



















Preview text:
 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM 
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ         
MÔN HỌC: TRI T HỌC C – LÊNIN       
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ   
QUAN ĐIỂM CỦA TRI T HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƢỜI 
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Đ P ỨNG 
YÊU CẦU SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN Ạ Đ I HÓA 
ĐẤT NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY   
Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Thị Quyết 
Thực hiện: Nhóm 16. Thứ 2 tiết 1. 2. 3 
Mã lớp học: LLCT130105_21_1_64 
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 1 năm 2022 
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA LÀM TIỂU LUẬN 
Nhóm 16 – Lớp thứ 2, tiết 1, 2, 3 
Đề tài: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn 
lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở  Việt Nam hiện nay.  Họ và tên 
Tỉ lệ hoàn thành  STT  MSSV  SV  (%)  Nguyễn Hương Giang  1  21132290  100%  (Trưởng nhóm)  2  Lê Thị Qu  ý 21132182  100%  3  Phan Hải Anh  21132284  100%  4  Nguyễn Lê Hoàng Nga  21132124  100%  5  Phan Ngọc Tú Anh  21132007  100%   
Nhận xét của giảng viên: 
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Điểm:………………… 
Ngày 12 tháng 01 năm 2022 
 Giảng viên ký tên     
 TS. Nguyễn Thị Quyết   
MỤC LỤC   
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................. 1 
2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 2 
3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 2 
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .......................................................................................... 3 
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRI T HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON 
NGƢỜI ................................................................................................................... 3 
1.1 Khái niệm con người và bản chất con người ......................................... 3 
1.1.1 Con người là thực thể sinh học - xã hội ........................................ 3 
1.1.2 Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con 
người ...................................................................................................... 5 
1.1.3 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch 
sử ............................................................................................................ 6 
1.1.4 Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội ..................... 7 
CHƢƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Đ P 
ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐẤT NƢỚC 
VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................................... 9 
2.1. Một số khái niệm .................................................................................... 9 
2.1.1 Nguồn lực con người .................................................................... 9 
2.1.2 Công nghiệp hóa ........................................................................... 9 
2.1.3 Hiện đại hóa: ............................................................................... 10 
2.1.4 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................................... 10 
2.2 Thực trạng của vấn đề xây dựng và phát triển nguồn lực con người 
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ......................... 11 
2.2.1 Ưu điểm ...................................................................................... 11 
2.2.2 Hạn chế ....................................................................................... 12 
2.2.3 Nguyên nhân ............................................................................... 14 
2.3 Vai trò của nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người 
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ......................... 15     
CHƢƠNG 3: ỘT SỐ K  
I N NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG 
NGUỒN NHÂN LỰC Đ P ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP 
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ....................................................................................... 17  3.1 Đối ới
v  nhà nước ................................................................................... 17 
3.2 Đối với những cơ sở giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực ................... 17 
3.3 Đối với đơn vị sử dụng lao động (bộ máy quản lí nhà nước và doanh 
nghiệp) ......................................................................................................... 18 
K T LUẬN .................................................................................................................. 19 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 20       
PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Con người là một khách thể hết sức phong phú đã và đang được rất nhiều ngành 
khoa học nghiên cứu như sinh vật học, nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, y học, 
triết học… Mỗi khoa học có cách tiếp cận và phương pháp giải quyết khác nhau về 
vấn đề con người. Và các khoa học cụ thể nhận thức con người ở những mặt, những 
khía cạnh riêng biệt, cụ thể. 
