Quan điểm của triết học mác- lênin về con người và bản chất con người, liên hệ với quá trình biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình, nhà trường hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin
Con người luôn là một trong những chủ đề trung tâm của triết học, và tính phức
tạp, sự đa dạng, phạm vi vô hạn, giá trị và tầm quan trọng thực tiễn toàn diện của chủ đề này khiến nó trở thành đối tượng nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA CHÍNH TRỊ LUẬT
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN
CHẤT CON NGƯỜI, LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG
GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
GVHD: TS. NGUYỄN THỊ TRI LÝ SVTH: 1. Đoàn Cao Thái 23133070 2. Lê Trần Tuấn Anh 23133003
3. Nguyễn Thị Kim Oanh 23133053
4. Nguyễn Tấn Thành 23133068
5. Nguyễn Lê Hoàng Kiệt 23133040
Mã lớp học: LLCT130105_23_1_41
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2023
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ ST HỌ VÀ TÊN MSSV Nhiệm vụ Điểm số T 1 Lê Trần Tuấn Anh 23133003 Phần 2 2 Nguyễn Thị Kim Oanh 23133053 Phần 1 3 Nguyễn Tấn Thành 23133068 Phần 3 4 Nguyễn Lê Hoàng Kiệt 23133040 Phần 4 5 Đoàn Cao Thái 23133070 Tổng hợp, làm word
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
Điểm: …………………………….. Ký tên MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1.1 Lý do chọn đề tài.....................................................................................1
1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................2
1.3 Phương pháp nghiên cứu........................................................................2
1.4 Kết cấu bài luận......................................................................................2
PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-
LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.......................................4
2.1 Lý luận chung về vấn đề con người...........................................................4
2.1.1. Những quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử.............4
2.1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người......................5
2.2 Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người..............7
2.2.1 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội................7
2.2.2 Sự tác động qua lại giữa bản chất con người và các mối quan hệ
xã hội..................................................................................................................... 7
2.2.3 Vai trò quan trọng của việc giải phóng con người.........................8
PHẦN 3: KIẾN THỨC LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI QUÁ TRÌNH
BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG
HIỆN NAY................................................................................................................. 10
3.1 Vai trò của việc giáo dục trong gia đình, nhà trường.........................10
3.1.1 Giáo dục trong gia đình, nhà trường có ý nghĩa rất lớn trong
phát triển nhân cách đạo đức, cũng như tri thức cho con người....................10
3.1.2 Đặc điểm của quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình, nhà trường việt nam hiện nay.................................................................11
3.2. Thực trạng của quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia đình,
nhà trường việt nam hiện nay...............................................................................12
3.2.1 Nguyên nhân tác động đến quá trình thực hiện chức năng giáo
dục của gia đình, nhà trường............................................................................12
3.2.2 Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện chức năng
giáo dục trong gia đình, nhà trường.................................................................14
3.2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dục
trong gia đình, nhà trường................................................................................14
KẾT LUẬN................................................................................................................ 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................18 PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài.
Con người luôn là một trong những chủ đề trung tâm của triết học, và tính phức
tạp, sự đa dạng, phạm vi vô hạn, giá trị và tầm quan trọng thực tiễn toàn diện của chủ
đề này khiến nó trở thành đối tượng nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học. Mọi
thời đại. Mỗi triết gia và các trường phái triết học khác nhau đều có những quan điểm,
nội dung, sắc thái riêng về con người, phản ánh những quan điểm, bối cảnh lịch sử,
chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau. Quan điểm của Hegel phát triển theo hướng chủ
nghĩa duy tâm, siêu nhiên và phi vật chất. Quan điểm của Feuerbach tiến bộ hơn vì
con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ đến khi triết học Mác - Lênin ra
đời, quan điểm về con người và bản chất con người mới được thể hiện đầy đủ, hài hòa với chủ nghĩa duy vật.
