-
Thông tin
-
Quiz
Phương pháp học tập cá nhân - Sinh viên đại học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Ghi chép là cách thức sinh viên lưu giữ lại các thông tin kiến thức của bàihọc trên lớp hoặc tổng hợp lại từ việc đọc sách tài liệu giáo trình thông qua việc ghi lại vào vở sổ theo những kỹ thuật ghi chép cụ thể hoặc cách thức riêng của bản thân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Sinh viên đại học 45 tài liệu
Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Phương pháp học tập cá nhân - Sinh viên đại học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Ghi chép là cách thức sinh viên lưu giữ lại các thông tin kiến thức của bàihọc trên lớp hoặc tổng hợp lại từ việc đọc sách tài liệu giáo trình thông qua việc ghi lại vào vở sổ theo những kỹ thuật ghi chép cụ thể hoặc cách thức riêng của bản thân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Sinh viên đại học 45 tài liệu
Trường: Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Thủ đô Hà Nội
Preview text:
2. Phương pháp học tập cá nhân 2.1 phương pháp ghi chép
Ghi chép là cách thức sinh viên lưu giữ lại các thông tin kiến thức của bài
học trên lớp hoặc tổng hợp lại từ việc đọc sách tài liệu giáo trình thông
qua việc ghi lại vào vở sổ theo những kỹ thuật ghi chép cụ thể hoặc cách
thức riêng của bản thân Chuẩn bị :
+ bút viết, nhiều loại bút ghi với các màu mực khác nhau, chuẩn bị bút nhớ dòng và bút dạ + thước kẻ
+ sử dụng loại vở khổ a4, không nên sử dụng các loại sổ sách nhỏ ( sổ
sách nhỏ phù hợp việc liệt kê, ghi chép các công việc cần làm)
+ chuẩn bị giấy note nhiều màu
Một số kĩ thuật ghi chép + PP dàn ý + PP đóng hộp + PP tạo bảng + PP sketchnote + PP sơ đồ tư duy + PP the cornell notes
+ Kỹ thuật “ hỏi , trả lời, dẫn chứng”
+ PP ghi chép của Takashi Ishi
2.2 Phương pháp tìm kiếm, tra cứu thông tin
Cách thức tìm kiếm tra cứu thông tin
- Tra cứu thông tin trên mạng internet
- Tra cứu, tìm kiếm thông tin từ sách vở, tạp chí, tài liệu
- Tìm kiếm thông tin từ người quen
2.3 Phương pháp đọc sách hiệu quả *Kỹ thuật đọc sách
- Xác định tốc độ đọc
+ Cách tính số lượng từ đọc mỗi phút: Số từ đã đọc : số phút đọc = số từ mỗi phút
+ Cách tính hiệu quả đọc : chỉ số tmp x phần trăm đọc hiểu( chuyển sang số thập phân )= hqd
- Một số cách cải thiện kỹ năng đọc nhanh + Đọc có mục tiêu
+ Tập trung tinh thần cao đọ vào việc đọc +Tư thế đọc
+ Môi trường đọc thoải mái, thoáng đãng yên tĩnh,..
- Một số chỉ dẫn quan trọng cho mắt và tay khi đọc sách
+ không nên để mắt phải đọc theo từng từ từng dòng mà hãy tập trung
vào các từ khóa cụm từ cấu trúc mang nội dung quan trọng
+ hãy để ý đến tiêu đề các chương các đề mục, phần in đậm, gạch chân, in nghiêng
+ điều khiển mắt linh hoạt khi đọc
+ di chuyển tay, bút nhanh theo dòng trên tài liệu * Quy trình đọc sách
-B1: lựa chọn sách phù hợp với nội dung học tập. Bước này có thể được
bỏ qua khi sinh viên đọc những tài liệu tham khảo bắt buộc do môn học giáo viên quy định
-B2: Tổ chức quá trình đọc sách
+ Đọc lướt nhanh đặc biệt chú trọng phần mở đầu, mục lục, tên chương danh mục từ viết tắt
+ Đọc kĩ từng phần, đọc trọn vẹn, trong quá trình này có thể kết hợp với
ghi chép, đánh dấu để nhớ những ý quan trọng cần thiết cho việc học
+ Trả lời các câu hỏi trong sách nếu có
-B3: Tổng quát quá trình đọc sách
Đúc rút ra những kết quả thu nhận được qua việc đọc, đánh giá, nhận
định về nội dung sách, tài liệu
2.4 Phương pháp viết bài tiểu luận
Bài luận là bài viết trình bày quan điểm, nghiên cứu của cá nhân theo một
chủ đề, chủ điểm nhất định có liên quan đến một lĩnh vực học phần cụ thể
Chủ đề của bài tiểu luận phụ thuộc vào học phần và giảng viên, thầy cô
có thể đưa ra các chủ đề tiểu luận cố định hoặc đưa ra nhiều vấn đề để sinh viên lựa chọn
Trong trường hợp, khuyến khích cá nhân, tính sáng tạo: thầy cô sẽ cho
người học tự do thiết kế chủ đề tiểu luận( tuy nhiên, chủ đề tiểu luận phải
được sự kiểm tra trước của giảng viên, để đảm bảo chủ đề được đặt tên
phù hợp với chuyên ngành, lĩnh vực chuyên môn).
* Những lưu ý khi viết bài tiểu luận
- Về dung lượng bài viết: không viết quá dài quá lan man cũng như không
viết sơ sài,vắn tắt. Tùy theo chủ đề, học phần thầy cô sẽ có những yêu cầu
riêng cho dung lượng của các bài tiểu luận
- Cần chú ý định dạng font chữ, cách thức căn lề giãn dòng
3. Phương pháp học tập theo nhóm
3.1 Định nghĩa và vai trò của PP học nhóm * Định nghĩa:
Học nhóm trong sinh viên là cách thức học tập của nhóm người có sự
phối hợp thống nhất chặt chẽ với nhau để cùng nhận dạng, phân tích và
luận giải các vấn đề học tập đặt ra, từ đó lĩnh hội, củng cố và mở rộng
kiến thức đã được học và vận dụng chúng trong quá trình thi- kiểm tra đạt kết quả cao * Vai trò
- Rèn cho sv khả năng hợp tác, chia sẻ; bồi dưỡng, phát triển tư duy nâng cao trình độ tri thức
- Phát huy khả năng tư duy trí tuệ của từng cá nhân và cả nhóm
- Lĩnh hội tri thức chắc hơn, lâu hơn
- Học hỏi cách thức, phương pháp, kinh nghiệm học tập của các thành viên khác * Ưu điểm
- Góp phần xây dựng tinh thần đồng đội và các mối quan hệ tương hỗ
đồng thời thúc đẩy sự tích cực học tập của cá nhân
- Tăng khả năng hòa nhập có thêm tinh thần học hỏi và biết lắng nghe người khác
- Tập hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân
- Rèn luyện khả năng thuyết trình , kỹ năng giao tiếp và tính tự giác của mỗi cá nhân * Hạn chế
- Có thể gây ồn trong lớp và khó kiểm soát
- Nhiều sv không thích học theo nhóm
- Trong nhóm có 1 số sinh viên tích cực, một số khác ỷ lại
- Việc phân nhóm khó khăn mất nhiều thời gian
3.4 Phương pháp thiết lập và tổ chức học nhóm
Thiết lập nhóm => thực hiện hoạt động nhóm => báo cáo sản phẩm và rút
kinh nghiệm hoạt động nhóm
CHƯƠNG 3. KỸ NĂNG CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Mục tiêu chương:
- Nắm vững và trình bày được khái niệm kỹ năng, kỹ năng mềm, kỹ năng cứng, kỹ năng sống
- Nhận biết được cơ sở khoa học của việc huấn luyện kỹ năng.