Triết học, với đặc trưng trừu tượng hóa, khái quát hóa các tri thức khoa học cụ 
thể về con người, để nghiên cứu con người về mặt thế giới quan, hệ tư tưởng, lối 
sống… Bằng cách này hay cách khác, triết học bao giờ cũng phải giải đáp những vấn 
đề chung nhất của con người như: Bản chất của con người? Vị thế của con người như 
thế nào trong thế giới? Tự nhiên và lịch sử hoạt động phát triển của con người? Ý 
nghĩa cuộc sống của con người là gì? Thực chất, đó là sự phản tư, là đặc trưng của tư 
duy triết học. Và triết học Mác - Lênin ra đời đã khắc phục tính chất trừu tượng, duy 
tâm, siêu hình trong quan niệm bản chất con người với cách tiếp cận mới, hoàn toàn 
khác so với các tư tưởng triết học cổ điển. Các Mác đã đưa ra một luận đề nổi tiếng: 
“Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng 
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ 
xã hội”. Từ tiếp cận con người hiện thực, triết học Mác Lênin đã chỉ ra rằng con người 
là một chỉnh thể sinh vật -
 xã hội, là thực thể song trùng tự nhiên - xã hội . 
Vì vậy nghiên cứu triết học Mác Lênin là tìm hiểu về bản chất con người. Để từ 
đó, con người có thể tìm được hướng phát triển đúng đắn cho chính mình và cả thế hệ 
mai sau, góp phần phát triển đất nước, xã hội. Như Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn 
quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy 
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công 
cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa”. Thực tế đã chứng tỏ rằng nếu không chú trọng 
nâng cao con người một cách toàn diện thì Việt Nam chưa thể thoát khỏi sự nghèo 
nàn, lạc hậu và đi lên phát triển bền vững. 
Nhận thức được tầm quan trọng của con người cùng việc xây dựng nguồn lực 
con người đối với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và sự phát triển  1  
của quốc gia, chúng em đã chọn đề tài tiểu luận: “Quan điểm của triết học Mác - 
Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam hiện nay.” 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Làm rõ quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người đồng thời liên hệ vấn 
đề xây dựng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước ở Việt Nam hiện nay. Qua đó vận dụng toàn bộ những kiến thức cơ 
bản đã đạt được ở trên để giải quyết một vấn đề cụ thể của thực tiễn, rút ra cho bản 
thân nói riêng và con người hiện đại nói chung. 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Tiểu luận vận dụng các phương pháp thống nhất phân tích - tổng hợp, lịch sử - 
logic, diễn dịch - quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, so sánh, phương pháp đọc 
hiểu tài liệu, văn bản, chú giải học… Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết 
hợp khái quát và mô tả, phân tích, tổng hợp.        2    
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRI T HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƢỜI 
1.1 Khái niệm con ngƣời và bản chất con ngƣời 
1.1.1 Con ngƣời là thực thể sinh học - xã hội 
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện 
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Nó là sản phẩm của tự nhiên, nhưng là 
sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của tự  nhiên. 
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con 
người chính là giới tự nhiên. Do vậy, việc tiến hành nghiên cứu về cấu tạo tự nhiên và 
nguồn gốc tự nhiên của con người là một trong những yếu tố tiên quyết, góp phần 
không nhỏ trong việc hình thành nên lịch sử nhân loại, giúp con người làm chủ được 
hành vi của chính bản thân mình, cũng như các hoạt ộ
đ ng năng động, sáng tạo khác. 
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây: Thứ 
nhất, con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. 
Dựa trên cơ sở sự phát triển của thế giới duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học 
thuyết của Đacuyn về sự tiến hóa của các loài, mà chúng ta đã chứng minh được điều 
này thông qua những lý luận khoa học biện chứng. Thứ hai, con người là một bộ phận 
của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của con người". 
Do đó, dưới sự biến đổi của thế giới tự nhiên, hay đối mặt với những thay đổi của quy 
luật tự nhiên dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thì giới tự nhiên thường xuyên quy 
định đến sự tồn tại của loài người, cũng như xã hội loài người, đồng thời nó cũng là 
môi trường trao đổi vật chất giữa con người với giới tự nhiên; ngược lại dưới sự tác 
động, ảnh hưởng từ hoạt động của con người, cũng tác động trở lại thế giới tự nhiên. 
Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các 
tồn tại khác của giới tự nhiên. 