Khi nhìn nhận một cách khách quan những thành tựu to lớn mà Đảng và dân tộc
ta đã, đang và sẽ đạt được thì chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng tỏ tầm quan trọng và
tiềm năng của nó đối với công cuộc xây dựng nhân loại. Những người theo chủ nghĩa
xã hội mới ở Việt Nam ngày nay. Đối với một đất nước như Việt Nam, tích cực phát
triển và bám sát con đường xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”, phát triển kinh
tế - xã hội cuối cùng là vì con người và hướng tới con người. Xuất phát từ thực tế này,
phát triển con người toàn diện là động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, là đường lối cơ bản, lâu dài của Đảng và nước ta. Nghị quyết Đại hội VIII của
Đảng đã nêu rõ: “Nâng cao dân trí và phát huy, phát huy những nguồn lực to lớn của
nhân dân Việt Nam là nhân tố quan trọng làm nên thành công của công nghiệp hóa ở
đất nước vĩ đại hiện nay”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, phát triển con người còn gặp nhiều
khó khăn, trở ngại cần được quan tâm, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan khác nhau, dẫn đến chất lượng phát triển thấp, chưa phát huy đúng tiềm
năng, vai trò. Vì vậy, việc xác định rõ những vấn đề, quan điểm lý luận và thực tiễn về
phát triển nguồn nhân lực, nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là hết sức cấp thiết. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp phù hợp
nhằm phát huy hiệu quả vai trò tích cực của yếu tố con người. 1
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người cùng với phương hướng
phát triển con người Việt Nam trong thời đại mới, nhóm em lựa chọn đề tài “Vấn đề
con người trong triết học Mác-Lênin. Vận dụng trong thực tiễn”.
1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu và nhiệm nghiên cứu của tiểu luận này là để làm sáng tỏ và giải thích
các quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con người. Mác - Lênin luôn coi
con người là chủ thể của lịch sử và là nguồn gốc của mọi giá trị. Họ nhấn mạnh vai trò
của con người trong xây dựng xã hội cộng sản và quá trình tiến bộ của xã hội. Từ đó
liên hệ với quá trình biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình, nhà trường hiện nay.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của nhân loại. Đề cập đến quan điểm Mác-
Lênin về vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển của loài người. Giải
thích ảnh hưởng của giáo dục đến nhận thức, ý thức và hành vi của con người. Ảnh
hưởng của bản chất con người đến giáo dục tại gia đình và trường học. Phân tích bản
chất con người ảnh hưởng như thế nào đến quá trình giáo dục . Làm rõ vai trò của gia
đình và nhà trường trong việc phát triển nhân cách và giáo dục đạo đức. Ảnh hưởng
của bản chất con người đến việc học. Nó mô tả bản chất con người ảnh hưởng đến
giáo dục ở trường như thế nào. Đánh giá vai trò của trường học trong việc phát triển kiến thức và kỹ năng.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp thông tin, tài liệu: Từ những kiến thức đã được học, tham
khảo các nguồn tài liệu từ các sách báo, từ những trang web, kênh chia sẻ thông tin trên Internet.
Phương pháp nghiên cứu phân tích và vận dụng: Từ những thông tin, tài liệu tiến
hành phân tích chọn lọc nhằm đưa ra những thông tin về vai trò của Triết học chính
xác và chi tiết nhất. Sau đó vận dụng đưa ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.
1.4 Kết cấu bài luận
Bài tiểu luận được chia làm 4 phần gồm: Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Phần kiến thức cơ bản: Lý luận của chủ nghĩa Marx-Lenin về con người 2
Phần 3: Phần kiến thức liên hệ: Vấn đè nghiên cứu với quá trình biến đổi chức
năng giáo dục trong gia đình, nhà trường hiện nay
Phần 4: Phần kết luận và tài liệu tham khảo 3
PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-
LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
2.1 Lý luận chung về vấn đề con người
2.1.1. Những quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử
Trong lịch sử, những quan điểm về con người đã trải qua những sự thay đổi đáng
kể tùy thuộc vào giai đoạn lịch sử, văn hóa và triết học của mỗi thời kỳ. Dưới đây là
một số quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử: 1.
Con người như Thượng đế:
Cổ Đại Hy Lạp (Thế kỷ 5 TCN): Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người
thường được coi là hình mẫu của vẻ đẹp và đức hạnh. Các nhà tư tưởng như Plate và
Aristotle thường đặt con người vào vị thế cao quý như thượng đế vô hình. 2.
Con người như một phần của tự nhiên:
Triết Học Đạo Lý Trung Cổ (Thế kỷ 5-15): Trong thời kỳ Trung Cổ, đặc biệt là
thời kỳ đạo lý Hồi giáo và Cơ đốc giáo, con người thường được coi là một phần của tự
nhiên và phải sống theo quy luật của đạo lý tự nhiên. 3.