- Phân biệt rõ ràng các loại kỹ năng.
- Giải thích được tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong sự nghiệp và trong cuộc sống.
- Rèn luyện những kỹ năng cần thiết đối với sinh viên Đại học
3.1. Khái quát về kỹ năng
3.1.1. Một số khái niệm cơ bản
3.1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Theo từ điển Giáo dục học, kỹ năng là: “Khả năng thực hiện đúng hành
động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành
hành động ấy cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ”.Trên
bình diện của Tâm lý học, có hai quan điểm khác nhau về kỹ năng:
Thứ nhất, xem kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động, coi kỹ năng
như một phương tiện thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều
kiện hành động mà con người đã nắm vững, không cần quan tâm đến kết
quả: “Kỹ nănglà cách thức cơ bản để chủ thể thực hiện hành động, thể hiện
bởi tập hợp những kiến thức đã thu lượm được, những thói quen và kinh nghiệm”.
Thứ hai, xem kỹ năng là biểu hiện của năng lực con người, coi kỹ năng là
năng lực thực hiện một công việc kết quả với chất lượng cần thiết, trong một
khoảng thời gian cụ thể: Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn,
Trần Quốc Thành, Trần Thị Quốc Minh cho rằng: “Kỹ năngmột mặt của
năng lực con người thực hiện một công việc có kết quả”.
Trên cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiếu khái niệm kỹ năng như
sau:“Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng
cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù
hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ đơn thuần về mặt kỹ
thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của con người”.
Kỹ năng là giai đoạn trung gian giữa việc nắm vững cách thức mới thực
hiện hành động, dựa trên cơ sở của tri thức và sự vận dụng đúng những tri
thức tương xứng trong quá trình hoàn thành các bài tập, nhưng chưa đạt tới mức độ kỹ xảo
3.1.1.2. Khái niệm kỹ năng mềm a. Khái niệm
Bên cạnh thuật ngữ “kỹ năng sống” được phổ biến một cách rộng rãi trong
lĩnh vực giáo dục và xã hội thì thuật ngữ “kỹ năng mềm” (Soft Skills) cũng
là một trong những vấn đề được quan tâm - nhất là các đối tượng đang
chuẩn bị cho quá trình lập thân - lập nghiệp. Ngày nay, trình độ học vấn và
bằng cấp chưa đủ để quyết định trong việc tuyển dụng lao động của nhiều doanh nghiệp và người
sử dụng lao động. Họ còn căn cứ vào yếu tố cá nhân như sự nhạy bén khi xử
lý công việc và giao tiếp của mỗi người lao động, các yếu tố này được người
ta gọi là “kỹ năng mềm”.
Có khá nhiều quan niệm khác nhau hay định nghĩa khác nhau về kỹ năng
mềm tuỳ theo lĩnh vực nghề nghiệp, góc nhìn chuyên môn, ngữ cảnh phát
biểu và thậm chí là việc đặt thuật ngữ này bên cạnh những thuật ngữ
nào.Hiểu một cách đơn giản kỹ năng mềm là những kỹ năng con người tích
luỹ được để làm cho mình dễ dàng được chấp nhận, làm việc thuận lợi và đạt được hiệu quả.
Theo tác giả D.M. Kaplan thì kỹ năng mềm là những kỹ năng mà con người
có được ngoài yếu tố chuyên môn và sự chuyên nghiệp xét trên lĩnh vực
công việc. Đó còn được xem là biểu hiện của trí tuệ cảm xúc của con người,
thể hiện khả năng tinh thần của cá nhân. Nói cách khác, kỹ năng mềm thể
hiện sự tồn tại và vận dụng một cách hiệu quả những đặc điểm của cá nhân
như: thân thiện, vị tha, biết chấp nhận người khác...
Một vài tác giả khác như E.A. Leutenberg, J.J. Liptak lại cho rằng kỹ năng
mềm là những kỹ năng không liên quan trực tiếp đến kiến thức chuyên môn
của nghề nghiệp đang sở hữu mà nó thể hiện cái riêng về mặt cá tính của cá
nhân trong công việc và trong mối quan hệ với người khác.
Tác giả Forland, Jeremy cho rằng kỹ năng mềm là một thuật ngữ thiên về
mặt xã hội để chỉ những kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp, khả năng hoà nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử hiệu quả
trong giao tiếp giữa người với người. Nói khác đi, đó là kỹ năng liên quan
đến việc con người hoà mình, chung sống và tương tác với cá nhân khác,
nhóm, tập thể, tổ chức và cộng đồng.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằngkỹ năng mềmlà thuật ngữ dùng để chỉ
các kỹ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc (EQ) của con người như: một số nét
tính cách (quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và
đổi mới), sự tế nhị, kỹ năng ứng xử, thói quen, sự lạc quan, chân thành, kỹ
năng làm việc theo nhóm… Đây là những yếu tố ảnh hưởng đến sự xác lập
mối quan hệ với người khác. Những kỹ năng này là những thứ thường
không được học trong đơn vị, không liên quan đến kiến thức chuyên môn,
không thể sờ nắm, nhưng không phải là kỹ năng đặc biệt mà phụ thuộc chủ
yếu vào cá tính của từng người. Kỹ năng mềm quyết định bạn là ai, làm việc
thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc.