Ví dụ: Trái cây, thịt, cá, trứng, sữa… cho đến nay luôn là những thức ăn quen thuộc. 
Ngoài ra, con người còn có các hoạt động như khai thác dầu mỏ để sản xuất dầu hỏa, 
dầu diesel; dệt vải từ bông, tơ tằm; xây nhà bằng gỗ.  3    
Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, 
nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong 
mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc 
gia, dân tộc, nhân loại... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện 
khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người .
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau đây: Một là, xét 
về mặt nguồn gốc của sự hình thành loài người thông qua giới tự nhiên thì con người 
còn bị tác động, chịu ảnh hưởng bởi mặt xã hội, trước hết cơ bản nhất đó là nhân tố về 
lao động, hay cụ thể hơn đó chính là hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động 
sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản 
xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". Chính nhờ 
lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển 
thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó 
có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết 
trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ. Hai là, xét từ góc độ tồn tại 
và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội 
và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương 
ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã 
hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể 
sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. 
Ví dụ: Trong một gia đình, việc con cái hiếu thảo với cha mẹ là điều tất yếu. Trong 
công việc, cấp dưới phải nghe lệnh cấp trên.  
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của 
con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống 
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với 
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định 
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành 
và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, 
niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với  người.  4    
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh 
trong đời sống con người bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Mối quan hệ tự 
nhiên và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội 
trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu 
tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần. 
Như vậy, hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính 
thống nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo 
nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của 
chính nó. Mặt tự nhiên là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc 
trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân 
hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể 
thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Vì thế, nếu chúng ta đánh giá phiến diện 
nguồn gốc của sự hình thành loài người là dựa trên cơ sở tự nhiên hay xã hội , đều cho 
ra kết quả bị sai lệch, không đi đến kết quả cuối cùng, dẫn đến sai lầm trong nhận thức  và thực tiễn. 
1.1.2 Con ngƣời là sản p ẩ
h m của lịch sử và của chính bản thân con ngƣời 
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của 
Feuerbach, xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực 
tiễn, con người chỉ là đối tượng trừu tượng, cảm tính, không có hoạt động thực tiễn. 
Feuerbach đã không nhìn thấy những mối quan hệ hiện thực, sống động giữa con 
người với nhau trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Vì vậy, ông đã làm 
cho tình yêu giữa mọi người tuyệt đối. Hơn nữa, đó không phải là tình yêu đích thực 
mà là tình yêu mà ông ấy lý tưởng hóa. Bằng cách phê phán những quan niệm sai lầm 
của Feuerbach và các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa những quan điểm tiến 
bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa trên những kết quả khoa học, chủ nghĩa 
Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính 
con người. Mác đã nêu trong tác phẩm Tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật 
biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt 
động, lao động, sản xuất và làm nên lịch sử của mình, biến họ thành con người như họ 
tồn tại. Lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người,  5    
nhưng con người khác con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con 
người còn là chủ thể của lịch sử. 
1.1.3 Con ngƣời vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử 
a) Con người là chủ thể của lịch sử 
Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác 
với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật là nguồn gốc và sự phát triển đến trạng thái 
hiện nay của chúng nhưng không phải do chúng làm ra lịch sử ấy trong giới hạn mà 
chúng tham gia vào việc làm nên lịch sử. 
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi loài vật, có ý nghĩa sáng tạo 
chính là chế tạo ra được công cụ lao động. Nhờ công cụ lao động mà con người tự tách 
mình ra khỏi thế giới loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn 
xã hội. Từ đó, con người bắt ầ
đ u hành trình làm nên lịch sử của mình. 
Con người là chủ thể sáng tạo ra giá trị vật chất tinh thần cho xã hội. Để tồn tại 
và phát triển con người phải sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội. Sản xuất 
ra của cải vật chất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người, vượt trội so với loài vật. Đó là 
kết quả của quá trình lao động và sáng tạo của con người. 