Con người như một cá thể độc lập:
Thời Đại Khai Sáng (Thế kỷ 17 – 18): Trong thời kỳ Khai Sáng, những nhà tư
tưởng như John Locke và Jean-Jacques Rousseau đã đề xuất quan điểm về con người
như một cá thể độc lập, có quyền tự do và quyền tự do cá nhân. 4. Con người như lao động:
Thời Công Nghiệp Hóa ( Thế kỳ 19): Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp,
quan điểm về con người thường được liên kết với lao động và sản xuất. Karl Marx,
trong triết học Mác – Lênin, coi con người là một lao động viên, và bản chất con
người được hình thành thông qua mối quan hệ sản xuất. 5.
Con người như thành viên của xã hội:
Những Năm 1900 – Hiện Đại: Với sự phát triển của xã hội công nghiệp và sự
tăng trưởng của khoa học xã hội, những quan điểm về con người thường nhấn mạnh
vai trò của xã hội trong việc hình thành bản chất và hành vi của con người. Các trường
phát như học xã hội và cấu trúc xã hội thường coi con người như một thành viên của cộng đồng. 4 6. Con người như tâm linh:
Thời Kỳ Hậu Hiện Đại (Hiện Đại Muộn): Một số triết học và nhà tư tưởng hiện
đại như Sigmund Freud và Carl Jung đã đề cập đến khía cạnh tâm linh và tiềm thức
của con người, coi con người như một thực thể phức tạp với các chiều sâu tâm hồn.
Những quan điểm trên minh họa rằng nhận thức về con người luôn thay đổi theo
thời kỳ và ngữ cảnh văn hóa, đề cập đến sự đa dạng và phong phú của triết lý con người trong lịch sử.
2.1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người
Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội có trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thế của lịch sử, sáng tạo nên tất cả
các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một
thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái
sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không
bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa
rằng con người cũng như mọi động vật khác nhau phải tìm kiếm thức ăn, nước uống,
phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh con đẻ cái, tồn tại và phát triển. Nhưng
không được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự
sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất con người, mà con người còn là một
thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những
phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của
tự nhiên. “Giới tự nhiên...là thân thể vô cơ của
con người,.. đời sống thể xác và tinh
thần của con người gắn liền với giới tự nhiên. Về phương diện thực thể sinh học, con
người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một
bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên
và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khác quan. Đây chính là điểm khác biệt
đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác,
con người sống bằng những sản phẩm tú nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, áo quần, nhà ở, v.v.... Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận 5
của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự
nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên,
gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển.
Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự
trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội
quan trọng của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể
bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”. Nếu con vật phải sống
dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống
bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa
mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học, có
thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính,
có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người,
làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên
quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về
phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà
còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển
phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến
cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội
của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội
và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người
gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội,
khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp
của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức
của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng
nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và
tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một
trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Chính vì
vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. 6
2.2 Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người
2.2.1 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Con người vượt lên thế giới loài vật trên ba phương diện khác nhau: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ này đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người với người là quan hệ
bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên
quan đến con người. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện
tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con
người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Bản chất của con người luôn được
hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể những điều kiện lịch sử cụ
thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người, nhưng không phải là sự kết hợp
giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mối quan hệ
xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan
hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ
tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện
tượng, quan hệ kinh tế, v.v.. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản
chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản
chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con
người mới có thể bộc lộ được bản chất thật sự của mình, và cũng trong những quan hệ
xã hội đó thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội
khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện khác của đời
sống con người khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một
động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực
thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
2.2.2 Sự tác động qua lại giữa bản chất con người và các mối quan hệ xã hội
Con người là một hệ thống chính thể thống nhất cá thể - loài, mang những thuộc
tính cá thể, đơn nhất, lẫn những thuộc tính chung, phổ biến của loài, bản chất của nó là
tổng hòa các quan hệ xã hội. Nó là đại diện cho loài, cho xã hội, cho nhân loại, cho 7
lịch sử loài người. Trong con người, do vậy, luôn có những cái chung toàn nhân loại,
như các giá trị chung., nhu cầu chung, lợi ích chung, v.v... Nó cũng là đại biểu của một
xã hội cụ thể, một thời kỳ lịch sử xác định, có tính đặc thù, với các quan hệ xã hội nhất
định. Các quan hệ xã hội kết tinh trong mỗi con người luôn là quan hệ xã hội cụ thể
của một thời đại, một gia đình, một nhóm xã hội, một cộng đồng, một tập đoàn, một
giai cấp, một quốc gia - dân tộc xác định. Trong mỗi người còn có cả những cái riêng,
cái đơn nhất, đặc thù của cá thể, các nhân từ kinh nghiệm, tâm lý, trí tuệ, v.v... do
những điều kiện sống, do đặc điểm sinh học quy định. Nhờ đó, mỗi con người là một
cá thể, cá nhân riêng biệt, khác biệt nhau. “Con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân”.