Như vậy, có thể nói có khá nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng mềm,
trong đề tài này tác giả sử dụng định nghĩa kỹ năng mềmnhư sau: Kỹ năng
mềm là những kỹ năng không liên quan trực tiếp đến kiến thức chuyên môn
mà thiên về mặt tinh thần của mỗi cá nhân nhằm đảm bảo cho quá trình
thích ứng với người khác, công việc nhằm duy trì tốt mối quan hệ tích cực
và góp phần hỗ trợ thực hiện công việc một cách hiệu quả. b. Đặc điểm
Việc xác lập định nghĩa về kỹ năng mềm là một việc làm hết sức khó khăn,
vì vậy phân tích các đặc điểm của kỹ năng mềm càng không phải là vấn đề
đơn giản. Tuy vậy, có thể nhấn mạnh đến những đặc điểm cơ bản sau:
- Kỹ năng mềm không phải là yếu tố thuộc về bẩm sinh của con người. Kỹ
năng mềm không phải là sự “chín muồi” của những tố chất, hay cũng không
hẳn là sự “phát sáng” theo kiểu bẩm sinh đã có kỹ năng mềm ấy ở chủ thể
mà tất cả đều phải trải qua sự nỗ lực, tập luyện và phát triển một cách đích
thực, có biện pháp và phương pháp của chủ thể.
- Kỹ năng mềm không phải chỉ là biểu hiện của trí tuệ cảm xúc. Ở một vài
định nghĩa đã đề cập cũng như quan điểm của một số tác giả, kỹ năng mềm
liên quan chặt đến khả năng tương tác với người khác, vì vậy họ mặc nhiên
xem rằng đây là biểu hiện của chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional
Quotient). Theo tôi, nếu kỹ năng mềm là biểu hiện của trí tuệ cảm xúc thì
việc sử dụng khái niệm trí tuệ cảm xúc lại rất bao quát và đầy đủ thì không
nhất thiết phải sử dụng thêm thuật ngữ kỹ năng mềm.Mỗi cá nhân đều có trí
tuệ cảm xúc, nhưng trí tuệ cảm xúc đó phải đạt đến một mức độ cụ thể nào
đó mới có thể được gọi là kỹ năng. Vì vậy không thể đồng nhất hai khái
niệm kỹ năng mềm và trí tuệ cảm xúc.
- Kỹ năng mềm được hình thành bằng con đường trải nghiệm đích thực chứ
không phải là sự “nạp” kiến thức đơn thuần. Có thể nhận ra rằng việc con
người được rèn luyện ở một nghề nghiệp thì ngoài những yêu cầu về đạo
đức nghề nghiệp thì các kỹ năng nghề theo mô hình thao tác nghề nghiệp
nhằm đạt được sản phẩm luôn được ưu tiên. Cũng chính vì vậy, những kỹ
năng cơ bản và đặc trưng của nghề nghiệp thường được ưu tiên đào tạo và
phát triển. Thực tế cho thấy, những kỹ năng hỗ trợ cho nghề hoặc tạo điều
kiện để vận dụng những kỹ năng mang tính thao tác ấy lại có thể bị bỏ rơi
hoặc bỏ quên. Vì vậy, sự thiếu hụt kỹ năng mềm ở SV và người lao động đã
diễn ra. Thông thường, kỹ năng mềm thường khó khăn hơn để có được vì
tính chất đặc thù của nó trong mối quan hệ với con người và hoàn cảnh.
- Kỹ năng mềm không thể “cố định” với những ngành nghề khác nhau. Mỗi
ngành nghề khác nhau sẽ có một mô hình kỹ năng nghề khác nhau. Chính
trong việc xác định kỹ năng nghề thì những kỹ năng cơ bản và đặc trưng
mang tính chuyên môn - nghiệp vụ và những kỹ năng mềm cũng chưa được
phân định rạch ròi. Nhưng một thực tế không thể phủ nhận là ở mỗi một
nghề nghiệp sẽ có những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản và những kỹ năng hỗ
trợ nghề nghiệp theo hướng giúp chủ thể nghề nghiệp thích ứng - thích nghi,
dễ hoà nhập với môi trường mang tính “xã hội”, chủ động và linh hoạt để
vận dụng - triển khai kỹ năng nghề nghiệp đó chính là kỹ năng mềm. Vì thế,
mỗi nghề nghiệp khác nhau không thể có những kỹ năng mềm giống nhau. c. Phân loại
Khi có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng mềm thì sẽ có những cách
phân loại kỹ năng mềm khác nhau. Điểm qua sự phân loại từ nhiều tài liệu
nghiên cứu, có thể nhận thấy hướng phân loại cơ bản về kỹ năng mềm
hướng liệt kê các kỹ năng mềm gắn chặt với các kỹ năng lao động chuyên
nghiệp, kỹ năng làm việc để thành công.
Theo Bộ lao động Mỹ (The US Department of Labour) cùng với Hiệp hội
Đào tạo và phát triển Mỹ (The American society of Training and
Development) đã nghiên cứu và đưa ra 13 kỹ năng để thành công trong công
việc và những kỹ năng mềm là trung tâm: kỹ năng học và tự học; kỹ năng
lắng nghe; kỹ năng thuyết trình; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng tư duy
sáng tạo; kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn; kỹ năng xác lập mục
tiêu/ tạo động lực làm việc; kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp; kỹ
năng giao tiếp và tạo lập quan hệ; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng thương
lượng; kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả; kỹ năng lãnh đạo. Tài liệu “kỹ
năng hành nghề cho tương lai” xuất bản năm 2002 tại Úc với sự tham gia
của nhiều tổ chức chuyên môn thì cho rằng, có 8kỹ năng mềm sau: kỹ năng
giao tiếp; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng sáng
tạo và mạo hiểm; kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc; kỹ năng quản
lý bản thân; kỹ năng học tập ; kỹ năng về công nghệ.
Nhìn chung, đây là hướng phân tích kỹ năng mềm theo một số lượng nhất
định có thể gia giảm theo từng nghề nghiệp và công việc khác nhau. Rõ
ràng, trong những kỹ năng đã nêu như phần đặc điểm tác giả đã đề cập, có
những kỹ năng trở thành kỹ năng nghề nghiệp của một số nghề nghiệp nào đó.
Ở Việt Nam, việc phân loại kỹ năng mềm cũng được quan tâm nhưng cũng
chỉ dừng ở mức liệt kê thành những kỹ năng đơn lẻ tuỳ theo hướng nghiên
cứu, lĩnh vực nghề nghiệp và cả kinh nghiệm của cá nhân. Tuy vậy, những
kỹ năng mềm được quan tâm nhất vẫn là những kỹ năng làm việc với con
người và kỹ năng làm hạn chế những thói quen làm việc cảm tính và thiếu
sự chuyên nghiệp. Những kỹ năng mềm thường được quan tâm như: kỹ
năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng quản
lý thời gian, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
thiết lập quan hệ xã hội...
3.1.1.3. Khái niệm kỹ năng cứng
Kỹ năng cứng (KNC) thường được hiểu là những kiến thức, đúc kết và thực
hành có tính chất kỹ thuật nghề nghiệp. KNC được cung cấp thông qua các
môn học đào tạo chính khóa, có liên kết logic chặt chẽ, và xây dựng tuần tự.
