







Preview text:
lOMoAR cPSD| 58833082
3.2 Phương pháp nghiên cứu :
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận của môn học “Dân số và
Phát triển”. Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là các sự vật, sự
việc của tự nhiên, xã hội có mối liên hệ phổ biến và vận động, phát triển không
ngừng. Vận dụng sáng tạo và quán triệt sâu sắc phép duy vật biện chứng trong
nghiên cứu mối quan hệ giữa "dân số" và "sự phát triển" là yêu cầu không thể thiếu
được của môn học này.Như đã trình bày, đối tượng nghiên cứu của môn học này là
mối quan hệ giữa “dân số” và “phát triển”, bao hàm những nội dung hết sức rộng
rãi, đến mức trên thực tế khó có thể khảo sát, phân tích toàn bộ mối quan hệ dân số
và phát triển trong một cuộc nghiên cứu mà chỉ có thể lựa chọn nghiên cứu quan hệ
giữa một số chỉ tiêu dân số với một số yếu tố của phát triển mà thôi. Chẳng hạn,
nghiên cứu mối quan hệ giữa số con của phụ nữ (một chỉ tiêu dân số) với trình độ
học vấn, nghề nghiệp, thu nhập... của họ (các yếu tố của phát triển,thậm chí chỉ
một trong các yếu tố đó mà thôi).Sau khi đã xác định được mối quan hệ của các chỉ
tiêu cần nghiên cứu, phải thu thập và xử lý các thông tin về các chỉ tiêu đó. Trong
nghiên cứu thu thập và xử lý thông tin thường sử dụng rộng rãi các phương pháp
thống kê, phương pháp xã hội học và cả phương pháp toán học.
Nguyên nhân gia tăng dân số Việt Nam hiện nay
Nguyên nhân gia tăng dân số ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng đang diễn
ra và có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế, xã hội và chính trị của đất nước. Có một
số nguyên nhân chính đóng vai trò trong sự gia tăng này.
Trước hết, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ sinh cao. Dù
đã có sự giảm tỷ lệ sinh so với những năm trước đây, nhưng Việt Nam vẫn đứng
trong top các nước có tỷ lệ sinh cao. Một phần nguyên nhân của tỷ lệ sinh cao này
là do vẫn còn ý thức truyền thống về vai trò của con cái trong gia đình, đặc biệt là ở
những gia đình ở nông thôn. Người dân nông thôn thường có nhu cầu sinh nhiều con
để có sức lao động cho nông nghiệp và kỳ vọng con cái sẽ đảm bảo cuộc sống và hỗ
trợ gia đình trong tương lai.
Thứ hai, một nguyên nhân khác là sự cải thiện trong các chỉ số kinh tế và điều
kiện sống. Việt Nam đã chứng kiến một tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong những
năm qua. Sự phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho
người dân. Điều này đã làm tăng sự mong muốn của người dân Việt Nam trong việc
sinh sống và nuôi dưỡng gia đình. Khi điều kiện sống được cải thiện, người dân có
khả năng tài chính và ý thức về việc nuôi dưỡng gia đình tốt hơn. lOMoAR cPSD| 58833082
Thứ ba, sự giảm tỷ lệ tử vong cũng đóng góp vào sự gia tăng dân số ở Việt
Nam. Hệ thống y tế của Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể, và các biện pháp y tế
phòng ngừa và điều trị đã được cải thiện. Điều này đã dẫn đến sự giảm tỷ lệ tử vong
trong các khía cạnh như tử vong sơ sinh, tử vong do bệnh truyền nhiễm và các bệnh
không lây nhiễm khác. Tuổi thọ của người dân đã được kéo dài, và số lượng người
sống sót đã tăng lên đáng kể.