Cá nhân và xã hội không tách rời nhau. Xã hội do các cá nhân cụ thể hợp thành,
mỗi cá nhân là một phần tử của xã hội sống và hoạt động trong xã hội đó. Khi mới
sinh ra, chưa có ý thức, chưa có các quan hệ xã hội thì con người mới chỉ là cá thể. Chỉ
khi cá thể đó giao tiếp xã hội, có những quan hệ xã hội nhất định, có ý thức trở thành
cá nhân. Cá nhân không thể tách rời xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội là tất yếu, là tiền
đề và điều kiện tồn tại và phát triển của cá nhân lẫn xã hội. Đương nhiên, quan hệ ấy
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào trình độ phát triễn xã hội. Sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào từng giai
đoạn lịch sử khác nhau.
2.2.3 Vai trò quan trọng của việc giải phóng con người
Triết học Mác - Lênin thực chất là học thuyết giải phóng con người, việc giải
phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và
tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại.
Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là
giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở
kiếp sau, hay nói cách khác chỉ là giải phóng ảo tưởng.
Triết học Mác - Lênin giải đáp một cách duy vật về vấn đề con người, bản chất
con người, vị trí vai trò của con người trong tiến trình lịch sử nhân loại. Những quan
niệm duy vật đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng lý luận về con người mà còn
nhằm mục đích giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giải phóng con người là xóa 8
bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hóa để con người trở về với chính mình, phát triển
bản tính chân chính của mình. Lênin nhận định rằng điểm chủ yếu trong học thuyết
Mác là làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải
phóng con người. Xã hội tư bản, theo Các Mác là một bước tiến trong lịch sử phát
triển của nhân loại, là cơ sở cho sự phát triển của bản chất con người, là điều kiện cho
sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại. Nhưng trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư
bản, khi mà tư liệu sản xuất chủ yếu còn nằm trong tay giai cấp tư sản thì con người
chưa thực sự được giải phóng về chính trị, cũng chưa được giải phóng về kinh tế, văn
hóa. Do vậy, cần phải có một lực lượng nào đó làm một cuộc cách mạng để xóa bỏ chế
độ áp bức bóc lột bất công, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xác lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Và lực lượng thực hiện điều đó chính là những
người đã bị tước đoạt tư liệu sản xuất hay còn được gọi là giai cấp vô sản. Bởi nếu
không xóa bỏ nó (chế độ tư hữu tư sản) thì tuyệt đại đa số nhân dân lao động sẽ không
có sở hữu, và như thế thì tình trạng con người chịu sự nô lệ vào người khác vẫn còn
tồn tại. Từ đó, C.Mác - Ph.Ăngghen đã khẳng định: “không thể thực hiện được một sự
giải phóng thực sự nào khác nếu không thực hiện sự giải phóng ấy trong thế giới hiện
thực và bằng những phương tiện hiện thực”. Xóa bỏ đi kiểu quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa cũng đồng thời với việc lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản là cơ sở xóa
bỏ tận gốc mọi điều kiện khiến con người bị áp bức. Xã hội chủ nghĩa sẽ là chế độ tốt
đẹp nhất trong lịch sử nhân loại, đảm bảo cho những quyền của con người, giải phóng
con người một cách triệt để nhất. Mục tiêu cuối cùng của giai cấp vô sản, của cách
mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã hội. Khi chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị thủ tiêu, lao động không còn bị tha hóa, con người
được giải phóng, khi đó xã hội là sự liên hiệp của các cá nhân, con người bắt đầu được
phát triển tự do. Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với giai
cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất của con người là tổng hòa các quan hê ‡ xã hội. Do
vậy, sự phát triển tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện cho sự phát triển tự do của
mọi người. Dĩ nhiên, điều đó cũng có nghĩa là sự phát triển tự do của mọi người, sự
phát triển của xã hội là tiền đề cho sự phát triển của mỗi cá nhân trong đó. Sự phát
triển tự do của mỗi người chỉ có thể đạt được khi con người thoát khỏi sự tha hóa,
thoát khỏi sự nô dịch do chế độ tư hữu các tư liệu sản xuất bị thủ tiêu triệt để, khi sự 9
khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay không
còn, khi con người không còn bị trói buộc bởi sự phân công lao động xã hội. Sự tự do
đem lại cho con người quyền được lao động, công bằng về mặt vật chất và cả tinh
thần, được tham gia vào tất cả các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các
năng lực của mình với việc thực hiện những nhu cầu cơ bản. Tự do cá nhân trong chủ
nghĩa xã hội không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng mà còn được
biểu hiện trong nghĩa vụ trách nhiệm của mỗi cá nhân. Vậy nên, chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới là giải pháp tối ưu cho các vấn đề xã hội liên quan đến sự phát triển của xã hội và con người.