Thời gian để có được KNC thường rất dài, hàng chục năm, bắt đầu từ những
kiến thức kỹ năng cơ bản ở nhà trường phổ thông qua các cấp như: Tư duy
hình học, tư duy ngôn ngữ - văn phạm, các hệ thống khái niệm lý thuyết cơ
bản vật lý hóa học sinh học toán học... và những kiến thức kỹ năng này được
phát triển dần lên các mức độ cao hơn, thông qua giảng dạy, thực hành và tự
học một cách hệ thống.
Như vậy, thời gian để có được KNC thường rất dài và bắt buộc mỗi người
phải trải qua những giai đoạn có tính hệ thống của tư duy logic. Mặt khác,
mỗi người phải trải qua qua trình rèn luyện dài, vất vả và đi kèm với những
kì thi chuyên môn, tay nghề để khẳng định sự thành thạo về chuyên môn của
mình. KN cứng thường xuất hiện trên bản lý lịch về khả năng học vấn, kinh
nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn của mỗi con người.
Tóm lại, KNC là KN nghề nghiệp thể hiện qua trình độ học vấn hay bằng
cấp và chứng chỉ, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn của mỗi người. 3.1.1.4. Kỹ năng sống a. Khái niệm
Theo Từ điển Bách khoa Tâm lý học – giáo dục học Việt Nam, kỹ năng sống
là: Tổng hợp các kỹ năng bộ phận giúp cá nhân thích nghi và giải quyết hiệu
quả các yêu cầu, thách thức của cuộc sống.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, kỹ năng sống được hiểu là: “Những hành
vi tích cực giúp cá nhân ứng phó hiệu quả với yêu cầu, thách thức của cuộc
sống hàng ngày. Đây là một nhóm năng lực tâm lý – xã hội trực tiếp hướng
vào hoạt động của cá nhân hoặc tác động đến người khác, hoặc hướng vào
những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh để nâng cao sức khỏe
thể chất, tinh thần của xã hội”.
Theo UNESSCO, kỹ năng sống là “Những năng lực tâm lý – xã hội liên
quan đến kiến thức, thái độ được thể hiện bằng hành vi giúp cá nhân thích
nghi và giải quyết hiệu quả các yêu cầu, thách thức của cuộc sống”.
Như vậy chúng ta coa thể hiểu, Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý – xã
hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Những kỹ
năng này còn được xem như một biểu hiện quan trọng của khả năng tâm lý -
xã hội giúp cho cá nhân thể hiện được chính mình cũng như tạo ra những
nội lực cần thiết để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống và phát triển. b. Phân loại:
Tùy quan niệm khác nhau mà cách phân loại kỹ năng sống sẽ khác nhau. Có
thể đề cập đến những cách phân loại sau:
- Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) có thể nhận thấy có ba nhóm kỹ năng sống:
Nhóm 1: Nhóm kỹ năng nhận thức: Nhóm này bao gồm những kỹ năng cơ
bản: tự nhận thức bản thân, tự đặt mục tiêu và xác định giá trị, kỹ năng tư
duy, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề.
Nhóm 2: Nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc: Ở nhóm này bao gồm một
số kỹ năng sau: nhận biết và chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình, kềm
chế và kiểm soát được cảm xúc, tự giám sát - tự điều chỉnh cảm xúc của cá nhân.
Nhóm 3: Nhóm kỹ năng xã hội: Ở nhóm kỹ năng này bao gồm một số kỹ
năng cụ thể như: giao tiếp - truyền thông, cảm thông, chia sẻ, hợp tác, gây
thiện cảm, thích ứng với cảm xúc của người khác... - Theo tổ chức UNESCO
Theo tổ chức UNESCO thì kỹ năng sống phải được phân chia dựa trên
những kỹ năng nền tảng cơ bản cũng như những kỹ năng chuyên biệt trong
đời sống cá nhân của con người ở những mối quan hệ khác nhau cũng như ở
những lĩnh vực khác nhau. Xuất phát từ đó, có thể có những nhóm kỹ năng như sau:
Nhóm 1: Nhóm kỹ năng chung: Ở nhóm kỹ năng chung này bao gồm
những kỹ năng cơ bản mà mỗi cá nhân đều có thể có để thích ứng với
cuộc sống chung bao gồm các kỹ năng nhận thức, kỹ năng liên quan đến
cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội.
Nhóm 2: Nhóm kỹ năng chuyên biệt: Nhóm kỹ năng này bao gồm một số
kỹ năng sống được thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội như: các kỹ năng về sức khỏe và dinh dưỡng, các kỹ năng liên quan
đến giới và giới tính, các kỹ năng về vấn đề xã hội như rượu, ma túy,
thuốc lá, HIV - AIDS, các kỹ năng liên quan đến môi trường thiên nhiên,
các kỹ năng liên quan đế vấn đề bạo lực - rủi ro, các kỹ năng liên quan
đến cuộc sống gia đình, các kỹ năng liên quan đến môi trường cộng đồng...
- Theo UNICEF (Tổ chức Quỹ nhi đồng của Liên hiệp quốc)
Tổ chức này cũng có những nghiên cứu về kỹ năng sống dưới góc độ tồn tại
và phát triển của cá nhân. Phân loại ở đây cũng đề cập đến ba nhóm kỹ năng cơ bản:
Nhóm 1: Nhóm những kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình. Nhóm
này bao gồm một số kỹ năng như: tự nhận thức và đánh giá bản thân, kỹ
năng xây dựng mục tiêu cuộc sống, kỹ năng bảo vệ bản thân...
Nhóm 2: Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với người khác. Nhóm này
bao gồm một số kỹ năng như: thiết lập quan hệ, hợp tác, làm việc nhóm,...
Nhóm 3: Nhóm kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả. Nhóm kỹ năng
này bao gồm một số kỹ năng như: phân tích vấn đề, nhận thức thực tế, ra
quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề...
Sự phân chia ở trên cũng chỉ là tương đối. Ở mỗi một góc độ khác nhau,
cách phân loại kỹ năng sống có thể khác nhau. Tuy nhiên, dù phân loại trên
góc nhìn nào thì kỹ năng sống phải là những kỹ năng thuộc về năng lực cá
nhân giúp bản thân tồn tại và làm chủ cuộc sống mình cũng như đạt được
những mục tiêu sống hiệu quả. Như vậy, một cách đơn giản thì kỹ năng sống
bao gồm: kỹ năng mềm và kỹ năng “cứng”. Kỹ năng “cứng” thực chất là
cách gọi dễ nhớ của những kỹ năng cơ bản trong nghề nghiệp (thậm chí là
hiểu biết), những kỹ năng thuộc về chuyên môn - nghiệp vụ.