Cuối cùng, nguyên nhân gia tăng dân số ở Việt Nam còn liên quan đến sự di
cư trong nước. Việt Nam là một đất nước với sự phát triển không đồng đều giữa các
vùng, với sự tập trung kinh tế và cơ hội việc làm tại các thành phố lớn và khu vực
đô thị. Điều này đã thu hút một lượng lớn người dân từ các vùng nông thôn và các
tỉnh miền núi di cư tìm kiếm cơ hội tốt hơn cho cuộc sống và công việc. Sự di cư
trong nước đã góp phần vào sự gia tăng dân số ở các khu vực tăng trưởng nhanh, đặc
biệt là các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM.
Ngoài ra, chính sách gia đình của chính phủ Việt Nam cũng là một nguyên
nhân quan trọng khác đẩy mạnh sự gia tăng dân số. Chính sách một đứa trẻ đã được
áp dụng nhằm khuyến khích tăng trưởng dân số trong quá khứ, và dù đã có một số
điều chỉnh gần đây, tuy nhiên, ảnh hưởng của chính sách này vẫn còn hiện hữu.
Chính sách này cung cấp một số ưu đãi và hỗ trợ tài chính cho các gia đình có một
con, góp phần khuyến khích người dân sinh nhiều hơn.
Tuy nhiên, sự gia tăng dân số cũng đặt ra những thách thức đáng chú ý. Nhu
cầu về nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và việc làm trở nên ngày càng cấp thiết.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách
và biện pháp nhằm quản lý sự gia tăng dân số và đồng thời đảm bảo sự phát triển
toàn diện cho đất nước. Điều này bao gồm đầu tư vào hạ tầng, giáo dục và chăm sóc
sức khỏe công cộng, cùng với việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm và đẩy mạnh công
nghiệp hóa để tạo ra thu nhập ổn định cho người dân.
Tóm lại, sự gia tăng dân số ở Việt Nam là kết quả của nhiều yếu tố kinh tế, xã
hội và chính trị. Tỷ lệ sinh cao, sự cải thiện điều kiện sống, giảm tỷ lệ tử vong, sự di
cư trong nước và chính sách gia đình đóng góp quan trọng vào sự gia tăng này. Tuy
nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và đối phó với các thách thức liên quan,
cần áp dụng các biện pháp quản lý và chính sách phù hợp.
Thực trạng gia tăng dân số ở Việt Nam hiện nay
Tính đến ngày 01/4/2019, dân số Việt Nam là trên 96,2 triệu người. Trải qua
5 lần tổng điều tra dân số (vào các năm: 1979, 1989, 1999, 2009, 2019), trong 40
năm (1979 - 2019), dân số Việt Năm tăng trung bình 1 triệu người/năm. Dân số hiện lOMoAR cPSD| 58833082
tại của Việt Nam là 99.700.814 người vào ngày 02/07/2023 theo số liệu mới nhất từ
Liên Hợp Quốc. Dân số Việt Nam hiện chiếm 1,24% dân số thế giới. Việt Nam đang
đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.
(Nguồn: https://danso.org/viet-nam/)
Thực trạng gia tăng dân số ở Việt Nam là một vấn đề đáng quan ngại và cần
được phân tích một cách cụ thể để hiểu rõ hơn về tình hình này. Trong những năm
gần đây, dân số của Việt Nam đã tăng nhanh chóng và điều này đặt ra những thách
thức lớn đối với nền kinh tế, xã hội và môi trường.
Mặc dù tốc độ gia tăng dân số Việt Nam đã giảm xuống so với các thập kỷ
trước, nhưng vẫn đạt mức cao so với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Theo dữ
liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tỷ lệ tăng trưởng dân số trung bình hàng năm
trong giai đoạn 2010-2020 là khoảng 1,1%. Dự báo cho thời gian tới, dân số Việt
Nam có thể đạt khoảng 110 triệu người vào năm 2030. Một khía cạnh quan trọng
cần được nhìn nhận là tỷ lệ sinh cao. Mặc dù đã có sự giảm tỷ lệ sinh từ trước đến
nay, Việt Nam vẫn đứng trong top các nước có tỷ lệ sinh cao. Theo số liệu từ Tổng
cục Thống kê Việt Nam, tỷ lệ sinh trung bình của Việt Nam trong giai đoạn 2016-
2020 là khoảng 2,05 con/người. Điều này đòi hỏi sự chú ý đặc biệt vì nếu tỷ lệ sinh
tiếp tục ở mức cao, việc đảm bảo cung cấp đủ các dịch vụ công cộng và các nguồn
lực thiết yếu sẽ trở nên khó khăn.
