Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội | Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học Mác – Lênin
Tầm quan trọng của ý thức là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức không phải là một thực thể độc lập, mà là một phản ánh của thực tế vật chất. Ý thức bao gồm tư tưởng, quan điểm, giá trị và tri thức của con người. Nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành và thay đổi xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
BIỆN CHỨNG VỀ Ý THỨC, VAI TRÒ CỦA
TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Triết học Mác - Lênin MÃ SỐ LỚP HP: GVHD: NHÓM THỰC HIỆN:
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC:
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG /NĂM
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài: ĐIỂM: NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...............................1
3. Phương pháp thực hiện đề tài..................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................4
CHƯƠNG 1. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý THỨC..........................................4
1.1. Nguồn gốc của ý thức............................................4
1.1.1.............................................Nguồn gốc tự nhiên 4
1.1.2.................................................Nguồn gốc xã hội 5
1.2. Bản chất của ý thức...............................................6
1.3. Kết cấu của ý thức................................................7
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI..............................................10
2.1. Khái niệm “tri thức khoa học” theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng....................................10
2.1.1........................................Khái niệm về “tri thức” 11
2.1.2........................................Các loại hình “tri thức” 11
2.2. Mối quan hệ giữa ý thức và “tri thức khoa học”....12
2.3. Vai trò và ứng dụng của “tri thức khoa học” trong
sự phát triển của xã hội.............................................13
2.3.1...................................................Lĩnh vực kinh tế 13
2.3.2.................................................Lĩnh vực chính trị 16
2.3.3...............................Lĩnh vực văn hóa và giáo dục 16
2.3.4.......Lĩnh vực khoa học – công nghệ và môi trường 18
KẾT LUẬN......................................................................20 1 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tầm quan trọng của ý thức là chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng ý thức không phải là một thực thể độc lập, mà là một
phản ánh của thực tế vật chất. Ý thức bao gồm tư tưởng, quan
điểm, giá trị và tri thức của con người. Nó có vai trò quan trọng
trong việc hình thành và thay đổi xã hội. Vai trò của tri thức khoa
học là một phần quan trọng của ý thức. Nó được xây dựng dựa
trên phương pháp khoa học, thông qua quá trình nghiên cứu, thử
nghiệm và lý luận. Tri thức khoa học cung cấp cho con người hiểu
biết về thế giới xung quanh, giúp giải thích các hiện tượng tự
nhiên và xã hội, và đưa ra các phương pháp giải quyết vấn đề. Sự
phát triển của xã hội là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự
phát triển của xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của các lĩnh vực
khoa học và công nghệ. Tri thức khoa học giúp con người hiểu rõ
hơn về tự nhiên và xã hội, từ đó đưa ra các phương pháp và công
nghệ mới để cải thiện cuộc sống và phát triển xã hội. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng coi tri thức khoa học là một yếu tố quan trọng
trong việc thay đổi xã hội. Qua việc nghiên cứu và áp dụng tri thức
khoa học, con người có thể thay đổi và cải thiện các mặt của xã
hội, từ kinh tế, công nghệ, giáo dục, y tế đến văn hóa và nghệ
thuật. Đó cũng là lí do nhóm chúng em chọn đề tài “quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của tri thức
khoa học trong sự phát triển của xã hội” làm đề tài tiểu luận của
mình. Để qua đề tài này nhóm sẽ cung cấp những hiểu biết nhất
định và cái nhìn đúng đắn hơn về quan hệ phức tạp giữa ý thức và 2
vật chất, cũng như vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu về quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa
học trong sự phát triển của xã hội.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận phải tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Phân tích về quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng đối với ý thức
Thứ hai: Khái quát được nội dung và tầm quan trọng của tri
thức; nêu lên mối quan hệ giữa ý thức và tri thức đồng thời phân
tích vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đồng thời để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu cũng như đạt
được mục tiêu của đề tài, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: -
phương pháp phân tích và tổng hợp: nhóm tác giả sử dụng
phương pháp này để nghiên cứu cơ sở lý luận về quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, đó có thể là hệ thống các định nghĩa, các mối
quan hệ của ý thức và tri thức xã hội. Phương pháp này 3
giúp nhóm nghiên cứu đề tài làm sáng tỏ các khái niệm,
cách hiểu và nội dung của quan điểm chủ nghĩa duy vật
biện chứng đối với ý thức. -
Phương pháp lịch sử: nhóm tác giả đã tích hợp nó chặt chẽ
vào nghiên cứu để thu thập và phân tích nguồn tư liệu lịch
sử. Qua đó, xây dựng một cơ sở tương quan về lịch sử,
giúp hiểu rõ hơn về quá trình hình thành và biến đổi của
quan điểm chủ nghĩa duy vật chứng đối với ý thức. Đồng
thời, cũng nhấn mạnh tác động của tri thức khoa học trong
quá trình phát triển xã hội suốt qua các giai đoạn lịch sử. -
Phương pháp logic được kết hợp chặt chẽ với phương pháp
lịch sử nhằm phác họa rõ mối quan hệ giữa tri thức và ý
thức. Điều này không chỉ đảm bảo tính logic và hợp lệ của
các quan điểm và tuyên bố trong nghiên cứu mà còn thể
hiện sự chặt chẽ và khoa học trong quá trình phân tích. 4 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý THỨC