Đời sống lao động của con người là nguồn đề tài vô tận của các giá trị văn hóa, tinh 
thần. Con người là tác giả của các công trình văn hóa, nghệ thuật như: Ở Việt Nam có 
nhã nhạc cung đình Huế, thành nhà Hồ, Vịnh Hạ Long, Hoàng thành Thăng Long,  chùa Một Cột,  …
Ngoài ra, con người là động lực của các cuộc cách mạng xã hội. Nhu cầu về 
một cuộc sống tốt đẹp hơn chính là động lực thúc đẩy con người không ngừng đấu 
tranh để cải tạo xã hội, mọi cuộc cách mạng xã hội đều do con người tạo ra. 
b) Con người là sản phẩm của lịch sử 
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. 
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. 
Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng con người khác với con vật là không 
thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử. 
Vì là sản phẩm của lịch nên con người một mặt phải tiếp tục hoạt động trên các 
tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác lại phải tiến hành các hoạt động  6    
mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế 
nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. 
1.1.4 Bản chất con ngƣời là tổng hòa các quan hệ xã hội 
Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa cộng đồng xã hội của con người, xuất 
hiện trong quá trình sản sinh và tái sinh ra chính bản thân con người với tư cách là 
những chủ thể xã hội hoàn chỉnh. 
Trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học, C.Mác đề cập con người không phải 
như một sinh vật thuần túy. Ông nêu bản chất con người không phải là một cái nhìn 
trừu tượng, cố hữu, riêng biệt mà “trong tính thực hiện của nó, bản chất con người là 
tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Ở đây C.Mác đưa ra khái niệm “tổng hòa”, không 
chỉ đơn giản là phép cộng thông thường mà đó chính là sự thu hút, đúc kết những tinh 
túy từ những quan hệ xã hội của con người. Trong quá trình lao động sản xuất, con 
người không chỉ tác động vào tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau giữa người với  người, n ờ
h vậy mà hình thành nên các quan hệ xã hội. 
Con người hiện thực, cá nhân hiện thực là con người xã hội. Bản chất của nó là 
tổng hòa các quan hệ xã hội, gia đình là cấp độ xã hội đầu tiên trong hệ thống: quan hệ 
tập thể, quan hệ giai cấp (mang tính lịch sử), quan hệ dân tộc, tôn giáo và rộng hơn là 
những quan hệ mang tính nhân loại. Các quan hệ xã hội của con người hình thành 
trong con người tham gia vào đời sống xã hội, chủ yếu là tham gia hoạt động lao động 
sản xuất. Quan hệ sản xuất chính là cơ sở của các quan hệ xã hội khác. 
Tất cả những quan hệ xã hội được tổng hòa để trở thành bản chất con người và 
chỉ có ở con người được xem như là một sinh thể biết tư duy, sáng tạo và có khả năng 
nhận thức, cải biến thế giới hiện thực và chính bản thân mình. Tính chất quan hệ và 
khả năng đó không thể có ở bất kì sinh vật nào khác. Con người chỉ thực sự tồn tại 
được khi đặt trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội và nếu bị tách biệt khỏi mối 
quan hệ ấy thì con người sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. 
Con người sẽ không thể tồn tại với tư cách là người nếu tách biệt khỏi mối quan hệ với 
người khác, với cộng đồng xã hội và với thế giới xung quanh. Hệ thống các mối quan 
hệ xã hội không phải cái trừu tượng, xa lạ mà được tạo nên bởi chính các hoạt động 
thực tiễn của con người, do con người sản sinh ra. Tổng hòa các mối quan hệ xã hội -  7    
cái được tạo nên bởi hoạt động đời sống vật chất của con người, đến lượt nó quy định 
lại hoạt động đời sống xã hội và do đó quy định bản chất xã hội của con người. C.Mác 
viết: “Xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng 
sản xuất ra xã hội như thế”. Rõ ràng muốn hiểu được con người và đời sống con người 
cần hiểu được vấn đề quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, với xã hội và  với chính bản thân. 