Ngoài ra, tốc độ di cư trong nước cũng là một yếu tố quan trọng trong sự gia
tăng dân số. Việt Nam là một quốc gia với sự chênh lệch phát triển kinh tế giữa các
vùng rất lớn, và điều này đã tạo ra một hiện tượng di cư từ các vùng nông thôn sang
các thành phố lớn và khu vực đô thị. Dân số tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn
và các khu vực đô thị, tạo nên mật độ dân số cao. Các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM
và các đô thị khu vực kinh tế trọng điểm như Bắc Giang, Bình Dương, Đồng Nai,
v.v. đang chứng kiến tốc độ tăng dân số đáng kể. Điều này gây áp lực lớn lên các hệ
thống cơ sở hạ tầng, như nhà ở, giao thông và các dịch vụ công cộng tại các đô thị.
Sự gia tăng dân số đang dẫn đến một số thay đổi trong cơ cấu dân số của Việt Nam.
Tỷ lệ dân thành thị đang tăng lên, trong khi tỷ lệ dân số nông thôn có xu hướng giảm
đi. Điều này đặt ra thách thức trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản và cơ sở hạ
tầng phù hợp cho dân số đô thị và nông thôn. Đồng thời, di cư cũng có thể gây ra sự
chênh lệch về tài nguyên và cơ hội, đặc biệt là khi các thành phố không thể đáp ứng
đủ việc làm cho dân số gia tăng nhanh chóng.
Dân số thành thị của Việt Nam hiện đạt khoảng 28,9 triệu người, chiếm tỷ lệ
32,3% trong tổng dân số, trong khi dân số nông thôn là 60,6 triệu người, chiếm tỷ lệ lOMoAR cPSD| 58833082
67,7%. Đồng bằng sông Hồng là vùng có quy mô dân số lớn nhất với khoảng 20,4
triệu người, chiếm tỷ lệ 22,8%. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đứng sau
với 19,3 triệu người, chiếm tỷ lệ 21,5%. Trái lại, Tây Nguyên là vùng có số dân ít
nhất với khoảng 5,5 triệu người, chỉ chiếm tỷ lệ 6,1% trong tổng dân số cả nước. dự
báo theo của phương án trung bình cho thấy mức tăng dân số sau năm 2019 của các
vùng giảm dần cho đến cuối thời kỳ dự báo. Vào giai đoạn 2039-2045, mức tăng
bình quân hàng năm của cả nước là 0,4%. Con số đó của Tây Nguyên là cao nhất là
(0,61%), tiếp sau là của Trung du và miền núi phía Bắc (0,60%). Tỷ suất tăng của
Đồng bằng sông Cửu Long là thấp nhất (0,04%) lOMoAR cPSD| 58833082
Dự báo dân số các vùng kinh tế - xã hội và tỷ lệ tăng dân số bình quân năm
theo phương án trung bình, 2019 - 2045
Tỷ lệ tăng dân số của Việt Nam đã có xu hướng giảm trong suốt thời kỳ từ
1999 đến 2009. Trong giai đoạn này, tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm đạt 1,2%,
giảm đi 0,5% so với 10 năm trước đó và đây là mức tăng thấp nhất trong vòng 50 năm qua.