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con người. Giải phóng con người được các nhà kinh điển triển
khai trong nhiều nội dung lý luân và trên nhiều phương diện khác nhau. Đấu tranh giai
cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng con người về phương diện chính trị là
nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục sự tha hóa của con người và của lao động
của họ, biến lao động sáng tạo trở thành chức năng thực sự của con người là nội dung có ý nghĩa then chốt
“Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi
cá nhân riêng biệt”. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,
việc giải phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc và tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Việc giải phóng con người được quan
niệm một cách toàn diện, đầy đủ, ở tất cả các nội dung và phương diện của con người,
cộng đồng, xã hội và nhân loại với tính cách là chủ thế ở các cấp độ khác nhau. Mục
tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải phóng
con người trên tất cả nội dung và các phương diện: con người cá nhân, con người giai
cấp, con người dân tộc, con người nhân loại,v.v...
Tư tưởng về giải phóng con người trong triết học Mác - Lênin hoàn toàn khác với
các tư tưởng giải phóng con người của các học thuyết khác đã và đang tồn tại trong
lích sử. Tôn giáo quan niệm giải phóng con người là sự giải thoát khỏi cuộc sống tạm,
khỏi bể khổ cuộc đời để lên cõi Niết bàn hoặc lên Thiên đường ở kiếp sau. Một số học 10
thuyết triết học duy vật cũng đã đề xuất tư tưởng giải phóng con người bằng một vài
phương tiện nào đó trong đời sống xã hội: Pháp luật, đạo đức, chính trị. Tính chất
phiến diện, hạn hẹp, siêu hình trong nhận thức về con người, về các quan hệ xã hội và
do những hạn chế về điều kiện lịch sử đã khiến cho những quan điểm đó sa vào lập
trường duy tâm, siêu hình.
“Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người,
những quan hệ của con người về với bản chất con người”, là “giải phóng con
người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa”. Tư tưởng đó thể hiện chính xác thực
chất của sự giải phóng con người, thể hiện lập trường duy vật biện chứng, khách quan,
khoa học trong việc nhận thức nguồn gốc, bản chất và đời sống của con người và
phương thức giải phóng con người. 11
PHẦN 3: KIẾN THỨC LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI QUÁ TRÌNH
BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
3.1 Vai trò của việc giáo dục trong gia đình, nhà trường
3.1.1 Giáo dục trong gia đình, nhà trường có ý nghĩa rất lớn trong phát triển
nhân cách đạo đức, cũng như tri thức cho con người
Giáo dục trong gia đình và nhà trường đều cung cấp những trải nghiệm, giáo dục,
và giáo lý quan trọng cho sự phát triển toàn diện của cá nhân. Gia đình là nơi đầu tiên
mà trẻ tiếp xúc với giáo dục đạo đức. Giáo dục gia đình đặt nền móng cho sự phát triển
đạo đức bằng cách truyền đạt giá trị, lòng trung hiếu, tình thương và các chuẩn mực
đạo đức cơ bản. Gia đình tạo điều kiện cho trẻ phát triển mối quan hệ tình cảm, tự tin,
và khả năng giao tiếp. Những kỹ năng này quan trọng để xây dựng một nhân cách lành mạnh và xã hội.