Khi đặt con người trong mối quan hệ với xã hội thì Triết học Mác đã thể hiện rõ 
là Triết học con người mang tính hiện thực trong cải biến cách mạng trong sáng tạo, 
giải phóng tự do của nó. Bản chất của con người không phải là bất biến. Nó không 
ngừng thay đổi bởi vì các quan hệ xã hội đã tạo ra nó luôn biến đổi không ngừng tùy 
theo các thời kỳ lịch sử. 
Ví dụ: Những đứa trẻ trải qua bạo lực gia đình thường có xu hướng thu mình, khép kín 
hơn những đứa trẻ lớn lên trong gia đình êm ấm.        8    
CHƢƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Đ P ỨNG 
YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐẤT NƢỚC VIỆT NAM  HIỆN NAY 
2.1. Một số khái niệm 
2.1.1 Nguồn lực con ngƣời 
Trước tiên, ta sẽ đề cập đến nguồn lực. Nguồn lực là toàn bộ vật chất, tinh thần 
tạo sức mạnh cho sự phát triển, trong điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến 
xã hội. Và nguồn lực được quan niệm như một hệ thống, mỗi nhân tố đều có đặc điểm, 
vai trò riêng và có mối quan hệ với các nhân tố khác. Tất cả nguồn lực sẽ được khai 
thác để sử dụng cho mục đích phát triển. Nguồn lực càng mạnh thì tốc độ phát triển 
càng nhanh, phải biết tận dụng và sử dụng nguồn lực hiệu quả để phát triển bền vững.   
Nguồn lực con người là tổng hợp các yếu tố thể chất và tinh thần của con người 
(kỹ năng, kiến thức, năng lực, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và nhân phẩm), các hoạt 
động vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng đã, đang và sẽ tạo ra 
động lực, sức mạnh để thúc đẩy xã hội phát triển. Nguồn lực con người còn để chỉ số 
dân, cơ cấu dân số và đặc biệt là chất lượng con người. Nguồn lực được quan niệm là 
một hệ thống như đã đề cập, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất, là trung 
tâm. Bởi lẽ, thông qua nó thì các nguồn lực mới có điều kiện để thể hiện cũng như phát 
huy khả năng và từ đó biến tiềm năng thành hiện thực. 
2.1.2 Công nghiệp hóa   
Khái niệm công nghiệp hóa được dùng để thay thế cho cách mạng công nghiệp 
từ thế kỷ XIX, có thể khái quát rằng công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, 
toàn diện nền kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế lạc hậu, các hoạt động sản xuất chủ yếu 
dùng sức lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh tế hiện đại, chủ yếu dùng 
sức lao động dựa trên sự phát triển của công nghiệp cơ khí, tạo ra năng suất lao động 
cao nhờ tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến và hiện 
đại. Từ đó biến một nước với nền kinh tế nông nghiệp, thủ công lạc hậu thành nước 
công nghiệp hiện đại với trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, năng suất lao động cao 
trong các ngành kinh tế quốc dân.  9    
Ví dụ: Trước kia, bà con nông dân phải thu hoạch lúa thủ công, tốn rất nhiều 
thời gian, công sức nhưng qua quá trình phát triển, máy thu hoạch lúa xuất hiện 
và với sự giúp sức chủ yếu của máy móc, con người đã tiết kiệm thời gian, sức 
lực cũng như nâng cao năng suất. 
2.1.3 Hiện đại hóa: 
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và 
công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý  kinh tế - xã hội .
Ví dụ: Hệ thống phun sương tự động góp phần nâng cao chất lượng cây trồng, dây 
chuyền sản xuất tự động hiện đại, khu công nghệ chất lượng cao, sử dụng người máy 
và các công nghệ hiện đại khác rộng rãi. 