Trong thời kỳ từ 2011 đến 2013, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm đã
giảm, nhưng vẫn ở mức khá cao, đạt 1,05%. Với quy mô dân số lớn và xu hướng
tăng trưởng nhanh, dân số của Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục gia tăng và vượt qua con
số 100 triệu người vào giữa thế kỷ XXI, đưa nước ta vào nhóm 10 quốc gia có dân
số lớn nhất trên thế giới. Trong vòng 10 năm, tỷ lệ sinh đã giảm mạnh từ 2,3
con/người xuống dưới mức sinh thay thế (2 con/phụ nữ). Tỷ lệ tăng dân số cao nhất
được ghi nhận tại Đông Nam Bộ với mức 3,2% hàng năm. Tây Nguyên là vùng có
tỷ lệ nhập cư cao, dân số tăng nhanh với tốc độ trung bình 2,3% hàng năm. Dân số
thành thị chiếm khoảng 32,3% trong tổng dân số cả nước và tăng trưởng bình quân hàng năm 3,4%.
Trên cơ sở thực trạng dân số Việt Nam và ý nghĩa quan trọng của việc giải
quyết vấn đề dân số, Đảng và Nhà nước đã xây dựng những chính sách dân số phù
hợp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình và toàn bộ xã
hội, đồng thời phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và nâng
cao chất lượng dân số.
Dự kiến vào năm 2022, dân số của Việt Nam sẽ tăng thêm 784.706 người và
đạt con số 99.329.145 người vào đầu năm 2023. Dự báo rằng tăng dân số tự nhiên
sẽ là dương vì số lượng sinh sẽ vượt qua số người chết, với mức tăng dự kiến là
879.634 người. Tuy nhiên, nếu tình trạng di cư duy trì ở mức như năm trước, dân số
có thể giảm đi 94.928 người. Điều này có nghĩa là số người di cư đến Việt Nam để
định cư sẽ ít hơn số người rời khỏi đất nước để định cư ở một quốc gia khác.
Theo ước tính, tỷ lệ thay đổi dân số hàng ngày của Việt Nam vào năm 2022
được dự đoán như sau: trung bình mỗi ngày có 4.175 trẻ em được sinh ra, 1.765
người chết, và 260 người di cư.
Năm 2021, dân số Việt Nam ước tính là 98.564.407 người, tăng 830.246 người
so với năm trước đó. Trong năm đó, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là dương, với số
lượng người sinh ra vượt qua số người chết, đạt 912.801 người. Tuy nhiên, do tình
trạng di cư, dân số giảm đi 82.555 người. lOMoAR cPSD| 58833082
Tỷ lệ giới tính trong tổng dân số của Việt Nam là 0,997, tức là có 997 nam
giới cho mỗi 1.000 nữ giới, mức này thấp hơn so với tỷ lệ giới tính toàn cầu. Trên
toàn cầu, tỷ lệ giới tính vào năm 2021 là khoảng 1.017 nam giới cho mỗi 1.000 nữ giới.
Trong năm 2021, Việt Nam ghi nhận 1.545.374 trẻ em được sinh ra và 632.573
người đã qua đời. Từ đó, gia tăng dân số tự nhiên của nước ta đạt 912.801 người.
Tuy nhiên, do tình trạng di cư, số lượng dân nhập cư vào Việt Nam giảm đi 82.555
người. Số liệu cho thấy Việt Nam có 49.208.169 nam giới và 49.356.238 nữ giới tính
tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021.
Mật độ dân số của Việt Nam được tính là 320 người trên mỗi kilômét vuông
tính đến ngày 13/10/2022. Để tính toán mật độ dân số, ta chia tổng dân số của Việt
Nam cho tổng diện tích đất nước. Tổng diện tích bao gồm diện tích đất và nước trong
ranh giới quốc tế và bờ biển của Việt Nam, được ước tính là 310.060 km2 theo Tổng
cục Thống kê Liên Hợp Quốc.
Dựa trên ước tính, Việt Nam có 23.942.527 thanh thiếu niên dưới 15 tuổi
(12.536.210 nam và 11.406.317 nữ), 65.823.656 người trong độ tuổi từ 15 đến 64
tuổi (32.850.534 nam và 32.974.072 nữ), và 5.262.699 người trên 64 tuổi (2.016.513 nam và 3.245.236 nữ).