3.1.1.5. Mối quan hệ kỹ năng sống, kỹ năng cứng và kỹ năng mềm trong phát triển nghề nghiệp
i) Mối quan hệ giữa kỹ năng sống (KNS) và kỹ năng mềm (KNM): KNS
bao hàm cả KNM; KNM là một bộ phận quan trọng của KNS. KNS giúp
con người sống hạnh phúc trong cuộc sống thì KNM giúp con người hạnh
phúc trong công việc mà công việc là một bộ phận quan trọng cấu thành nên cuộc sống.
+ KNS theo nghĩa rộng là giúp cho con người có khả năng tồn tại và thích
ứng trước cuộc sống thực tế, là một năng lực quan trọng để con người làm
chủ được bản thân và chung sống và thích ứng với mọi người xung quanh,
với xã hội; với môi trường, với thiên nhiên,… một cách hiệu quả.
+ KNM giúp cá nhân tồn tại và thành công trong công việc và trong những
mối quan hệ với người khác; nó hướng đến giúp mỗi cá nhân thích nghi
trong công việc, tương tác hiệu quả với
người khác và thúc đẩy công việc đạt hiệu quả cao. KNM phụ thuộc vào
nghề nghiệp mà đặc biệt là đối tượng của nghề nghiệp hướng đến.
ii) Mối quan hệ giữa KNC và KNM trong phát triển nghề nghiệp: Mỗi con
người để có một công việc, tất yếu họ phải được đào tạo đủ KN chuyên môn
(KNC) đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của vị trí công việc KNC . giúp cho con
người bước vào ngưỡng cửa của nghề nghiệp, vị trí làm việc,… Nhưng các
KNM mới là thứ giúp cho họ vững vàng trong nghề nghiệp, giữ được việc
làm và thành đạt trong cuộc sống. Thái độ đối với công việc, giao tiếp, trí
tuệ tình cảm và các đức tính, giá trị cá nhân khác là những KNM không thể
thiếu để mỗi người phát triển nghề nghiệp. KNM luôn đồng hành cùng KNC
và KNM bổ trợ cho các KNC được phát huy, phát triển. Nhờ có sự kết hợp
giữa KNC và KNM giúp cho mỗi cá nhân có được sự thành công trong quá
trình phát triển nghề nghiệp của mình, họ khẳng định được vị trí của mình
trong tổ chức, trong xã hội.
3.1.2. Tầm quan trọng của kỹ năng mềm đối với sinh viên đại học
Xã hội tri thức đòi hỏi con người ngoài năng lực chuyên môn cần phải có hệ
thống các KNM để thích ứng với môi trường luôn luôn biến đổi của thị
trường lao động và thế giới việc làm. Trong xã hội tri thức, KNM giúp cho
con người có khả năng giải quyết linh hoạt, sáng tạo các vấn đề của cuộc
sống và nghề nghiệp đặt ra, sử dụng hiệu quả kiến thức, KNC trong lao
động nghề nghiệp, phát triển chuyên môn và dịch chuyển nghề nghiệp trong
thế giới việc làm luôn luôn thay đổi.
Do sự phát triển của kinh tế tri thức, khoa học công nghệ đòi hỏi con người
phải có KN hòa nhập để giải quyết thành công, hiệu quả các vấn đề của
cộng đồng, dân tộc, quốc gia, khu vực. Thực tế cho thấy trong hoạt động
XH, hoạt động nghề nghiệp, KNM giúp cho mỗi cá nhân có thể hợp tác,
chia sẻ kinh nghiệm, phối hợp trong hoạt động để giải quyết các vấn đề do
thực tiễn cuộc sống và thực tiễn lao động nghề nghiệp đặt ra, nhờ có KNM
mà con người có khả năng hội nhập quốc tế và khu vực, hòa nhập với cộng
đồng và tập thể để hoạt động thành công và hiệu quả giải quyết các vấn đề
của quốc gia, dân tộc, cộng đồng, tập thể cũng như công việc của cá nhân.
Sự phát triển nhanh của kinh tế tri thức và khoa học công nghệ dẫn tới sự
lão hóa tri thức diễn ra với tốc độ ngày càng gia tăng và sự đào thải các sản
phẩm lỗi thời ngày càng nhiều, đòi hỏi người lao động phải có khả năng
dịch chuyển nghề nghiệp, KN thích ứng, nhạy cảm, tự kiềm chế, thay đổi
bản thân, thích ứng nhanh,…để đáp ứng với yêu cầu không ngừng thay đổi
của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ phát triển.
Trong nghiên cứu về "Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành các KNM"
các tác giả Greenberg A.D. và Nilssen A.H. đã đưa ra kết luận: Các nhà
trường phải trang bị tốt hơn cho người học những kiến thức và KNM cần
thiết để họ có thể sẵn sàng làm việc sau khi ra trường. Vì vậy, các chương
trình phát triển KMN trong giáo dục nghề nghiệp cần tích hợp vào các
chương trình dạy KN nghề nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu kép đó là tăng
cường cho người học cơ hội học tập, chuẩn bị bước vào thế giới công việc
bằng việc tạo cho họ đầu vào là những KN nghề nghiệp được đào tạo; đồng
thời tăng tính hiệu quả và sự phù hợp của người học với các KN nghề được
đào tạo (đáp ứng thị trường lao động, mong muốn của cá nhân về sự thăng tiến, thu nhập...).
Như vậy, hình thành và phát triển KNM cho sinh viên là đáp ứng yêu cầu
khách quan của xã hội và nghề nghiệp của người tốt nghiệp trình độ đại học.
3.1.3. Con đường hình thành và phát triển kỹ năng mềm trong trường đại học
Quá trình hình thành và phát triển KNM cho sinh viên đại học quá những hoạt động sau:
a) Thông qua hoạt động dạy học:
Hoạt động dạy học là hoạt động cơ bản và quan trọng của nhà trường. Hoạt
động dạy học có tổ chức sư phạm đặc biệt. Với vai trò của GV trong dạy học
là tổ chức, điều khiển làm cho người học tự giác, tích cực, chủ động, tự điều
khiển hoạt động nhận thức để tìm tòi, khám phá tri thức, hình thành và phát
triển KN. Tổ chức dạy học GV lồng ghép phát triển KNM cho SV vào các
bài học, môn học; quá trình tổ chức dạy học sử dụng các hình thức hoạt
động (thảo luận nhóm, seminar chuyên đề, bài tập tình huống...), các
phương pháp dạy học tương tác tạo môi trường thuận lợi để SV thực hành
trải nghiệm và rèn luyện KN (KN chuyên môn, KNM). Phát triển KNM cho
SV thông qua hoạt động dạy học là con đường cơ bản, quyết định việc hình
thành và phát triển KNM cho SV.
b) Thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Tổ chức lớp ngoại khóa về rèn luyện các KNM gắn với môn học, chuyên
ngành ĐT. Nội dung được thiết kế theo chủ đề và được tổ chức hoạt động
tương tác, tích cực tạo điều kiện cho SV được hoạt động trong môi trường
thuận lợi để rèn luyện và phát triển KNM. Đoàn thanh niên, Hội SV tổ chức
các hoạt động: Văn nghệ, thể thao; CLB SV (SV thanh lịch; tình bạn; nghệ
thuật, kinh doanh, hùng biện, kế toán, Tiếng Anh…).Tham gia các hoạt động
của Đoàn thanh niên, Hội SV tổ chức SV được phát huy khả năng, tố chất cá
nhân; tự điều chỉnh nhận thức, hành vi; trao đổi kinh nghiệm; phát huy mặt
tích cực; ngăn chặn, sửa chữa các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu; kích thích tính
chủ động, sáng tạo và tự tin thể hiện mình trong mọi tình huống. Phát triển
KNM cho SV thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là
con đường quan trọng giúp SV trải nghiệm, rèn luyện và phát triển KNM.
c) Thông qua tổ chức hoạt động trải nghiệm lao động nghề nghiệp
Các hoạt động trải nghiệm lao động nghề nghiệp được tổ chức đảm bảo các
yêu cầu sư phạm là cơ hội tốt để SV tiếp cận với môi trường làm việc thực
tế; vận dụng thực hành các KN (KN cứng, KNM), đồng thời học hỏi những
kinh nghiệm, hình thành những KN mới trong lao động nghề nghiệp. Sự trải
nghiệm lao động nghề nghiệp sẽ giúp SV củng cố kiến thức, thực hành KN,
có những thao tác phù hợp để hoàn thiện các KN (KN nghề nghiệp, KNM).
d) Thông qua tổ chức hoạt động cộng đồng, xã hội
Ngày nay, SV không chỉ vận dụng những KNM vào công việc và cuộc sống
của riêng họ, mà còn chia sẻ với cộng đồng, XH. Trong các hoạt động cộng
đồng, xã hội SV được trải nghiệm KNM thông qua công việc vận dụng
những KNM để giải quyết vấn đề xảy ra trong thực tiễn, đồng thời thông
qua đó khám phá những khả năng tiềm ẩn của chính mình và phát triển KN
mới. Vì vậy, tổ chức các hoạt động xã hội giúp cho SV được trải nghiệm và
phát triển KNS, trong đó có KNM.
e) Thông qua hoạt động tự rèn luyện của SV
Tính tích cực, tự giác rèn luyện của SV là yếu tố quyết định kết quả rèn
luyện KNM của SV. Tự giác tích cực thực hiện nhiệm vụ cá nhân, tham gia
hoạt động nhóm, cộng đồng XH là yếu tố giúp SV ngày càng hoàn thiện
KNM. Trong quá trình giảng dạy, rèn luyện nghề nghiệp, GV cần đưa ra
những định hướng, chỉ dẫn để SV tự rèn luyện, tự trải nghiệm cuộc sống,
thực tế nghề nghiệp nhằm phát triển KNM cho bản thân.
3.2. Các kỹ năng mềm cần có đối với sinh viên đại học
Tại Mỹ, Bộ Lao động Mỹ (The U.S Department of Labor) cùng Hiệp hội
Đào tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and
Development) gần đây đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về các kỹ năng cơ
bản trong công việc. Kết luận được đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết
đê thành công trong công việc:
1. Kỹ năng học và tự học (learning to learn)
2. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)
3. Kỹ năng thuyết trình (Oral communication skills)
4. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
5. Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative thinking skills)
6. Kỹ năng quán lý bản thân và tinh thần tụ- tôn (Self esteem)
7. Kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động lực làm việc (Goal setting/ motivation 8. skills)
9. Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp (Personal and career development skills)
10. Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ (Interpersonal skills)
11. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)
12. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)
13. Kỹ năng tổ chức công việc hiệu qua (Organizational effectiveness)
14. Kỹ năng lãnh đạo bản thân (Leadership skills)
Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập một ủy ban Thư ký về Rèn
luyện các Kỹ năng cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving
Necessary Skills - SCANS). Thành viên của ủy ban này đến từ nhiều lĩnh
vực khác nhau như giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao động, công
chức... nhằm mục đích “thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng
cao và công việc thu nhập cao”.
Tại Úc, Hội đồng Kinh doanh úc (The Business Council of Australia - BCA)
và Phòng thương mại và công nghiệp úc (the Australian Chamber of
Commerce and Industry - ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và
Khoa học (the Department of Education, Science and Training - DEST) và
Hội đồng giáo dục quốc gia Úc (the Australian National Training Authority -
ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỳ năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002).
Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động
yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề (employability skills) là các
kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà còn để tiến bộ
trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào
định hướng chiến lược của tô chức. Các kỹ năng hành nghề bao gồm có 8 kỹ năng như sau:
1. Kỹ năng giao tiếp (Communication skills)
2. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork skills)
3. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
4. Kỹ năng sáng tạo và mạo hiếm (Initiative and enterprise skills)
5. Kỹ năng lập kế hoạch và tô chức công việc (Planning and organising skills)
6. Kỹ năng quản lý bản thân (Self-management skills)
7. Kỹ năng học tập (Learning skills)
8. Kỹ năng công nghệ (Technology skills)
Chính phủ Canada cũng có một bộ phụ trách về việc phát triến kỹ năng cho
người lao động. Bộ Phát triển Nguồn Nhân lực và Kỳ năng Canada (Human
Resources and Skills Development Canada - HRSDC) có nhiệm vụ xây
dựng nguồn nhân lực mạnh và có năng lực cạnh tranh, giúp người Canada
nâng cao năng lực ra quyết định và năng suất làm việc để nâng cao chất
lượng cuộc sống. Bộ này cũng có những nghiên cứu đe đưa ra danh sách các
kỳ năng cần thiết đối với người lao động. Con ference Board of Canada là
một tổ chức phi lợi nhuận của Canada dành riêng cho nghiên cứu và phân
tích các xu hướng kinh tế, cũng như năng lực hoạt động các tổ chức và các
vấn đề chính sách công cộng. Tổ chức này cũng đã có nghiên cứu và đưa ra
danh sách các kỹ năng hành nghề cho thế kỷ 21 (Employability Skills
2000+) bao gồm các kỹ năng như:
1. Kỹ năng giao tiếp (Communication)
2. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving)
3. Kỹ năng tư duy và hành vi tích cực (Positive attitudes and behaviours)
4. Kỹ năng thích ứng (Adaptability)
5. Kỹ năng làm việc với con người (Working with others)
6. Kỹ năng nghiên cứu khoa học, công nghệ và toán (Science, technology and mathematics skills)
Chính phủ Anh cũng có cơ quan chuyên trách về phát triển kỳ năng cho
người lao động. Bộ Đổi mới, Đại học và Kỹ năng được chính chủ thành lập
từ ngày 28/6/2007, đến tháng 6/2009 thì được ghép với Bộ Kinh tế, Doanh
nghiệp và Đôi mới Pháp chế đế tạo nên bộ mới là Bộ Kinh tế, Đổi mới và
Kỹ năng. Bộ này chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc học tập
của người lớn, một phần của giáo dục nâng cao, kỹ năng, khoa học và đôi
mới. (Nguôn: http://www.dius.gov.uk/). Cơ quan chứng nhận chương trình
và tiêu chuẩn (Qualification and Curriculum Authority) cũng đưa ra danh
sách các kỹ năng quan trọng bao gồm:
1. Kỹ năng tính toán (Application of number)
2. Kỹ năng giao tiếp (Communication)
3. Kỹ năng tự học và nâng cao năng lực cá nhân (Improving own learning and performance)
4. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information and communication technology)
5. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving)
6. Kỹ năng làm việc với con người (Working with others)
Chính phủ Singapore có Cục phát triển lao động WDA (Workforce
Development Agency) WDA đã thiết lập hệ thống các kỹ năng hành nghề
ESS (Singapore Employability Skills System) gồm 10 kỹ năng:
1. Kỹ năng công sở và tính toán (Workplace literacy & numeracy)
2. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information & communications technology)
3. Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định (Problem solving & decision making)
4. Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm (Initiative & enterprise)