1.1. Nguồn gốc của ý thức 1.1.1.
Nguồn gốc tự nhiên
Trước C.Mác bởi sự lạc hậu của công nghệ và giới hạn về kiến
thức do đó có nhiều nhà triết học chưa thể đưa ra các nhận định
đúng về ý thức hoặc có thể đưa ra các nhận định ban đầu nhưng
vẫn chưa giải thích được hoàn toàn nguồn gốc tự nhiên của nó,
đến sau này cùng với sự xuất hiện của nhiều thành tựu mới của
khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học – thần kinh hiện đại. Các
nhà triết học lỗi lạc của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa những nhận
định đúng đắn đầu tiên đặt nên móng cho việc giải thích nguồn
gốc tự nhiên của ý thức. Họ cho rằng: “Ý thức chỉ là thuộc tính của
vật chất; nhưng không phải là mọi dạng của vật chất, mà là thuộc
tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc con
người”1. Trong đó bộ óc của con người là cơ quan vật chất của ý
thức và ý thức chính là chức năng của bộ óc con người, và khi bộ
óc của con người bị tổn thương thì ý thức sẽ không bình thường
hoặc bị rối loạn. Chính vì thế, có thể nói ý thức và bộ óc của con
người có một mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và không thể tách rời.
Tuy nhiên, nếu bộ óc của con người chỉ đứng riêng lẻ mà
không có sự tác động của các tác nhân bên ngoài để bộ óc phản
ánh lại tác động đó thì ý thức cũng không tồn tại.
1 Bộ giáo dục và đào tạo(2021 ), Giáo trình triết học Mác- Lênin, Nxb.Chính trị Quốc Gia Sự thật, trang 152 5
Phản ánh là tính chất phổ biến của tất cả các dạng vật chất,
được biểu hiện thông qua sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối
tượng vật chất với nhau, phản ánh chính là năng lực lưu giữ và tái
hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống
vật chất khác. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai đối
tượng – đối tượng tác động và đối tượng nhận tác động. Trong quá
trình phản ánh, thông tin luôn được chuyển đến từ đối tượng tác
động đến đối tượng nhận tác động. Điều rất quan trọng trong việc
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
xuất phát từ thuộc tính của vật chất. Ý thức là kết quả của sự phát
triển dài hạn của khả năng phản ánh của vật chất, chủ yếu mang
thông tin về thế giới bên ngoài và về vật được phản ánh. Ý thức là
sự phản ánh của thế giới vào bộ não con người. Mặc dù bộ não
tham gia vào quá trình phản ánh, nhưng chỉ có riêng bộ não
không đủ để tạo ra ý thức. Hoạt động ý thức chỉ xảy ra khi thế giới
bên ngoài tác động lên giác quan và thông qua chúng tới não bộ.
Do đó, ý thức có nguồn gốc tự nhiên từ sự tương tác giữa bộ não và thế giới xung quanh. 1.1.2. Nguồn gốc xã hội
Để giải thích sự ra đời của ý thức, nguồn gốc tự nhiên tuy
quan trọng và không thể tách rời song vẫn chưa đủ điều kiện
quyết định cho sự ra đời của ý thức. Ý thức không thể tồn tại và
phát triển nếu không đi kèm với sự phát triển của lao động và 6
ngôn ngữ. Như vậy có thể nói ý thức là một sản phẩm được tạo ra
từ xã hội và nguồn gốc xã hội.