2.1.4 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa   
Với mong muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu, nhất là đối với nước đang phát 
triển và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa muộn như Việt Nam, “Công nghiệp 
hóa phải đi đôi với hiện đại hóa… hình thành những mũi nhọn phát triển kinh tế theo 
trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới”(1), do đó công nghiệp hóa sẽ 
không tách rời hiện đại hóa mà phải gắn liền với nhau. Từ đó có khái niệm chung nhất 
về công nghiệp hóa, hiện đại hó . a    
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các 
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao 
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công 
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công 
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 
Ví dụ: Ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, máy tự động tron 
g quá trình sản xuất  .    
1 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,  2019, tr. 545.    10    
2.2 Thực trạng của vấn đề xây dựng và phát triển nguồn lực con ngƣời trong quá 
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc  2.2.1 Ƣu điểm 
a) Thời kỳ cơ cấu “Dân số vàng” với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao 
Một trong những ưu thế lớn nhất của nguồn nhân lực lao động Việt Nam là lao 
động dồi dào và cơ cấu nguồn nhân lực lao động trẻ. Dân số năm 2021 của cả nước 
ước tính 98,51 triệu người. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2021 là 50,5 
triệu người (chiếm 51,26%), lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc là 49 triệu người 
(2). Năm 2007, Việt Nam đã bước vào thời kỳ “dân số vàng” và dự báo kéo dài gần 40 
năm. Lợi thế to lớn của cơ cấu dân số vàng đem lại chính là nguồn nhân lực dồi dào 
nếu được tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động, sẽ tạo ra khối lượng của cải vật chất 
khổng lồ, tạo ra giá trị tích lũy lớn cho tương lai của đất nước. Nói cách khác, nếu tận 
dụng được cơ cấu dân số vàng sẽ tạo ra sự vượt bậc về kinh tế. Về mặt xã hội, dân số 
vàng tạo điều kiện cho giáo dục phát triển. Ðây là thời cơ lớn để đất nước thúc đẩy 
mạnh hơn nữa sự đầu tư chiều sâu cho tăng trưởng kinh tế và phát triển con người. Cơ 
hội dân số không tự động, không tất yếu đem lại tác động tích cực, mà phải được giành  lấy. 
b) Chất lượng nguồn lao động từng bước được nâng cao 
Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và 
thị trường. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam cơ bản đã làm chủ được khoa 
học – công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất 
kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài… 
 Chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng cao. Trình độ học vấn và dân 
trí của nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và nhà 
nước ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số thành tựu nhất định. 
Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người: chỉ số 
HDI năm 2016 đạt mức 0,682 và tăng lên 0,706 năm 2020 tức là từ nhóm trung bình 
lên nhóm có HDI cao của thế giới. Các chỉ số thành phần cũng có bước cải thiện đáng   
2 Theo Tổng cục thống kê – Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2021  11    
kể, như chỉ số sức khỏe tăng từ 0,822 (năm 2016) lên 0,826 (năm 2020) và chỉ số giáo 
dục tăng tương ứng từ 0,618 lên 0,640. 
c) Phẩm chất con người lao động Việt Nam 
Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, siêng năng, chịu khó, 
yêu lao động, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt khoa học 
và công nghệ và khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi .
Người lao động Việt Nam dù là lao động chân tay hay lao động trí óc, làm việc 
trong bất kì lĩnh vực nào thì đều chăm chỉ, năng động, sáng tạo, mạnh dạn đổi mới tư 
duy tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ, thay đổi để thích ứng với cơ chế thị trường 
mới và kinh tế quốc tế, tích cực đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa ở nước ta. 
2.2.2 Hạn chế 
a) Chất lượng lao động vẫn còn nhiều hạn chế 
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (năm 2016), chất lượng nguồn nhân lực 
Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10) xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc 
gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 
điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm. Khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, năng suất 
lao động của Việt Nam vẫn ở mức tương đối thấp (năm 2019 chỉ bằng 7,9% năng suất 
lao động của Singapore; 19,5% của Malaysia; 38,4% của Thái Lan; 47,1% của 
Indonesia và 58,6% của Philippines). Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn 
Campuchia; gần tương đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, 
Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như 
Singapore. Và có tới 75% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa 
qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật trong khi nguồn nhân lực được coi là yếu tố then 
chốt của sự phát triển bền vững doanh nghiệp. 
