-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay | Bài tập nhóm môn Quản lý học
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Quản lý học được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Quản lý học 106 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay | Bài tập nhóm môn Quản lý học
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Quản lý học được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Quản lý học 106 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
--------------------o0o-------------------- BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MARX – LENIN Đề tài số 2:
Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của
nó trong thực tiễn, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh
doanh) ở Việt Nam hiện nay.
HỌ VÀ TÊN: VŨ HUYỀN CHI MÃ SV: 11221095
LỚP: TRIẾT HỌC MARX – LENIN (122)_30 KHÓA: 64
GIẢNG ĐƯỜNG: D204 1 HÀ NỘI – 12/2022 lOMoAR cPSD| 45474828 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………...5
1. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật về ý thức……………………...…………..5 1.1. Nguồn gốc của ý
thức……………………...
…………………….........5
1.1.1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức……………………...……………...5
1.1.2. Nguồn gốc xã hội của ý thức……………………...………………..6 1.2. Bản chất của ý
thức……………………...
……………………............8 1.3. Kết cấu của ý
thức……………………...……………………...……… 8
2. Vai trò của chủ nghĩa duy vật về ý thức trong thựctiễn……………………...9
3. Liên hệ thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam
hiệnnay……….................................................................................................. ...10 3.1.
Xuất phát từ thực tế khách quan đề ra đường lối, phương
hướng phát triển phù hợp với sự nghiệp xây dựng nền kinh
tế nói riêng và Chủ nghĩa Xã hội nói chung ở Việt
Nam ...................................................................10 3.1.1. Thực trạng đất
nước………………………………………………10
3.1.2. Đường lối, phương hướng phát triển rút ra từ thực tế khách quan..11 3.2.
Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ quan duy ý
chí……………………………………………………………………….1 3 2 lOMoAR cPSD| 45474828 3.3.
Một số thành tựu trong quá trình đổi mới ở nước ta…………………..14 PHẦN KẾT
LUẬN……………………………………………………………….15
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….16 3 lOMoAR cPSD| 45474828 PHẦN MỞ ĐẦU
Nhân loại đã và đang có những bước tiến quan trọng trong công cuộc chinh
phục thế giới. Trong sự chuyển biến đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến
đổi vận động. Tuy nhiên, so với thế giới, chúng ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh
tế chậm phát triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn
tồn tại, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế mà việc tìm ra một cách
nghĩ mới, một hướng đi mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước nhà, với khu
vực và thời đại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Do vậy việc vận dụng quan
điểm triết học Marx – Lennin về ý thức trong quá trình đổi mới và phát triển kinh
tế ở nước ta là rất cần thiết.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã từng đi qua những cuộc chiến tranh để bảo vệ
nền độc lập của đất nước. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt
tay vào khôi phục nền kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình này,
chúng ta gặp vô vàn khó khăn những cũng có những điều kiện thuận lợi nhất định.
Trong từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước có những đường lối chiến lược
phát triển đất nước khác nhau. Trên thực tế là nước ta đã đi lên Xã hội Chủ nghĩa
và bỏ qua giai đoạn Tư bản Chủ nghĩa, tại Đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã
khẳng định: “Chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu được quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước
đi cụ thể của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình nước ta”. Đó là, mọi
sách lược, chiến lược cách mạng của chúng ta phải được xuất phát từ thực tế khác
quan, phát huy tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
Trải qua nhiều thay đổi về đường lối quản lý, hiện nay nền kinh tế nước ta đã tìm
được hướng đi đúng mặc dù vẫn còn không ít sai lầm cần phải sửa đổi. Đạt được
những thành tựu như vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã đi từ thực tiễn hoàn cảnh
đất nước mà có được những lý luận đúng đắn để đưa ra những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác
đã và đang gặp phải nhiều khó khăn. Việc phát triển nền kinh tế của một quốc gia
bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, và chúng ta cần học hỏi những kinh nghiệm, bài học
trong lịch sử để áp dụng vào thực tiễn nước ta. Việc vận dụng chủ động và sáng tạo
chủ nghĩa Marx - Lenin và đặc biệt là “Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
về ý thức” trong công cuộc xây dựng đất nước là rất cần thiết. Vì vậy, việc hiểu rõ
mối quan niệm này sẽ giúp mỗi sinh viên, đặc biệt là các sinh viên kinh tế, có thêm
kiến thức nền tảng và thậm chí sâu sắc hơn về quy luật vận động của nền văn minh
xã hội ở Việt Nam cũng như thế giới, từ đó có thể góp một phần sức lực vào sự
nghiệp xây dựng đất nước sau này. Do đó, em quyết định lựa chọn đề tài “Quan
niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức” cho bài tiểu luận của mình. 4 lOMoAR cPSD| 45474828
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, với trình độ hiểu biết còn hạn hẹp,
chắc chắn em không thể tránh khỏi thiếu sót. Em hy vọng sẽ nhận được nhận xét
của các thầy cô để các bài tập tiếp theo của em sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. 5 lOMoAR cPSD| 45474828 PHẦN NỘI DUNG
1. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức 1.1. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
1.1.1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (điều kiện cần)
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức trong đó, hai yếu tố
cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan
tạo nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo. - Về bộ óc người:
Con người là kết quả phát triển lâu dài
nhất của thế giới tự nhiên. Óc người là khí quan vật
chất của ý thức, ý thức là chức năng của bộ óc người.
Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường
và ý thức là không thể tách rời.
Bộ óc con người là nơi sản sinh ra ý
thức, là dạng vật chất có trình độ tổ chức cao nhất (14
tỷ noron thần kinh). Các tế bào này tạo nên nhiều mối
liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển
toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới
bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ
óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ
óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong
phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến
hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực
của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần
của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con
người không bình thường do bị tổn thương bộ óc. 6 lOMoAR cPSD| 45474828
- Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo:
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm
của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng
VD: cầm đất sét ném xuống thì tay còn đất và trên đất có dấu vân tay.
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều
hình thức, trình độ: phản ánh vật lý, hóa học; phản.
Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi
về cơ, lý, hóa (thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý - hóa
qua quá trình kết hợp, phân giải các chất) khi có sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh.
Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có
định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Trong quá trình phát triển lâu dài của
thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của vật chất cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan
hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện phản ánh
sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng
tạo. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến
hóa của các dạng vật chất tự nhiên.
• Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất,
đặc trưng cho vật chất vô sinh. Trong mối quan hệ này, thế giới
khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan
đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
• Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới
tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh,
phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính
kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều
hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi nhận sự
tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần
kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh 7 lOMoAR cPSD| 45474828
qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
• Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật có hệ thần kinh trung ương
được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông qua cơ chế phản xạ có
điều kiện. Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các
hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ
chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá
trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động
lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông
tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.
Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.
1.1.2. Nguồn gốc xã hội của ý thức (điều kiện đủ)
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức; trong đó, cơ bản nhất
và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là quá trình con người tác động vào giới
tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và
phát triển của mình. Lao động cũng là quá trình vừa làm thay
đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm giới tự nhiên bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động, v.v. của
nó qua những hiện tượng mà con người có thể quan sát được.
Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan,
tác động đến bộ óc người và bằng hoạt động của bộ óc, tri
thức nói riêng, ý thức nói chung về thế giới khách hình thành
và phát triển. quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua
hoạt động của các giác quan, tác động đến bộ óc người và
bằng hoạt động của bộ óc, tri thức nói riêng, ý thức nói chung
và thế giới khách quan hình thành và phát triển. - Ngôn ngữ
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu
đã mang tính xã hội. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình
lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, 8 lOMoAR cPSD| 45474828
trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển
ngay trong quá trình lao động. Bản chất ngôn ngữ:
• Ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội.
• Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin
mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
• Ngôn ngữ là hình thức biểu đạt của tư tưởng, là yếu tố quan
trọng để phát triển tư duy và xã hội loài người.
Vai trò ngôn ngữ: nhờ ngôn ngữ, con
người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát,
tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm,
truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời
và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, đã làm
cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho tâm lý động
vật dần dần chuyển hóa thành ý thức. 1.2. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn 9 lOMoAR cPSD| 45474828
lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có,
nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp
nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh còn được thể hiện ở quá trình
con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v. trong đời sống tinh thần
của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư
tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về nội
dung và về hình thức biểu hiện, nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách
quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, v.v.) của con người. Theo C.Marx, ý thức
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sư ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn (và chủ yếu là) của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với
tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. 1.3. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết
với nhau; trong đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí.
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng
các loại ngôn ngữ. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý
thức phát triển. Căn cứ vào lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành nhiều loại
như: tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã hội. Căn cứ vào trình độ phát
triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành: tri thức đời thường và tri thức khoa
học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính, v.v...
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình
thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của
ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con
người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận
thức và thực tiễn. Tùy vào đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về 10 lOMoAR cPSD| 45474828
đối tượng đó mà tình cảm được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như: tình
cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo, v.v...
- Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng
động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý
thức được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực
hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người
đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích
một cách tự giác; nó cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ bản thân và quyết
đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của
ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở
nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Vladimir I. Lenin cho rằng: ý
chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người
trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
2. Vai trò thực tiễn của Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, việc nhận thức đúng đắn quan niệm này giúp cho việc nắm bắt quan
điểm, hoạch định đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức rõ sự đổi
mới trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Khi có xuất hiện mâu thuẫn
giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự lạc hậu của quan hệ sản xuất thì
cần phải ý thức và có những cuộc cải cách, đổi mới mà cao hơn là một cuộc cách
mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn, từ đó từng bước khôi phục, tạo
lập sự phù hợp giữa chúng. Trên cơ sở quan niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
xây dựng nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Tất cả các hoạt động nhận thức
và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát và có thái
độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan. Về căn bản, con người phải tôn trọng,
nhận thức và hành động theo quy luật, cần tôn trọng vai trò quyết định của đời
sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, xã hội. Để thực hiện được,
việc này đòi hỏi trong suy nghĩ và hành động, con người phải bắt nguồn từ hiện 11 lOMoAR cPSD| 45474828
thực khách quan để định rõ mục đích, đưa ra đường lối chiến lược, chủ trương,
chính sách, phương pháp một cách đúng đắn; phải lấy thực tế khách quan làm cơ
sở; phải tìm ra tổ chức và xây dựng những nhân tố vật chất thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa
tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng
kiến thức khoa học, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tích cực học tập, nghiên
cứu để làm chủ tri thức.
3. Liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. 3.1.
Xuất phát từ thực tế khách quan đề ra đường lối, phương hướng phát
triển phù hợp với sự nghiệp xây dựng nền kinh tế nói riêng và Chủ nghĩa Xã hội nói chung ở Việt Nam
3.1.1. Thực trạng đất nước
Thực tế là nước ta đã đi lên Chủ nghĩa Xã hội từ một nền kinh tế thấp. Đó là
tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn khá phổ biến, kỹ thuật
thô sơ, thủ công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hóa còn chưa trở thành phổ biến, thị
trường bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép kín cả trong kinh tế đối ngoại. Ngoài
những yếu tố chủ quan, còn có những yếu tố khách quan dẫn đến tình trạng trì trệ
của nền kinh tế như chiến tranh, bối cảnh quốc tế…Triết học Marx – Lenin cho ta
thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất, thấy rõ tác động qua lại giữa
kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng
định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải. Trước tình hình kinh
tế đó, Đảng và Nhà nước ta đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến
của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế. Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh
nghiệm lớn trong đó có: “Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt
động theo quy luật khách quan”. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước
ngoặt trong sự việc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta.
3.1.2. Đường lối, phương hướng phát triển rút ra từ thực tế khách quan
Đảng đã nhận thức được rằng trước thời kì đổi mới, chúng ta đã xem nhẹ
thực tế phức tạp khách quan của thời kì quá độ, chưa nhận thức đầy đủ rằng thời
kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa là quá lình lịch sử lâu dài và trải qua nhiều chặng
đường. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng
ta đã khẳng định: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có
thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có thể tuần tự vừa có những
bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt 12 lOMoAR cPSD| 45474828
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật
sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và động lực chủ yếu trong phát triển kinh
tế-xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và công nghệ”. Trong thời đại cách
mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận
nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt
Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa bởi nhân tố con người là nhân tố đóng vai trò hết sức quan
trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó, phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đạt tới mức xã hội hóa gắn
liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối. Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Muốn
đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có điều kiện tồn tại và phát triển, chúng ta phải
thừa nhận sự tồn tại một cách tất nhiên và khách quan của các quy luật: quy luật
giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh…trong nền kinh tế. Vì nó là cái khách
quan nên chúng ta phải chú ý không nên đi ngược lại nếu không thì chẳng bao giờ
có thể xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhưng
bên cạnh những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là: phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, nâng cao mức sống, mức thu nhập của người lao động lên thì mặt
trái của nó trong một vài năm trở lại đây đang biểu hiện ngày một rõ nét. Sự chênh
lệch thu nhập dẫn đến phân hóa giàu nghèo trong lao động, tệ nạn quan liêu, tham
nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nước…Trước
thực tế đó, Đảng và Nhà nước cần có những biện pháp phân phối hợp lý, không chỉ
có phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế mà còn phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn nhân lực khác vào sản xất, kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Ngoài ra cần có những biện pháp khuyến khích làm giàu một cách
chính đáng, điều tiết thu nhập, cải cách cơ bản chế độ tiền lương. Đối với người
nghèo và có hoàn cảnh khó khăn cần có chính sách xã hội hợp lý, mặt khác cần kiên
quyết chống những thu nhập bất chính.