Lao động đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giải
thích nguồn gốc xã hội của ý thức, vì lao động không chỉ là một
công việc vật chất mà còn là một hoạt động sáng tạo. Thông qua
lao động và nhờ lao động mà ý thức thể hiện được rõ nét đặc tính
phản ánh của nó qua việc con người liên tục tác động vào các đối
tượng hiện thực bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, kết cấu,
quy luật vận động thành những hiện tượng nhất định và các hiện
này tác động trở lại bộ não con người từ đó giúp con người tư duy
và tạo ra các sản phẩm mới mang giá trị cho sự phát triển của xã
hội, bên cạnh đó qua sự tương tác giữa lao động và đối tượng lao
động làm hình thành các mối quan hệ giữa người lao động và môi
trường xã hội tạo ra một quá trình đối tượng hóa, và cũng từ đó ý
thức được hình thành thông qua tương tác này. Tóm lại cho ta
thấy được ý nghĩa quan trọng của lao động trong quá trình giải
thích nguồn gốc của ý thức và cũng cho ta thấy được rằng ý thức
chỉ được hình thành thông qua hoạt động chủ động và thực tiễn
của con người. Nhờ sự tác động vào thế giới mà con người khám
phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm cho ý thức của
mình về thế giới trở nên phong phú và sâu sắc hơn.
Bên cạnh lao động, ngôn ngữ cũng là một yếu tố xã hội
không thể thiếu trong việc giải thích nguồn gốc của ý thức,
Ph.Ăngghen đã từng phát biểu: “trước hết là lao động; sau lao
động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích
thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của vượn, làm cho bộ óc đó 7
dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”2. Thật vậy,
không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Như vậy, nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất đằng sau sự
hình thành và phát triển của ý thức là do lao động và ngôn ngữ. Ý
thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản
phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2. Bản chất của ý thức
Khác với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
do không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý thức nên đã không đưa
ra được những quan điểm đúng đắn về bản chất của ý thức. Chủ
nghĩa duy vật trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của
ý thức và nắm vững thuyết phản ánh, chủ nghĩa duy vật đã đưa ra
các nhận định đúng đắn về bản chất của ý thức khi cho rằng ý
thức không phải là bản sao đơn giản và thụ động máy móc của sự
vật. Mà ý thức chính là những phản ánh của con người về thế giới
khách quan trong quá trình con người tác động và cải tạo thế giới
mà con người là một thực thể sáng tạo và năng động nên ý thức
chính là sự phản ánh có tính năng động và sáng tạo. Ý thức là sự
phản ánh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Nói
cách khác, ý thức chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tóm lại, bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chính thực
tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động 2
C Mác và Ph.Ăngghen: toàn tập, Sđd, t.20, tr.646 8
và sáng tạo của não bộ. Và quá trình ý thức là quá trình thống
nhất của 3 yếu tố sau đây:
Thứ nhất là sự trao đổi thông tin hai chiều, có định hướng và
chọn lọc giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
Thứ hai là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh. Tức quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, hay biểu
diễn các đối tượng vật chất thành các ý thức phi vật chất .
Cuối cùng là chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách
quan, tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua biến các ý
tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. 1.3.
Kết cấu của ý thức
Ý thức là một định nghĩa phức tạp nó được xây dựng từ cá
định nghĩa nhỏ hơn bao gồm định nghĩa về tri thức, cảm xúc và ý
chí vì vậy muốn phân tích và hiểu sâu hơn về kết cấu của ý thức
thì ta phải phân tích từ những định nghĩa cấu thành nên nó
- Tri thức bao gồm nhiều yếu tố như kiến thức, thông tin, sự
hiểu biết, kỹ năng có được thông qua trải nghiệm, thông qua giáo
dục hoặc tự học hỏi. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối
tượng (về mặt lý thuyết hoặc thực hành). Nó có thể ẩn tàng,
chẳng hạn những kỹ năng hay năng lực thực hành, tường minh,
như những hiểu biết lý thuyết về một đối tượng; nó có thể ít nhiều
mang tính hình thức hay có tính hệ thống. Theo C.Mác, “phương
thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với 9
ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý
thức, chừng nào ý thức biết cái đó”
Tri thức gồm hai loại: Tri thức thông thường, là những nhận
thức thu nhận được từ hoạt động thường ngày của mỗi cá nhân,
mang tính cảm tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc chưa có tính hệ
thống; Tri thức khoa học là tri thức đã được đúc kết từ thực tiễn
thành lý luận kinh nghiệm.