Tỷ lệ dân số phụ thuộc theo độ tuổi, dựa trên dữ liệu năm 2019, là tỷ lệ của
những người không có khả năng lao động (người phụ thuộc) so với lực lượng lao
động của quốc gia. Phần dân số phụ thuộc bao gồm dân số dưới 15 tuổi và người từ 65 tuổi trở lên.
Lực lượng lao động tại Việt Nam bao gồm những người trong độ tuổi từ 15
đến 64 tuổi. Tính đến năm 2019, tổng tỷ lệ dân số phụ thuộc trong nước là 45,6%.
Tỷ lệ trẻ em phụ thuộc, tức tỷ lệ người dưới 15 tuổi so với lực lượng lao động, là
33,6% tại Việt Nam. Trong khi đó, tỷ lệ người cao tuổi phụ thuộc, tức tỷ lệ người
trên 65 tuổi so với lực lượng lao động, đạt 12,0%.
Một chỉ số quan trọng trong nhân khẩu học là tuổi thọ, biểu thị thời gian sống
trung bình từ khi sinh ra cho đến khi qua đời. Tổng tuổi thọ của cả nam và nữ tại
Việt Nam vào năm 2019 là 75,6 tuổi, một con số vượt trội hơn so với tuổi thọ trung
bình trên toàn cầu (72 tuổi). Tuổi thọ trung bình của nam giới tại Việt Nam là 71,5
tuổi, trong khi tuổi thọ trung bình của nữ giới là 79,7 tuổi. lOMoAR cPSD| 58833082
Biểu đồ cơ cấu dân số theo nhóm tuổi của nam và nữ, Tổng điều tra 2019
Hơn nữa, sự gia tăng dân số cũng tạo ra những áp lực đáng kể về nguồn tài
nguyên và môi trường. Việt Nam là một quốc gia có diện tích hạn chế, trong đó đất
đai và nguồn nước đã bị khai thác một cách tương đối quá mức. Gia tăng dân số cùng
với nhu cầu phát triển kinh tế đang tạo ra sự căng thẳng đáng kể về tài nguyên và
môi trường. Sự gia tăng dân số đồng nghĩa với nhu cầu tăng cường sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, làm tăng áp lực lên nguồn nước, đất đai, năng lượng
và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Điều này có thể gây ra mất cân bằng và
suy thoái môi trường, ảnh hưởng đến sự bền vững và sinh thái của quốc gia.
Bên cạnh đó, thực trạng gia tăng dân số cũng đặt ra những thách thức trong
lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
việc cải thiện chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khỏe, nhưng với số lượng dân số
gia tăng, nhu cầu về các cơ sở giáo dục và cơ sở y tế đang tăng cao. Đảm bảo mọi
người có truy cập đầy đủ và chất lượng đến các dịch vụ giáo dục và chăm sóc sức
khỏe trở thành một thách thức đối với chính phủ.
Ngoài ra, tác động xã hội của sự gia tăng dân số cũng không thể bỏ qua. Với
dân số tăng nhanh, Việt Nam đối mặt với áp lực lớn về việc tạo ra việc làm và cơ
hội sinh kế cho tất cả mọi người. Sự gia tăng dân số đồng nghĩa với việc tạo ra cơ
hội việc làm cho mọi người. Tuy nhiên, nhu cầu việc làm không đáp ứng được tốc
độ gia tăng dân số, đặc biệt là với lĩnh vực nông nghiệp và lao động. Điều này gây
ra tình trạng thất nghiệp, đặc biệt là trong đối tượng trẻ tuổi. Vấn đề thất nghiệp và lOMoAR cPSD| 58833082
mất cân đối trong phân phối thu nhập có thể trở thành những vấn đề nổi cộm, ảnh
hưởng đến sự ổn định xã hội và an ninh.