Từ thực tế cho thấy, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn, chất lượng đào tạo 
thấp, thiếu lao động có trình độ, năng lực, kỹ năng tay nghề cao; thừa lao động thủ 
công, không qua đào tạo. Đồng thời, thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh 
nghiệp có trình độ năng lực cao; thiếu đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế, kỹ 
thuật. Cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ đang ngày càng  12    
không mang lại hiệu quả và khiến chúng ta yếu thế. Sự kém phát triển, thiếu hụt nguồn 
nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. 
Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ 
quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. 
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa 
XII đã chỉ rõ: “... nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; … Thiếu 
những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều 
lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; 
nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không 
đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm 
việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ th ế i u bản lĩnh, 
ngại rèn luyện” (3). Chính những điều này đặt ra những thách thức rất lớn cho Việt 
Nam trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, qua đó nâng cao năng suất lao 
động cũng như trình độ chuyên môn để có thể bắt kịp với các quốc gia trong khu vực  và trên thế giới .
b) Chuyển dịch cơ cấu lao động không theo kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
Việc chuyển dịch cơ cấu lao động trên thị trường còn chậm, không theo kịp 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Năm 2020, tỉ lệ người lao động làm việc trong khu vực 
nông – lâm – ngư nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao 33,1%, ở khu vực công nghiệp – xây 
dựng là 30,8% và khu vực dịch vụ là 36,1%. Trong khi đó cơ cấu nền kinh tế năm 
2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,85%; khu vực công 
nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%; khu vực dịch vụ chiếm 41,63% (4). 
Tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ giữa các vùng, các khu vực, 
ngành nghề kinh tế. Do ảnh hưởng của đại dịch càng khiến tình trạng này thêm tồi tệ 
hơn khi người lao động nhập cư tại các thành phố, trung tâm công nghiệp trở về quê 
tránh dịch và tìm việc.   
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng 
Trung ương Đảng, H. 2018, tr.47-48.   
4 Theo Tổng cục Thống kê – Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2020    13    
c) Tỉ lệ thất nghiệp có xu hướng ngày càng tăng 
Không thể phủ nhận rằng sau hơn 35 năm đổi mới đất nước ta từ một nước 
nghèo đã trở thành một quốc gia có thu nhập ở mức trung bình và tỉ lệ thất nghiệp theo 
đó cũng có xu hướng giảm, điển hình là giai đoạn năm 2016-2019 (giảm từ 2,3% 
xuống còn 1,98%). Tuy nhiên, khi đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn cầu đã ảnh 
hưởng không nhỏ đến thị trường lao động nước ta. Cụ thể, tỉ lệ thất nghiệp năm 2020  là 2,48%, 2021 là 3,22%. 
Một bộ phận lao động chân tay đơn thuần sẽ bị đào thải trong thời kì công 
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cũng như cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. 
Trong tổng số lực lượng lao động hiện nay chỉ 24,5% người lao động có chứng chỉ, 
bằng cấp. So với mặt bằng chung của các nước ASEAN là tương đối thấp. Cùng với 
đó, xu hướng tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ làm thay đổi bản 
chất của công việc. Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế, trong 5 năm tới sẽ có 
khoảng 1/3 công việc thay đổi, 40% lao động của Việt Nam khó có khả năng đáp ứng 
yêu cầu mới khi mà kỹ năng lao động không được nâng lên, chính vì thế mà tỉ lệ thất 
nghiệp có thể sẽ tăng lên trong thời gian tới.  2.2.3 Nguyên nhân 
Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của 
phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất 
lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ 
ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều 
các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực. 