Về mặt kiến trúc thượng tầng, chúng ta cũng kế thừa và chọn lọc để xây dựng
nhà nước hiến pháp của xã hội chủ nghĩa điều khiển nền kinh tế thị trường. Để tiến 13 lOMoAR cPSD| 45474828
hành mục tiêu xây dựng thành công Xã hội Chủ nghĩa phải gắn liền với tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội, phải ra sức thực hiện các chính xác xã hội. Đảng ta đã
khẳng định: “Chính xác xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội”, bởi “không có đầu tư nào có lợi như đầu tư cho con người”. Chính sách xã
hộ của Đảng được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống: quan tâm chăm sóc
đối với những người có công với cách mạng, chính sách đền ơn đáp nghĩa…Trong
kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động, cải cách chế độ tiền
lương theo hướn xóa bỏ thu nhập bình quân, tiền tệ hóa tiền lương, khuyến khích
tài năng, đầu tư đúng mức cho các ngành: y tế, giáo dục, văn hóa – nghệ thuật,
nghiên cứu khoa học. Nhưng dù sao đó cũng mới chỉ là những chủ trương, đường
lối với tình hình trong nước. Vậy còn quốc tế thì sao?
Thứ nhất, cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Nước ta một mặt có
cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình
đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội,
khắc phục được những yếu kém để vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp
phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa học
công nghệ vào trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát triển.
Thứ hai, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao
trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng tính cạnh tranh và tính
tùy thuộc nhau giữa các nền kinh tế. Nước ta cũng không thể nằm ngoài vòng xoáy
đó. Vậy chúng ta phải làm thế nào để vừa có thể hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia
vào xu thế toàn cầu lại vừa có thể giữ vững được nền kinh tế độc lập tự chủ? Trước
tiên, ta phải tính đến vai trò của bộ máy nhà nước. Theo chỉ dẫn của Lenin thì bộ
máy nhà nước cần phải vừa mềm dẻo vừa hết sức cứng rắn: “Ngày nay cần có sự
mềm dẻo tối đa, mà muốn thế, muốn ứng biến một cách mềm dẻo thì bộ máy phải
thực sự cứng rắn”. Phải mềm dẻo vì đây là thời kỳ quá độ, biện pháp quá độ. Phải
cứng rắn vì đây là “Cuộc chiến tranh kinh tế”.
Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức, đó cũng là bài học quan trọng của Đảng: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
3.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ quan duy ý chí
Bên cạnh một số chính sách, biện pháp nhằm đưa đất nước ta vững bước
trên con đường Xã hội Chủ nghĩa như đã trình bày ở trên, ta không thể không kể
đến vai trò thúc đẩy sự nghiệp xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tiến nhanh và xa hơn đó là tính năng động, chủ quan, đó là khối đại đoàn kết 14 lOMoAR cPSD| 45474828
toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được Xã hội Chủ
nghĩa trên đất nước Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và
thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề lý
luận và thực tiễn mới mẻ và hết sức phức tạp, gắn bó giữa việc nhận thức quy luật
khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam; là kết quả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ
đến ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn.
Sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại của đông
đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì không thể thực hiện
được những nhiệm vụ trọng đại, khó khăn phức tạp chưa từng có trong lịch sử dân
tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý chí cách mạng hiện nay phải gắn liền với tri
thức, hiểu biết, đặt trên cơ sở khoa học, sự phát triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Không có khoa học, không có sự phát triển mạnh mẽ của nguồn lực trí tuệ thì
không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải quy tụ mọi tài năng
của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc. Phải đứng
ở đỉnh cao và là chỗ kết tinh tài năng ý chí chỉ đạo, bản lĩnh giai cấp và dân tộc, biểu
hiện tinh thần thời đại.
Bước vào thế kỉ XXI, chúng ta tin chắc vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ tổ quốc, tin chắc Chủ nghĩa Xã hội nhất định thành công,
nhất định tiếp tục đi theo con đường đã chọn, dù một thế kỷ hay lâu hơn nữa cũng
không nao núng. Đó phải chăng là sự khẳng định một ý chí lớn, môt niềm tin lớn,
một quyết tâm lớn mà nếu không có thì sẽ không tiếp tục cụ thể hóa và từng bước
đưa vào cuộc sống những điều ghi trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Với ý chí “Quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu” thì không
thể chậm trễ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để nhanh chóng thu
hẹp khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển. 3.3.
Một số thành tựu trong quá trình đổi mới ở nước ta
Với những chủ trương, đường lối trên, Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu trong quá trình đổi mới như:
• Cuộc cải cách giá cả, bao gồm: giá cả hàng hóa, giá lao động (lương bổng),
giá của tiền nội tệ (tỉ giá), hay giá tư bản (lãi suất).