Nhà trường chủ yếu đóng vai trò trong việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng học
thuật cần thiết cho sự phát triển tri thức của học sinh. Giáo viên có trách nhiệm hướng
dẫn, tạo điều kiện để học sinh có thể phát triển khả năng tư duy, nắm bắt thông tin, và
sử dụng tri thức một cách hiệu quả. Nhà trường cũng là nơi mà học sinh học cách
tương tác với nhau và với giáo viên. Qua các hoạt động nhóm, dự án, và các tình
huống xã hội, họ phát triển kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, và quản lý mối quan hệ
xã hội. Giáo dục không chỉ là việc truyền đạt kiến thức mà còn là việc hình thành ý
thức cộng đồng. Nhà trường có thể giúp học sinh hiểu và đánh giá tầm quan trọng của
việc đóng góp vào cộng đồng và xã hội.
Giáo dục trong gia đình và nhà trường giúp học sinh phát triển kỹ năng tư duy và
sáng tạo. Qua việc khuyến khích tìm hiểu, giải quyết vấn đề và tham gia vào các hoạt
động sáng tạo, họ có thể phát triển khả năng tư duy logic và sáng tạo, làm giàu thêm
khả năng giải quyết vấn đề của mình. Giáo dục không chỉ dừng lại ở khía cạnh học
thuật mà còn liên quan mật thiết đến sự phát triển cảm xúc. Gia đình và nhà trường
cung cấp môi trường an toàn để học sinh thể hiện, hiểu rõ về cảm xúc của mình và của
người khác, giúp họ phát triển khả năng quản lý cảm xúc và xây dựng mối quan hệ tốt với người khác. 12
Giáo dục còn giúp hình thành ý thức văn hóa và đa văn hóa cho học sinh. Qua
việc học về lịch sử, văn hóa, và ngôn ngữ, họ có cơ hội hiểu và tôn trọng đa dạng văn
hóa trong xã hội, góp phần tạo nên một thế giới hòa bình và tôn trọng sự đa dạng. Giáo
dục không chỉ là quá trình nhận thông tin mà còn là việc hướng dẫn học sinh trở thành
người học tự chủ. Giáo viên và gia đình có thể khuyến khích phát triển kỹ năng tự học
và tự quản lý thời gian, giúp học sinh trở thành người tự tin và linh hoạt trong học tập
và cuộc sống. Giáo dục cũng có trách nhiệm xây dựng giá trị đạo đức xã hội. Học sinh
được khuyến khích nhận thức về trách nhiệm xã hội, đóng góp vào cộng đồng, và làm
công dân tích cực. Giáo dục trong gia đình và nhà trường có vai trò quan trọng trong
việc hình thành những công dân có ý thức và trách nhiệm.
3.1.2 Đặc điểm của quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, nhà
trường việt nam hiện nay
Quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia đình và nhà trường tại Việt
Nam hiện nay có những đặc điểm chung, đồng thời cũng phản ánh sự đa dạng trong hệ
thống giáo dục của đất nước này. Trong xã hội Việt Nam, gia đình thường đóng vai trò
quan trọng trong việc truyền đạt giáo dục, đạo đức và những giá trị truyền thống. Gia
đình có thể giúp hình thành nhân cách, tạo nền tảng cho giáo dục đạo đức và lòng
trung hiếu. Giáo dục tại nhà trường chủ yếu nhấn mạnh trên khía cạnh học thuật. Các
trường học cung cấp kiến thức, kỹ năng, và chuẩn mực giáo dục theo chương trình học
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhà trường còn đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kỹ năng xã hội và tự quản lý của học sinh.
Bên cạnh đó, công nghệ đang được tích hợp mạnh mẽ vào quá trình giáo dục cả
ở gia đình và nhà trường. Việc sử dụng máy tính, internet, và các ứng dụng giáo dục
đã mở ra nhiều cơ hội mới trong việc truyền đạt kiến thức và tạo ra các phương tiện
học tập hiện đại. Hệ thống giáo dục ở Việt Nam bao gồm cả các trường công lập, tư
thục, quốc tế và các trường nghề. Điều này tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn giáo dục
cho học sinh và sinh viên, đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển chất lượng giáo dục.