Thứ hai, chiến lược phát triển nguồn nhân lực chưa xác định được nhu cầu cụ 
thể về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước nói chung 
cũng như của từng bộ, ngành, địa phương nói riêng. Vì vậy, chưa có cơ sở xây dựng 
một chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thống nhất, đồng bộ để thu 
hút, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và trọng dụng một cách hiệu quả,  hợp lý. 
Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát 
triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Ví dụ về việc đào tạo nghề tại  14    
Việt Nam còn nhiều bất cập: tổ chức dạy nghề, đào tạo nghề vẫn còn yếu, chất lượng 
đào tạo nghề chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp và thị 
trường, các trung tâm ồ ạt mở các lớp dạy nghề, chưa tận dụng triệt để hệ thống cơ sở 
vật chất sẵn có. Ngoài ra công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thu hút được sự 
tham gia phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, 
giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ. 
Thứ tư, sự bùng phát của dịch COVID-19 trên trên toàn cầu đã tác động không 
nhỏ đến nước ta. Nhiều doanh nghiệp không còn sức chống đỡ và phải rời khỏi thị 
trường, kéo theo đó là hàng vạn lao động phải về quê do mất việc và sự mất cân đối về 
cơ cấu lao động, những bất cập trong quản lý đô thị cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn 
đến tỉ lệ thất nghiệp tăng. 
Từ những tác động trên cũng đã đặt ra rất nhiều thách thức không nhỏ cho toàn 
Đảng và toàn dân ta trong việc chủ động thay đổi và thích ứng linh hoạt ớ v i những khó  khăn trong tương lai. 
2.3 Vai trò của nguồn lực con ngƣời và phát triển nguồn lực con ngƣời trong quá 
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc 
Vai trò của nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước: Dù ở thời điểm nào, hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người luôn giữ vai 
trò quan trọng, quyết định và tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lịch sử xã 
hội. Con người luôn là trung tâm trong các nhân tố nguồn lực, bởi vì con người phát 
hiện ra nguồn lực, khai thác, tổ chức nguồn lực, sử dụng các nguồn lực cũng như phát 
triển nguồn lực, đồng thời điều chỉnh các nguồn lực để phục vụ cho mục đích, thỏa 
mãn những nhu cầu, lợi ích của mình ở xã hội và như phương tiện, công cụ điều kiện 
để phát triển kinh tế - xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Thay cho xã hội 
tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, 
trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất 
cả mọi người” (5) . Sau này, C.Mác tiếp tục khẳng định: “Sự phát triển của xã hội 
không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo   
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628.    15    
nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người” và “...trong tính hiện thực của nó bản 
chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”(6). Điều này có nghĩa là, nguồn lực 
con người là điều kiện đối với sự phát triển của một quốc gia, thúc đẩy kinh tế - xã hội. 
Và Đảng ta cũng đặc biệt nhấn mạnh: “Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam 
có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng 
nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ..., đó là nguồn lực quan trọng nhất”.(7) 
Vai trò của phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước: Nguồn lực con người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá 
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và việc phát triển nguồn lực con người 
cũng góp phần vô cùng to lớn, quan trọng trong quá trình ấy. Nguồn lực con người 
quan trọng nhưng chỉ đảm bảo chất lượng, phát huy được vai trò của mình khi không 
ngừng được đầu tư, xây dựng và phát triển. Muốn đẩy nhanh và đảm bảo phát triển 
bền vững sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc phát triển nguồn 
lực con người là điều tất yếu và càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Điều này đã được 
thực hiện và chứng minh ở những nước phát triển, ví dụ như ở Nhật Bản, khi mà 
nguồn lực đất đai (tài nguyên thiên nhiên) không dồi dào, thì vai trò của nguồn lực con 
người cùng việc phát triển nguồn lực con người càng được nhấn mạnh trong quá trình 
phát triển của đất nước. Chính vì những lí do đó, Đảng ta luôn chú trọng phát triển 
nguồn lực con người, coi nguồn lực con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát 
triển của xã hội, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.     
6 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.11.   
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ VII, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 83.    16     