• Ổn định được nền kinh tế vĩ mô. 15 lOMoAR cPSD| 45474828
• Nỗ lực mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
• Thành công trong giảm tỷ lệ đói nghèo.
• Ngoài ra, trong những năm qua, với những chính sách phát triển kinh tế
xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được những bước
tiến rất quan trọng, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, là thành viên của
khối ASEAN, đặc biệt năm 1998 ta đã trở thành thành viên của khối APEC,
và tháng 11/2017 vừa qua ta đã tổ chức thành công Tuần lễ cấp cao APEC
diễn ra tại Đà Nẵng với sự tham gia của hơn 10.000 đại biểu đến từ 21
nền kinh tế thành viên…
Những thành tựu trên đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội và con
đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận
về công cuộc đổi mới, về Xã hội Chủ nghĩa và con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội ở
Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản. Những thành công cơ bản đó cũng là
nhờ sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo Triết học Marx – Lenin vào thực tiễn, mà đặc
biệt là quan niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng. PHẦN KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu, phân tích quan niệm của chủ nghĩa duy vật, ta
thấy vật chất đóng vai trò quyết định đối với ý thức, là cái có trước ý thức, nhưng ý
thức có tính lực năng động tác động trở lại vật chất; thế giới thực chất là vật chất,
vật chất là tồn tại khách quan có trước và quyết định ý thức, còn ý thức là cái có sau
và là sự phản ánh của vật chất, cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Trong hoạt động thực tiễn, nhân tố vật chất là cơ sở để xác định nhân tố cá nhân
các yếu tố tinh thần chỉ có thể hoạt động nếu chúng mang lại sự thống nhất và gắn
kết với các yếu tố vật chất. Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Trong thời kì đổi mới của nước ta, khi chuyển từ tập trung, quan liêu sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Với chủ trương này chúng ta đã giành được
một số thắng lợi to lớn tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu hành
động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó là một vấn đề hết sức khó khăn.
Từ những vấn đề trên ta có thể khẳng định sự xuất hiện và áp dụng của thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với tinh hình nước ta hiện 16 lOMoAR cPSD| 45474828
nay có vai trò vô cùng to lớn. Trải qua bao năm hoạt động, nhà nước đã chứng minh
được tầm quan trọng của mình qua hàng loạt đóng góp quan trọng cho xã hội hiện
nay dù rằng vẫn có những điểm yếu phát sinh trong suốt quá trình hoạt động và
quản lý. Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế đạt được sau 30 năm nỗ lực đổi mới
đã chứng minh được sự trưởng thành trong việc quản lí và cơ chế hoạt động của
nền kinh tế của nhà nước. Có thể trong một tương lai không xa, với những thay đổi
cần thiết nhà nước ta sẽ ngày càng hoàn thiện về chất, làm bệ đỡ kinh tế đất nước ta đi lên.
Với tư cách là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, em tự thấy
được trách nhiệm của mình cần phải gắng học tập, chủ động nghiên cứu, tích cực
tu bổ đạo đức, rèn luyện bản thân và hăng say cống hiến trí tuệ cũng như sức lực
mình vào công việc chung để trong tương lai có thể góp phần phát triển nền kinh tế
đất nước, biến giấc mơ sánh ngang với các cường quốc năm châu của nhân dân Việt Nam thành hiện thực. 17 lOMoAR cPSD| 45474828
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lýluận
chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia Sự Thật.
2. Tạp chí Triết học, số 3, năm 2001.
3. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IV.
4. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V.
5. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX.
6. V.I. Lênin (1997), toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
7. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
ởViệt Nam. - PGS.TS Đặng Quang Định, Báo điện tử Tạp chí Cộng Sản, 18/7/2021
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-sovan-
de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chunghia- o-viet-nam.aspx
8. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Namvà
định hướng xây dựng... - TS. Nguyễn Văn Cương, Báo điện tử Bộ Tư Pháp, 26/11/2021
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2611
9. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam -
GS.TSNguyễn Quang Thuấn, Báo điện tử Tuyên giáo Tạp chí của Ban Tuyên
giáo Trưng ương, 20/1/2022
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-trien-kinh-te-thi-truong-
dinhhuong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-137544
10. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta – Báo điệntử
Đảng bộ và khối cơ quan doanh nghiệp tỉnh Hà Tình, PGS. TS. Vũ Văn Phúc, 16/10/2020 18 lOMoAR cPSD| 45474828
https://dukcq.hatinh.gov.vn/tk-xh-qp-an/thuc-tien-phat-trien-kinh-te-thi-
truongdinh-huong-xhcn-o-nuoc-ta-165.html 19