Muốn cải tạo đối tượng thì phải có sự hiểu biết về đối tượng
đó. Chính vì vậy, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý
thức phải là tri thức. Ý thức mà thiếu đi tri thức chỉ là sự trừu
tượng trống rỗng, vô dụng trong các hoạt động thực tiễn. Con
người càng tích lũy được nhiều tri thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau
thì càng thông thái, hoàn thiện và có năng lực cải thiện và phát
triển bản thân cũng như xã hội. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý
thức và tri thức vì bên cạnh tri thức thì còn nhiều yếu tố khác.
- Ý thức không phản ánh hiện thực khách quan thụ động mà
phản ánh một cách tích cực, sáng tạo. Trong quá trình phản ánh
đó, thái độ của con người với đối tượng đã nảy sinh. Đó chính là
cảm xúc hoặc tình cảm. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự
phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và
mối quan hệ giữa người và thế giới quan. Cảm xúc rất đa dạng và
phong phú. Khác với tri thức được kiểm chứng và công nhận rộng
rãi, cảm xúc lại không có một thước đo rõ ràng và còn mang tính
cá nhân. Đứng trước cùng một đối tượng có người thì nảy sinh sự
say mê, yêu thích, có người thì lại thấy chán nản, ghét bỏ. Trong 10
cùng một hoàn cảnh, có người thấy vui vẻ, có người lại buồn bã đó
là lẽ thường tình. Một khi tri thức gắn với tình cảm thì hoạt động
của con người sẽ được tăng lên gấp bội.
- Trong quá trình thực hiện kế hoạch, mục tiêu của bản thân,
ta không thể tránh khỏi việc phải chạm trán đối mặt với những
gian nan, thử thách. Muốn vượt qua khó khăn, bên cạnh trang bị
những tri thức, tình cảm, chúng ta phải có ý chí, quyết tâm. Ý chí
chính là những cố gắng, nỗ lực cùng khả năng huy động tối đa
tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua
mọi trở ngại, đạt được mục đích đề ra. Ý chí giúp con người xác
định được mục đích cho hành động của bản thân và xa hơn thế
nữa, xác định mục đích sống. Ý chí tạo nên một lập trường vững
vàng để giúp ta tránh bị lay động bởi lời xúc giục, những lời đàm
tiếu của thế giới xung quanh.
Bên cạnh việc phân chia theo các lớp cấu trúc, ý thức còn
được biểu hiện qua các cấp độ khác nhau như tự ý thức, tiềm thức
và vô thức. Để dễ hình dung, ta thử tưởng tượng một tảng băng
với bề nổi là tự ý thức, tầng băng chìm ở giữa là tiềm thức và tầng
băng chìm sâu nhất là vô thức.
- Phần tảng băng nổi lên mặt nước đại diện cho tự ý thức. Tự
ý có thể được hiểu một cách đơn giản là quá trình ý thức tự phản
ánh bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Được
nhận xé là thành tố quan trọng bởi lẽ. Tự ý thức thể hiện trình độ
phát triển của ý thức hay nói cách khác, trình độ phát triển nhân
cách cũng như khả năng làm chủ bản thân của mỗi cá nhân. Khi 11
phản ánh thế giới khách quan, chúng ta cũng tự phân biệt, tách
mình với thế giới đó để đưa ra các đánh giá. Nhờ vậy, chúng ta tự
ý thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác,
có suy nghĩ, tư duy, có các quan điểm, tình cảm, tư tưởng, động
cơ, địa vị, lợi ích của riêng mình. Tự ý thức đóng một vai trò thiết
yếu, là nền tảng, cơ sở để con người tự điều chỉnh hành vi của bản
thân sao cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội, chủ thể tích
lũy được và đã trở thành bản năng. Tiềm thức có vai trò quan
trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất
chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần.
Hoạt động của tiềm thức giống như một nút bấm kích hoạt chế độ
tự động, góp phần giảm nhẹ căng thẳng, áp lực lên ý thức trong lao động thường ngày.
- Tiếp đến, được biểu diễn bằng phần tảng băng chìm dưới
mặt nước chính là tiềm thức. Tiềm thức hay còn gọi là ý thức dưới
dạng tiềm năng là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự
kiểm soát của ý thức nhưng lại có liên kết trực tiếp với những hoạt
động tâm lý diễn ra dưới sự kiểm soát của ý thức. Tiềm thức chính
là những tri thức mà chủ thể tích lũy được và đã trở thành bản
năng. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy
khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính
xác, được lặp lại nhiều lần. Hoạt động của tiềm thức giống như
một nút bấm kích hoạt chế độ tự động, góp phần giảm nhẹ căng
thẳng, áp lực lên ý thức trong lao động thường ngày.
