của người sử dụng lao động.
8/Trình bày khái niệm nền sản xuất hàng hóa. Phân tích điều kiện tồn tại cùng các ưu thế
của nền sản suất hàng hóa?
Trình bày khái niệm nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa kiểu
tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi,
mua bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của loài người. Sản xuất
hàng hóa làm xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và làm nâng
cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Phân tích điều kiện tồn tại cùng các ưu thế của nền sản suất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện đó là phân công lao động xã hội có sự
tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Phân công lao động xã hội
Phân công lao động hội chính điền kiện cần cho sản xuất hàng hóa ra đời. Phân công lao
động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động
xã hội tạo sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất.
sở của phân công lao động hội đó là: dựa trên những ưu thế vtự nhiên, thuật, năng khiếu,
sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội
như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.
Phân công lao động có vai trò đó làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân
công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Ngoài ra, phân công lao động xã hội còn làm cho năng suất lao động hội tăng lên, do đó ngày
càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Tuy nhiên, phân công lao động hội mới chỉ điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng
hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ 2.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Bên cạnh điều kiện cần sự phân công lao động xã hội, thì cần phải có điều kiện đủ, đó là phải
có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức những người sản xuất trở thành những chủ thể sự
độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế
hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
3 cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở
hữu khác nhau về liệu sản xuất sự tách rời giữa quyền sở hữu quyền sử dụng đối với
liệu sản xuất quy định.
Trên đây là 2 điều kiện cần và đủ để có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nếu thiếu 1 trong 2 điều
kiện sẽ không có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, sản xuất hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử
tức là nó chỉ tồn tại khi có cả 2 điều kiện và mất đi khi 1 trong 2 điều kiện đó mất đi.
| 1/8

Preview text:

1/Phân tích nội dung quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật qua các ví dụ cụ thể?
Nội dung quy luật lượng chất
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở 1 thể thống nhất bao gồm phần chất và phần lượng. Trong đó
phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có sự biến đổi. Sự
biến đổi này của lương sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong 1 điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, 1 sự vật, hiện tượng sẽ có sự
biến đổi về lượng, đến 1 mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng
và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với 1 lượng mới. Tuy nhiên bản chất của
lượng là vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến 1 thời điểm nào đó nó
sẽ làm phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa 2 mặt lượng và chất tác động với nhau qua 2 mặt: chúng tạo nên sự vận
động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách
khác, lượng biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên
bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói 1 cách ngắn gọn thì nôi dung quy luật lượng chất là bất cứ 1 sự vật, hiện tượng nào cũng đều
vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến 1 mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên
nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất
yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến
đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất Ý nghĩa trong nhận thức
-Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
-Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại 2 mặt: lượng và chất. Do đó khi nhận thức, ta cần nhận
thức về cả 2 mặt lượng và chất để có cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh ta.
-Cần làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy. Ý nghĩa trong thực tiễn
-Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút).
-Cần tránh 2 khuynh hướng sau:
+Thứ nhất, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không muốn
thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
+Thứ 2, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà 1 cá nhân không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi
về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất.
-Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
-Bước nhảy là 1 giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy 1 cách cẩn thận.
-Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước nhảy 1
cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể tránh được những hậu quả không
đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng ban đầu.
2/Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật qua các ví dụ cụ thể?
Nội dung quy luật mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân; giải quyết mâu thuẫn đó
là động lực của sự vận động, phát triển; sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng là tự
thân. Quá trình từ khác nhau, thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết
quả là mẫu thuẫn mới trong một sự vật, hiện tượng ở dạng thống nhất thường trải qua ba giai đoạn
chính, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của mình: -
Giai đoạn 1 (giai đoạn khác nhau): khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu thuẫn
thườngđược biểu hiện ở khác nhau giữa các mặt đối lập. -
Giai đoạn 2 (giai đoạn từ khác nhau chuyển thành mâu thuẫn): trong quá trình vận động,
pháttriển của các mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và bài trừ, phủ định lẫn nhau ở
giai đoạn 1; sự khác nhau chuyển thành mâu thuẫn. -
Giai đoạn 3 (giai đoạn giải quyết mâu thuẫn): khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt với
nhau,nếu có điều kiện thì hai mặt đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc triệt tiêu nhau; hoặc cả
hai mặt đó đều bị triệt tiêu; sự vật, hiện tượng chuyển sang chất mới. Mâu thuẫn được giải quyết
với kết quả là hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất giữa hai mặt mới được hình thành cùng
với sự hình thành của mẫu thuẫn mới. Mâu thuẫn này lại được giải quyết làm cho sự vật, hiện
tượng mới luôn xuất hiện thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm
cho sự vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là quan hệ giữa mâu thuẫn biện
chứng với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, trong đó mâu thuẫn giữa các mặt đối lập
là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực bên trong của sự vận động và phát triển. -
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng
qua,nghĩa là sự thống nhất đó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật, hiện tượng. -
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn
địnhtương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của
sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa
quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực tiễn. Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của
sự vận động, phát triển, có tính khách quan phổ biến.