Cả gia đình và nhà trường đều chú trọng vào việc phát triển kỹ năng mềm cho
học sinh. Ngoài kiến thức học thuật, giáo dục ngày càng đặt sự chú ý vào các kỹ năng
như giao tiếp, làm việc nhóm, sáng tạo, và giải quyết vấn đề. 13
Chính phủ và các cơ quan quản lý giáo dục ở Việt Nam liên tục áp dụng chính
sách mới để cải thiện chất lượng giáo dục. Điều này bao gồm cả việc cải thiện cơ sở
vật chất, đào tạo giáo viên, và điều chỉnh các chương trình học. Việc hợp tác giữa gia
đình và nhà trường ngày càng được đề cao. Cả hai đối tác này cùng nhau chia sẻ trách
nhiệm trong việc hỗ trợ sự phát triển của học sinh. Các buổi gặp gỡ giữa phụ huynh và
giáo viên thường xuyên được tổ chức để thảo luận về tiến trình học tập của học sinh.
3.2. Thực trạng của quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia đình,
nhà trường việt nam hiện nay
3.2.1 Nguyên nhân tác động đến quá trình thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình, nhà trường
Yếu tố kinh tế là điều mà gia đình và nhà trường thường phải đối mặt. Gia đình
có điều kiện kinh tế kém có thể không cung cấp đầy đủ tài nguyên giáo dục cho con
em, trong khi các trường học có nguy cơ thiếu nguồn lực để cải thiện chất lượng giáo
dục. Sự phổ cập của công nghệ có thể ảnh hưởng đến quá trình giáo dục gia đình và
nhà trường. Gia đình và trường học cần có khả năng sử dụng công nghệ để cung cấp
thông tin và kiến thức, đồng thời đảm bảo rằng mọi người đều có cơ hội tiếp cận công nghệ này.
Yếu tố văn hóa và xã hội cũng có ảnh hưởng lớn đến quá trình giáo dục. Các giáo
trình và phương pháp giảng dạy cần phản ánh đúng giá trị và truyền thống văn hóa của
cộng đồng. Ngoài ra, sự chênh lệch xã hội và vấn đề nhân quyền có thể tác động đến
quyền lợi và cơ hội giáo dục của một số nhóm dân tộc, tôn giáo, hay giới tính. Các
chính sách giáo dục do chính phủ thiết lập có thể có ảnh hưởng đến quá trình giáo dục
ở cấp độ quốc gia. Chính sách về giáo viên, chương trình học, và cơ sở vật chất giáo
dục đều có vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường học tập hiệu quả.
Sự chia rẽ xã hội và giai cấp có thể làm tăng khoảng cách giáo dục giữa các tầng
lớp xã hội. Những gia đình và trường học ở các khu vực nghèo hơn thường gặp nhiều
khó khăn hơn trong việc cung cấp và tiếp cận giáo dục chất lượng. Hiệu quả của quá
trình giáo dục còn phụ thuộc nhiều vào khả năng quản lý và lãnh đạo của gia đình và
nhà trường. Gia đình cần có khả năng quản lý thời gian và tạo ra môi trường hỗ trợ học
tập. Nhà trường cần có lãnh đạo mạnh mẽ để xây dựng môi trường học tập tích cực. 14
Áp lực từ xã hội và gia đình đôi khi có thể tạo ra áp lực lớn đối với học sinh và
giáo viên. Áp lực này có thể ảnh hưởng đến tâm lý và hiệu suất học tập của họ. Mối
quan hệ giữa giáo viên và gia đình đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giáo
dục. Sự hợp tác và giao tiếp hiệu quả giữa giáo viên và phụ huynh có thể tạo ra một
môi trường học tập tích cực. Quá trình giáo dục còn phụ thuộc vào điều kiện vật chất
của gia đình và nhà trường. Gia đình cần có môi trường sống tốt, đầy đủ sách vở và
nguồn lực hỗ trợ học tập. Nhà trường cần có cơ sở vật chất đủ điều kiện, từ phòng học,
thư viện đến phòng thí nghiệm, để tạo ra môi trường học tập chất lượng.
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và các phương pháp giảng dạy hiện đại
yêu cầu gia đình và nhà trường không ngừng cập nhật và đổi mới phương pháp giảng
dạy. Việc sử dụng phương tiện giáo dục, giáo trình tương tác, và các phương pháp học
tập đa dạng giúp tăng cường sự hứng thú và hiệu quả của quá trình học. Môi trường
học tập ảnh hưởng đến tinh thần học tập của học sinh. Gia đình và nhà trường có thể
tạo ra môi trường thân thiện, khuyến khích sự tò mò và sáng tạo. Sự hỗ trợ và khuyến
khích từ gia đình và giáo viên có thể thúc đẩy sự phát triển tích cực của học sinh.