- Cuối cùng, phần tảng băng đã nằm sâu dưới đáy đại dương,
nơi mà con người khó có thể quan sát được, là minh họa cho vô 12
thức. Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều
khiển, diễn ra ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát
được. Biểu hiện điển hình của vô thức là những phản xạ không
điều kiện, ví dụ như chạm vào vật nóng thì rụt tay lại. Ngoài ra, vô
thức còn biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản
năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ lời,... Mặc dù có những
đặc điểm và vai trò riêng nhưng nhìn chung, tất cả các hiện tượng
của vô thức đều thực hiện nhiệm vụ giải tỏa những ức chế trong
hoạt động thần kinh vượt ngưỡng.
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
2.1. Khái niệm “tri thức khoa học” theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng 2.1.1.
Khái niệm về “tri thức”
Trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khái
niệm về “tri thức” không chỉ là sự tích lũy thông thường€mà còn
liên quan mật thiết đến quá trình nhận thức và phản ánh thế giới
xung quanh. Theo triết lý duy vật biện chứng, tri thức không phải
là một thực thể tĩnh lẻ, mà là một quá trình động đưa ra biểu hiện
của nó thông qua sự tương tác giữa ý thức và thế giới.
Tri thức được coi là sản phẩm của quá trình nhận thức, nơi
con người tương tác với thế giới bằng cảm giác, trí tưởng tượng và
suy nghĩ. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi cá nhân mà còn có
tính chất xã hội, được xã hội hóa qua việc chia sẻ, truyền đạt và
xử lý thông€qua các thể hiện như ngôn ngữ, văn hóa và khoa học. 13 2.1.2.
Các loại hình “tri thức”
Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh sự đa dạng và
phong phú của tri thức, phản ánh sự phức tạp và biến động của
thế giới. Có nhiều loại hình tri thức và chúng không tồn tại độc lập
mà liên kết chặt chẽ với nhau.
Tri thức khoa học: Là một dạng tri thức đặc biệt, nó là sản
phẩm của quá trình nghiên cứu và phân tích có hệ thống của thế
giới xung quanh. Tri thức khoa học đặt ra các giả thuyết, thực
nghiệm và lý luận để hiểu rõ cấu trúc và luật lý của tự nhiên và xã hội.
Tri thức phi khoa học: Gồm những kiến thức và kinh nghiệm
tích lũy thông qua cuộc sống hàng ngày, nó không nhất thiết phải
theo quy trình khoa học nhưng vẫn đóng góp vào sự hiểu biết và
tạo ra sự đa dạng trong tri thức con người.
Tri thức văn hóa: Bao gồm những giá trị, quan niệm và kiến
thức được chia sẻ trong một cộng đồng. Tri thức văn hóa định hình
các tư duy, hành vi và quan hệ xã hội, góp phần tạo nên bản sắc
và đa dạng của mỗi văn hóa.
Tất cả những loại hình tri thức này không chỉ tác động đến
nhau mà còn tương tác với thế giới xã hội và tự nhiên, tạo nên
một hệ thống phức tạp. Chúng hỗ trợ nhau trong việc tái tạo, phát
triển và thay đổi, thể hiện tính liên kết chặt chẽ và sự phức tạp
của tri thức trong quá trình tiến bộ con người.
2.2. Mối quan hệ giữa ý thức và “tri thức khoa học” 14
Mối quan hệ giữa ý thức và “tri thức khoa học” rất chặt chẽ.
Ý thức là khả năng nhận thức, hiểu biết của con người về thế giới
xung quanh chúng ta. Nó bao gồm những suy nghĩ, cảm xúc, ý
thức về bản thân và ý thức về thế giới bên ngoài. Ý thức không chỉ
giới hạn trong lĩnh vực khoa học.
Tri thức khoa học là sự hiểu biết và kiến thức được thu thập
và xác định bằng phương pháp khoa học. Nó dựa trên quan sát,
thử nghiệm, phân tích và lý thuyết hóa để tạo ra kiến thức có tính
chất khách quan và có thể được kiểm chứng.
Ý thức và tri thức khoa học tương tác với nhau. Tri thức khoa học
cung cấp cho ý thức một cơ sở thông tin và kiến thức để hiểu và
giải thích thế giới xung quanh. Nó giúp ý thức phát triển và mở
rộng, cho phép chúng ta nhìn nhận và giải quyết các vấn đề theo
cách khoa học. Tri thức khoa học có thể là một phần của ý thức,
đặc biệt là phần liên quan đến sự hiểu biết về thế giới dựa trên
phương pháp khoa học và kiến thức được xây dựng qua thời gian.