3/ Phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật của cặp phạm trù qua các ví dụ cụ thể?
Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả -
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả
chỉxuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp
nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biển hiểu hiện mối liên hệ nhân quả. -
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể.Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động
lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm trí triệt tiêu các tác dụng của nhau. -
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loạinguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân chủ quan
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân. -
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ
độngđối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả -
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một
hiệntượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại. -
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ
trởthành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết
thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật của cặp phạm trù
Mối liên hệ nhân quả có tính chất khách quan và tính phổ biên, nghĩa là không có sự vật, hiện
tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể
nhận thức ngay được nguyên nhân.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần
tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả
có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả.
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiến chúng ta cần phải khai
thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
4/ Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, ý nghĩa phương pháp luận của quy
luật của cặp phạm trù qua các ví dụ cụ thể?
Nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng: cái chung, cái riêng và cái đơn nhất đều tồn
tại khách quan và có mối quan hệ hữu cơ với nhau.Mối quan hệ đó thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua các cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại
của mình. Không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Thứ 2, cái riêng chỉ tồn tại trong quan hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập,
tách rời tuyệt đối cái chung.
Thứ 3, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, vì ngoài những điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.
Thứ 4, cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh thuộc tính,những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất,
quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật của cặp phạm trù
Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái
chung để cải tạo cái riêng.
Khi vận dụng cái chung, phải cá biệt hoá cái chung trong mỗi hoàn cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn phải tạo ra điều thuận lợi để cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển
hoá lẫn nhau nếu có lợi cho con người.
5/Phân tích so sánh phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản
xuất giá trị thăng dư tương đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng Phương pháp sản xuất giá trị thăng dư tuyệt đối dư tương đối
Cách thức Kéo dài ngày lao động, vượt qua thời Tăng năng suất lao động xã hội-> rút tiến hành
gian lao động tất yếu, hoặc tang cường ngắn thời gian lao động tất yếu-> làm độ lao động.
tang thời gian lao động thăng dư.
Năng suất lao động, thời gian lao động
Cường độ lao động, độ dài ngày
lao tất yếu không thay đổi.
động không đổi hoặc thậm chí rút ngắn. Kết quả
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối tạo ra nhiều giá trị thặng dư
hơn so với phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối với cùng quy mô sản xuất và thời gian sản xuất. Cơ sở thưc
Dựa vào tang cường độ lao động,
Dựa vào sự tăng năng suất lao động, hiện
được áp dụng phổ biến ở giai đoạn chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư đầu của chủ nghĩa
tư bản, khi lao động bản đã phát triển mạnh mẽ, năng suất còn ở trình độ thủ công và năng
suất lao động tang lên nhanh chóng. lao động còn thấp. Giới hạn
Giới hạn bởi yếu tố thể chất và tinh Không có giới hạn, vì năng suất lao
thần của người lao động. Ngoài ra, do động có thể tăng lên. đấu tranh quyết
liệt của công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn.
6/Trình bày bản chất của tiền. Vì sao tiền là 1 hàng hóa đặc biệt?
Bản chất của tiền
Giá trị sử dụng của tiền là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu sử dụng làm
vật trung gian trong trao đổi.
Như vậy người ta sẽ dùng đến tiền khi có nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vị.
Giá trị sử dụng của một loại tiền là do xã hội quy định, có nghĩa xã hội còn thừa nhận loại tiền
này còn thực hiện tốt vai trò tiền tệ thì loại tiền đó còn giá trị sử dụng và còn tồn tại. Trên thế
giới, bên cạnh việc xuất hiện các đồng tiền mới thì có những loại tiền cũng biến mất khi không còn giá trị sử dụng.
-Bản chất của tiền là: là loại hàng hóa đặc biệt, được tách ra từ các hàng hóa nói chung và tiền
làm vật ngang giá chung dùng để trao đổi hàng hóa.
Vì sao tiền là 1 hàng hóa đặc biệt?
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì:
Tiền tệ chỉ xuất hiện khi sản xuất hàng hóa đã phát triển.
Tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của các hình thái giá trị.
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa.
7/ Trình bày lý luận về hàng hóa sức lao động, phân tích vì sao sức lao động là hang hóa đặc biệt?
Trình bày lý luận về hàng hóa sức lao động
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Phải có sức lao động
mới tạo ra quá trình sản xuất, kinh doanh. Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa.
Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa khi nó mang những điều kiện sau:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động của mình. Chỉ đơn
giản là có sức khỏe, hoặc trình độ, kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu công việc. Họ có quyền bán sức
lao động của mình như một hàng hóa. Những người này làm công nhân, nhân viên và phải chịu
sự quản lý của người thuê họ làm việc.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, họ
trở thành người “vô sản”. Ngoài bán sức lao động, đi làm thuê, họ không có khả năng tìm được
công việc tự sản xuất phục vụ đời sống. Để tồn tại, người đó buộc phải bán sức lao động của mình
để kiếm sống. Tức là phải đi làm thuê và làm việc theo yêu cầu.