5. Kỹ năng giao tiếp và quản lý quan hệ (Communication & relationship management)
6. Kỹ năng học tập suốt đời (Lifelong learning)
7. Kỹ năng tư duy mớ toàn cầu (Global mindset)
8. Kỹ năng tự quản lý bản thân (Self-management)
9. Kỹ năng tổ chức công việc (Workplace-related life skills)
10. Kỹ năng an toàn lao động và vệ sinh sức khỏe (Health & workplace safety).
Ớ VN, các kỹ năng chưa được chú trọng trong hệ thống giáo dục cũng như
trong cuộc sống. Hình như nền giáo dục của chúng ta đang dựa trên một giả
định “người ta biết thì người ta sẽ làm được”. Và vì vậy họ cứ cố dạy cho
học sinh, sinh viên thật nhiều kiến thức hòng làm được việc khi ra trường.
Nhưng thực tế đâu có vậy, từ biết đến hiểu là một khoảng cách rất xa, và từ
hiểu đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách còn
xa hơn nữa. Điều này dẫn đến một thực trạng là sinh viên khi ra trường biết
nhiều kiến thức nhưng lại không có khả năng làm việc cụ thể. Chỉ vài năm
gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng mới nhắc nhiều đến cụm tù’
“kỹ năng” và “kỹ năng mềm”. Chúng ta tự hào về nguồn lao động dồi dào.
Nhưng đó mới chỉ là số lượng. Chất lượng lao động mới là vấn đề đáng bàn.
Theo bà Nguyễn Thị Hằng (nguyên Bộ trưởng Bộ Lao Động, Thương Binh
& Xã Hội, Chủ tịch hội dạy nghề Việt Nam), hiện nay, Việt Nam còn đến
hơn 50% lao động trong tông số hơn 10 triệu lao động chưa qua đào tạo cơ
bản chính quy, mà chủ yếu là vừa học vừa làm hoặc làm những công việc
đơn giản. Điều đó cho chúng ta thấy bức tranh tổng thể về kỳ năng nghề
nghiệp của lực lượng lao động không có gì là sáng sủa cho lắm và còn nhiều
việc phải làm đê có một bức tranh tươi sáng hơn. Điều tối thiêu phải biết
(nhưng lại không phải ai cùng biết), là xã hội bây giờ sử dụng sản phẩm
dùng được, chứ không sử dụng khả năng hay bằng cấp của con người. Bạn
không có kỹ năng đánh máy, thì có thuộc lòng 10 quyên sách về Microsoft
Office cũng vô nghĩa. Bạn không thiết kế nổi một cái nhà bình thường 3
tầng, thì có tốt nghiệp xuất sắc trường Kiến trúc cũng vô nghĩa.
Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế Việt Nam, dưới góc độ
của người nghiên cứu đề tài thấy rằng 10 kỹ năng sau là căn bản và quan
trọng hàng đầu cho người lao động trong thời đại ngày nay:
1. Kỹ năng học và tự học (Learning to leam)
2. Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân (Self leadership & Personal branding)
3. Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills)
4. Kỹ năng lập kế hoạch và tô chức công việc (Planning and organising skills)
5. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)
6. Kỹ năng thuyết trình (Presentation skills)
7. Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (Interpersonal skills)
8. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
9. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)
10. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)
Như vậy ngoài những kiến thức chuyên môn, người lao động cần phải được
trang bị thêm các kỹ năng hành nghề để đảm bảo có được việc làm mà còn
đề tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng
góp vào định hướng chiến lược của tô chức góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Căn cứ với những nghiên cứu về các kỹ năng mềm ở trên, chúng tôi lựa
chọn gộp 3 nhóm kỹ năng chính để tập trung vào môn sinh viên đại học của
Trường ĐH Thủ đô Hà Nội sau đây:
3.2.1. Kỹ năng phát triển bản thân 3.2.1.1. Khái niệm
Việc phát triển, nâng cao kiến thức, hoàn thiện giá trị bản thân mỗi ngày là
yếu tố cần và đủ để thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống.
Tuy nhiên, dường như những khái niệm đó vẫn chưa rõ về mặt lý thuyết,
còn phát triển bản thân là gì thì vẫn là một lĩnh vực cần nghiên cứu nhiều
hơn để hiểu đúng, hiểu chính xác.
Phát triển bản thân là một quá trình mang tính lâu dài vì không được giới
hạn về mặt thời gian, phát triển bản thân cần thiết cho cả hôm nay và tương
lai, bất chấp con người già đi và thế giới xung quanh không ngừng biến
động. Phát triển hay thay đổi ở đây, không đơn thuần dừng lại ở việc gia
tăng thành tích cá nhân hay thu nhập cuộc sống. Phát triển bản thân là quá
trình làm mới, nâng cao tổng hợp những yếu tố bao gồm ngoài hình, kiến
thức, kinh nghiệm, kỹ năng sống, trí thông minh, trí tuệ cảm xúc,...
Phát triển bản thân không bắt buộc mỗi người phải nỗ lực và cố gắng tranh
đấu để trở thành người giỏi nhất hay người có năng lực nhất. Mà phát triển
bản thân chú trọng đến hành trình hướng đến và phấn đấu để đạt được chính
mình tốt hơn ngày hôm qua, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội
cũng như với công viện của mỗi người.