Tri thức khoa học có thể cung cấp cho ý thức một cơ sở thông tin
và hiểu biết rõ ràng hơn về các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, ý thức cũng bao gồm những khía cạnh khác ngoài tri
thức khoa học, chẳng hạn như cảm xúc, giá trị và quan điểm cá
nhân, ý thức cũng ảnh hưởng đến tri thức khoa học. Ý thức của
chúng ta có thể tác động đến cách chúng ta tiếp nhận, hiểu và
chấp nhận tri thức khoa học. Nó có thể ảnh hưởng đến quan điểm,
giả định và giá trị mà chúng ta áp dụng trong quá trình nghiên cứu khoa học. 15
Đúc kết có thể nói ý thức và “tri thức khoa học” là hai khía
cạnh quan trọng trong quá trình hiểu biết và tìm hiểu về thế giới.
Mối quan hệ giữa chúng là tương đối phức tạp và tương tác hỗ trợ
lẫn nhau, đóng góp vào sự phát triển và tiến bộ của con người
trong việc khám phá và hiểu biết về thế giới xung quanh.
2.3. Vai trò và ứng dụng của “tri thức khoa học” trong sự
phát triển của xã hội 2.3.1. Lĩnh vực kinh tế
Trong phát triển kinh tế, ai trong số chúng ta không cần nói
cũng biết tri thức đóng vai trò rất quan trọng đối với sự ra đời của
những phát minh khoa học kỹ thuật phục vụ, hỗ trợ€cho€hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Dựa vào tri thức mà những suy nghĩ tưởng
như không thể lại thành có thể và giờ đây chúng ta đang được
sống trong nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế có sự sản sinh ra,
phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế, tạo ra vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống.€
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành áp dụng được nhiều
thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ và nhờ vào tri thức
như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, những ngành€nghề
“hot” trong tương lai ở Việt Nam nhưng các ngành kinh tế
truyền thống như nông nghiệp,€công nghiệp trọng điểm nằm
trong danh sách được thừa hưởng và ứng dụng khoa học công
nghệ cao. Sở dĩ các nước phát triển ngày nay có tốc độ phát triển
nhanh là do sản phẩm của họ có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng
giá trị do trí tuệ tạo ra và đã được kết tính khéo léo trong sản
phẩm. Xã hội đã làm nên một nền kinh tế tri thức mà sản phẩm 16
được sản xuất dựa trên thành tựu mới của khoa học công nghệ,
dựa trên những tri thức mà con người đã đạt được ngày càng
phong phú, đáp ứng tốt những yêu cầu về vật chất cũng như tinh thần của con người.€
Tuy nhiên tri thức khoa học cũng là một trong những tác
động tiêu cực đến nền kinh tế dẫn đến tồn tại nhiều mặt trái của
nền kinh tế hiện nay chính là có sự phân hóa giữa nước giàu và
nước nghèo về những yếu tố như thu nhập, tuổi thọ, giáo dục và
chất lượng cuộc sống. Điều gì cũng có hai mặt đó là điều tất yếu
khách quan tồn tại trên thế giới này bởi vậy nếu xã hội muốn áp
dụng thành tựu của tri thức khoa học thì phải chấp nhận cả những
tác động tiêu cực trên. Có như vậy mọi thứ mới dung hòa được đề
cùng tồn tại trong một thế giới.€
Những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới trên
phạm vi toàn thế giới làm cho lợi thế đối với mỗi quốc gia không
ngừng biến đổi. Làm thay đổi mối quan hệ giữa các nước trong số
đó mỗi nước đều có cơ hội rất nhiều để tìm ra lợi thế so sánh đổi
mới cho mình và đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới. Trong
điều kiện như vậy, các nước phụ thuộc lẫn nhau tiến bộ rất mạnh
mẽ khoa học, kỹ thuật thật sự đóng góp rất lớn vào quá trình quốc
tế hóa đời sống kinh tế đã làm nảy sinh sự liên kết kinh tế đa dạng
nhiều chiều. Chính tiến bộ khoa học, kỹ thuật một mặt đang làm
thay đổi những quan điểm trước đây về một nền kinh tế độc lập tự
chủ hoàn chỉnh dẫn đến thế giới một chỉnh thể đầy mâu thuẫn đòi
hỏi phải có cách giải quyết mới. Mặt khác dẫn đến sự cấu trúc lại
nền kinh tế trên phạm vi thế giới lẫn trong nội bộ từng nước. Nền