Thuộc tính của hàng hóa sức lao động, cũng giống như mọi hàng hóa khác. Hàng hóa sức lao động
cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Yếu tố quyết định giá trị hàng hóa sức lao động:
Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định bởi lượng thời gian lao động cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Con người có thể quen việc, làm nhanh hơn để tạo ra nhiều
sản phẩm hơn. Sức lao động là khả năng lao động gắn liền với cơ thể sống của con người. Qua đó
mang đến hàng hóa với các thuộc tính riêng được phản ánh qua kết quả lao động.
Vì vậy để duy trì sự hoạt động bình thường của con người phải cần có những tư liệu sản xuất nhất
định. Đây là các tư liệu mà người sử dụng lao động sẵn có. Họ chỉ tham gia vào mục đích giám
sát, quản lý chứ không trực tiếp tham gia lao động.
Do đó giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sản xuất cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động gồm có:
Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định một cách gián tiếp thông qua các giá trị tư liệu
sản xuất ra sức lao động. Nhà tư bản tính toán để nhận về các lợi nhuận lớn trong hoạt động kinh doanh. Bao gồm:
+ Giá trị những tư liệu sản xuất về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy
trì hoạt động sống của bản thân mỗi người công nhân. Để họ có thể đảm bảo sử dụng tiền lương
trong nhu cầu cuộc sống.
Ngoài ra còn có phí tổn đào tạo người công nhân để có trình độ tay nghề thích hợp; Đây là khác
biệt mang đến mức lương cao hơn.
+ Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cho gia đình người lao động.
Đặc điểm của hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công cụ của nó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng sức
lao động của người sử dụng sức lao động. Giá trị này phản ánh chất lượng, hiệu quả thực hiện công việc lao động.
Khác với hàng hóa thông thường (sau một thời gian tiêu dùng sẽ mất đi giá trị và giá trị sử dụng
theo thời gian) thì hàng hóa sức lao động, khi được tiêu dùng, ngoài việc sản xuất ra một loại hàng
hóa nào đó thì đồng thời nó cũng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đặc
biệt là đối với người lao động có tay nghề, trình độ cao. Càng làm việc, lương nhận về của họ càng
cao khi được người sử dụng lao động đánh giá cao.
Phần giá trị lớn hơn đó trong hiệu quả kinh doanh được gọi là giá trị thặng dư. Đây là điểm cơ
bản nhất của hàng hóa sức lao động. Nhà tư bản được nhận các lợi ích lớn trong quá trình quản
lý, định hướng sản xuất, kinh doanh của mình.
Phân tích vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt
Không giống với những loại hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc
biệt. Vì nó được hình thành bởi con người với những nhu cầu phức tạp và đa dạng, về cả vật chất
lẫn tinh thần theo quá trình phát triển của xã hội.
Theo đó, công nhân không chỉ có nhu cầu đáp ứng về vật chất mà còn cần đáp ứng những nhu
cầu về tinh thần như: giải trí, được khuyến khích, được tôn trọng,… Và như một lẽ dĩ nhiên,
những nhu cầu này luôn thay đổi và phát triển theo thời gian và sự phát triển của xã hội.
Cũng chính vì con người là chủ thể của sức lao động, nên việc cung cấp hàng hoá đặc biệt này sẽ
phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của cá nhân với những đặc điểm riêng biệt về: tâm lý, nhận thức,
văn hoá, khu vực địa lý, môi trường sinh hoạt,…
Bên cạnh đó, hàng hoá sức lao động là một loại hàng hoá tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội. Điều
này thể hiện ở chỗ người lao động luôn tạo ra những hàng hoá khác có giá trị lớn hơn giá trị của
sức lao động để đáp ứng nhu cầu và mục tiêu của người sử dụng lao động.
8/Trình bày khái niệm nền sản xuất hàng hóa. Phân tích điều kiện tồn tại cùng các ưu thế
của nền sản suất hàng hóa?
Trình bày khái niệm nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu
tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của loài người. Sản xuất
hàng hóa làm xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và làm nâng
cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Phân tích điều kiện tồn tại cùng các ưu thế của nền sản suất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện đó là có phân công lao động xã hội và có sự
tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội chính là điền kiện cần cho sản xuất hàng hóa ra đời. Phân công lao
động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động
xã hội tạo sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất.
Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên, kĩ thuật, năng khiếu,
sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội
như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.
Phân công lao động có vai trò đó là làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân
công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Ngoài ra, phân công lao động xã hội còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do đó ngày
càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng
hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ 2.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Bên cạnh điều kiện cần là sự phân công lao động xã hội, thì cần phải có điều kiện đủ, đó là phải
có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự
độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế
hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Có 3 cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư
liệu sản xuất quy định.
Trên đây là 2 điều kiện cần và đủ để có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nếu thiếu 1 trong 2 điều
kiện sẽ không có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, sản xuất hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử
tức là nó chỉ tồn tại khi có cả 2 điều kiện và mất đi khi 1 trong 2 điều kiện đó mất đi.