Chương trình học đa dạng giúp đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Gia đình
và nhà trường cần xem xét và điều chỉnh chương trình học để phản ánh đa dạng về mặt
năng lực và quan điểm văn hóa của học sinh. Quá trình giáo dục cần phải đảm bảo sự
chú ý và hỗ trợ cho học sinh có nhu cầu đặc biệt, bao gồm cả học sinh khuyết tật hoặc
có nhu cầu giáo dục đặc biệt. Gia đình và nhà trường có trách nhiệm tìm kiếm cách
tiếp cận và hỗ trợ hiệu quả nhất cho mọi học sinh.
Môi trường giáo dục không chỉ bị ảnh hưởng bởi gia đình và nhà trường mà còn
bởi cộng đồng xung quanh. Sự tương tác tích cực giữa gia đình, nhà trường và cộng
đồng có thể tạo ra một môi trường học tập đầy đủ và hỗ trợ cho học sinh. Chất lượng
giáo dục còn phụ thuộc lớn vào chất lượng của giáo viên. Việc đào tạo và phát triển
nghề nghiệp liên tục cho giáo viên là yếu tố quan trọng để cải thiện chất lượng giáo
dục. Gia đình và nhà trường cần hỗ trợ giáo viên trong quá trình nâng cao kỹ năng và kiến thức của họ. 15
3.2.2 Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện chức năng giáo
dục trong gia đình, nhà trường
Quá trình thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình và nhà trường ở Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý. Về gia đình, gia đình đã đóng góp vào việc
hình thành giá trị, đạo đức, và những chuẩn mực hành vi tích cực cho thế hệ trẻ. Việc
truyền đạt những giá trị này giúp xây dựng cộng đồng vững mạnh. Gia đình thường
chú trọng vào việc hỗ trợ sự phát triển toàn diện của con cái, bao gồm cả khía cạnh văn
hóa, nghệ thuật, thể thao, và kỹ năng sống. Gia đình cung cấp môi trường ổn định, an
toàn, và yêu thương, giúp trẻ phát triển tốt về tâm lý và tình cảm. Gia đình đã đạt được
thành tựu trong việc xây dựng mối quan hệ gia đình mạnh mẽ, tạo ra sự gắn kết và hỗ
trợ lẫn nhau trong các khía cạnh của cuộc sống. Gia đình thường khuyến khích sự tự
lập và sáng tạo ở con cái, giúp họ phát triển kỹ năng quản lý bản thân và giải quyết vấn đề.
Về nhà trường, hệ thống giáo dục đã có những bước phát triển tích cực, nâng cao
chất lượng giáo dục qua việc cập nhật chương trình, nâng cao trình độ đội ngũ giáo
viên, và áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại. Nhà trường đặt sự chú trọng vào
việc phát triển học sinh toàn diện không chỉ về mặt học vấn mà còn về mặt kỹ năng
mềm, tư duy phê phán, và khả năng làm việc nhóm. Nhà trường còn có sự chú trọng
và phát triển trong việc hỗ trợ học sinh có nhu cầu đặc biệt, giúp họ tích hợp tốt vào
môi trường học tập. Nhà trường thường khuyến khích sự sáng tạo và tư duy sáng tạo
thông qua các hoạt động ngoại khóa, dự án nghiên cứu, và các khóa học đặc biệt. Nhà
trường thường xuyên hợp tác chặt chẽ với gia đình và cộng đồng để tạo ra một môi
trường học tập tích cực và hỗ trợ cho sự phát triển của học sinh.
3.2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dục trong gia đình, nhà trường
Để nâng cao vai trò của giáo dục trong gia đình và nhà trường, có một số giải
pháp cơ bản mà cả hai bên có thể áp dụng. Trong gia đình, gia đình có thể tăng cường
giao tiếp thông qua việc tổ chức thời gian dành cho cuộc trò chuyện, thảo luận về ngày
làm việc của mỗi thành viên, và lắng nghe ý kiến của con cái. Giao tiếp là cơ hội để
chia sẻ giá trị, ý kiến, và hiểu biết về nhau. Gia đình có thể tích hợp giáo dục vào các
hoạt động hàng ngày, như đọc sách cùng nhau, thăm bảo tàng, hay tham gia các sự 16