3.2.1.2. Bốn nhóm nền tảng để phát triển bản thân
Nhiều chuyên gia cho rằng, có tổng cộng bốn nhóm nền tảng làm cơ sở để
phát triển bản thân của mỗi người. Đó là những nền tảng như sau:
i) Nền tảng về giá trị
Người luôn muốn mình trở nên xuất sắc, muốn bản thân làm được những
điều mà người khác không làm được, muốn phát triển xa và rộng hơn là
người sở hữu nền tảng giá trị cốt lõi rất cứng rắn, những người thuộc nhóm
này không bao giờ muốn thỏa hiệp với những giá trị đó. Chẳng hạn như, khi
bản thân xác định được giá trị của mình là dũng cảm, trong mọi hoạt cảnh,
phải vượt qua để giữ vững nền tẳng giá trị mình đã đặt ra (không phó mặc
và đổ thừa cho hoàn cảnh, không bỏ qua giá trị của mình là dũng cảm).
ii) Nền tảng về thái độ
Trong cuộc sống, bản chất của mọi sự việc, mọi vấn đề là như nhau. Cùng là
một sự thất bại, nhưng có người vì đó mà tích lũy kinh nghiệm, rút ra bài
học quý giá cho bản thân, đứng lên và tìm kiếm cơ hội mới. Nhưng cũng có
không ít người vì đó mà lún sâu vào buồn phiền, chán nản, muốn bỏ cuộc và
thậm chí là không thể nào vực dậy tinh thần. Nói như vậy để thấy rằng, mọi
sự việc và kết quả chuyển biến như thế nào sau đó là tùy vào cách tiếp cận
của mỗi người, tích cực hay tiêu cực mà thôi.
Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thường nghe thấy câu: “Thái độ quan trọng
hơn trình độ”, trong công việc vẫn thường hay nói: “Tuyển dụng về thái độ,
huấn luyện về kỹ năng”. Đó chính là lý do những người ban đầu đã có thái
độ không tốt, thì rất khó để dạy bảo và tự phát triển bản thân mình. Thái độ
đúng sẽ giúp cho chúng ta nhìn nhận vấn đề đúng để từ đó ta tích cực trong
công việc, học hỏi và cầu tiến để chuyên môn được hoàn thiện mỗi ngày,
đáp ứng tốt cho công việc.
iii) Nền tảng về kiến thức
Kiến thức, tri thức là những gì mà chúng ta được tiếp cận từ lúc còn nhỏ,
đặc biệt trong quãng thời gian 12 năm học phổ thông và cả những năm tháng
đại học dài đằng đẵng. Tuy nhiên, kiến thức ở đây không chỉ giới hạn bởi
những gì mà chúng ta được dạy ở trường, ở lớp. Trong một thế kỷ rất khác,
kiến thức là một đại dương và có lẽ, sự rộng lớn, vĩ đại của nó sẽ là nguồn
động lực để chúng ta phát triển bản thân cả đời. Và xưa và nay đã khác xã
rất nhiều, ngày xưa chúng ta bị hạn chế bởi các nguồn tài liệu nhưng nay với
công nghệ phát triển, chỉ cần một cái máy điện thoại thông minh đã giúp ta
khám phá nhiều hơn để phát triển trí tuệ của mình.
iv)Nền tảng về kỹ năng
Thật sự rất hạn chế với những người có kiến thức, nhưng lại thiếu về kỹ
năng. Trên thực tế, kỹ năng sống, kỹ năng mềm là những thứ mà chúng ta bị
hạn chế nhất, thậm chí trước đây chúng còn chẳng được nhắc đến trong thời
gian còn ngồi trên ghế nhà trường. Không trau dồi và chịu khóa tự học kỹ
năng của sinh viên là một điểm yếu của giới trẻ. Kỹ năng là một trong
những yếu tố cốt lõi để phát triển bản thân mỗi ngày.
Trên hành chính phát triển của mỗi người, chúng ta đều phải cần học hỏi và
rèn luyện bốn nhóm nền tảng này. Đó là những gì sẽ giúp chúng ta định
hướng được cụ thể cái gì cần nâng cao, cần học hỏi một cách có hệ thống để
phát triển bản thân liên tục, về mọi khía cạnh, mà không đơn thuần dừng lại
ở việc tiếp nhận dữ liệu và thông tin.
3.2.1.3. Yếu tố quyết định sự thành công trong phát triển bản thân
Khi xác định được tầm quan trọng của việc phát triển bản thân, chúng ta cần
phát huy các yếu quyết định sự thành công trong việc phát triển bản thân của mỗi người.
- Thứ nhất, vượt qua giới hạn của sự an toàn
Thông thường, bản năng của mỗi người là cảm thấy rụt rè, thậm chí là giữ
tâm lý sợ sệt với những gì không chắc chắn, mới mẻ, không quen thuộc.
Vùng an toàn luôn cho chúng ta cảm giác hưởng thụ và bình yên. Nhưng với
những ai muốn phát triển bản thân, chúng lại là một thứ chúng ta cần phá
bỏ. Những cái mới sẽ là thử thách khiến bạn phải vượt qua, là một nhiệm vụ
chưa từng làm, một thói quen chưa từng thực hiện.
Hình 1: Minh họa cho phát triển bản thân trong đại dịch Covid 2019
- Thứ hai, nghiêm túc với mục tiêu của bản thân
Mục tiêu là yếu tố căn bản giúp chúng ta duy trì được cảm hứng và sự nỗ
lực mỗi ngày. Tuy nhiên, không phải ai cũng làm được điều đó, bởi trên thực
tế, mọi người có xu hướng làm việc theo cảm tính mà ít ai phân tích đúng
sai, thiệt hơn. Những mục tiêu được đưa ra cần mang tính khả thi, không xa
rời thực tế, mục tiêu càng lớn càng khiến hành động của chúng càng nhỏ.
Do vậy, đặt từng mục tiêu ngắn hạn, thực hiện theo quy trình từng bước, có
kế hoạch rõ ràng, hướng đến một mong muốn to lớn của chúng ta ở tương
lai để luôn duy trì được sự nỗ lực của mình. Rất nhiều cách để tìm kiếm mục
tiêu của bản thân và duy trì nó mỗi
ngày. Chẳng hạn như đọc sách, trải nghiệm thực tế qua công việc, qua các
mối quan hệ, qua các nhìn nhận xã hội để quan sát, phân tích và đúc kết, từ
đó sẽ rút ra bài học phù hợp với mục tiêu của mình.
- Thứ ba, xây dựng kế hoạch phát triển bản thân cụ thể
Phát triển bản thân ai cũng muốn, nhưng không ai giống ai, mỗi người
dường như sẽ thích hợp với một phương pháp phát triển riêng biệt. Xây
dựng kế hoạch theo lộ trình cụ thể, có thể phân chia theo từng ngày, từng
tuần, từng tháng, từng năm để thực hiện dần dần.
Việc xây dựng phát triển bản thân đặc biệt lưu ý là phải hiểu rõ bản thân về
năng lực, sở trưởng, đam mê, giá trị sống gắn, sứ mệnh với mục tiêu công