Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. ý nghĩa của tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học Mác – Lênin
Đầu tiên, chúng em xin được gửi tới cô Trần Thị Phương, giảng viên, người hướng dẫn, và cũng chính là người đã tận tình chỉ dạy, dìu dắt chúng em có được thành quả như ngày hôm nay, những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất. Là lứa tân sinh viên buổi đầu bước chân vào ngưỡng cửa đại học, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TRIT HỌC MC - LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
QUAN ĐIỂM CỦA TRIT HỌC MC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ. Ý NGHĨA CỦA TƯ
TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC” TRONG QU TRÌNH PHT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TRIT HỌC MC - LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
QUAN ĐIỂM CỦA TRIT HỌC MC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ. Ý NGHĨA CỦA TƯ
TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC” TRONG QU TRÌNH PHT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
GVHD: ThS. Trần Thị Phương Nhóm thực hiện: 11 SVTH: 1. Huỳnh Minh Thư 23138055
2. Nguyễn Thị Hà Tiên 23138057
3. Trần Thị Thủy Tiên 23138058
4. Đinh Thoại Mỹ Trân 23138059
Mã lớp học: LLCT130105_23_1_43
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2023 LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, chúng em xin được gửi tới cô Trần Thị Phương, giảng viên, người hướng
dẫn, và cũng chính là người đã tận tình chỉ dạy, dìu dắt chúng em có được thành quả như
ngày hôm nay, những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất. Là lứa tân sinh viên buổi đầu
bước chân vào ngưỡng cửa đại học, với chúng em, môi trường nơi đây vẫn còn là điều gì
đó vô cùng mới lạ, và việc thực hiện một bài tiểu luận cũng không phải là ngoại lệ. Song,
dưới sự quan tâm của cô, cùng với những kiến thức quý giá mà cô đã truyền đạt, đến cuối,
chúng em cũng đã có thể hoàn thành bài tiểu luận đầu tay của mình.
Trong quá trình tham khảo, tìm tòi và nghiên cứu, chúng em cũng đã có được những
cái nhìn mới mẻ hơn, đa chiều hơn về bộ môn này cũng như thế giới quan mà nó bao hàm.
Những từ ngữ như “khô khan”, “trừu tượng” và “khó hiểu” đã dần dà không còn nữa trong
nhận định. Giờ đây, chúng em đã biết, Triết học, thực tế vẫn luôn hiện hữu xung quanh
chúng ta, là nền tảng của xã hội, là những lý thuyết không thể tách rời khỏi thường thức.
Để có thể đi đến những kết luận đó, sự hỗ trợ từ những thầy cô khác, từ bạn bè, từ những
anh chị khóa trên là không thể thiếu, vậy nên đồng thời, chúng em cũng muốn trân trọng
cảm ơn sự giúp đỡ của mọi người trong những lúc khó khăn, kiệt quệ về ý tưởng.
Dẫu đã cố gắng hết sức mình, song, những thiếu sót và hạn chế trong bài là điều
không thể tránh khỏi, bởi lẽ chúng em hiểu rằng, hiện tại, hơn ai hết trên giảng đường đại
học, khóa K23 chúng em là những cá nhân còn nhiều thứ phải trau dồi, còn nhiều thứ phải
học hỏi. Chúng em rất mong có thể nhận được những đánh giá, những nhận xét, những lời
góp ý chi tiết từ cô và các bạn để có thể lấy đó làm hành trang cho mai sau, để có thể củng
cố năng lực từng cá nhân cũng như để có thể cải thiện chất lượng mỗi bài luận về sau.
Một lần nữa, chúng em xin cảm ơn tất cả mọi người, những người đã hết lòng tương
trợ, tạo điều kiện thuận lợi để nhóm có thể hoàn thành bài tiểu luận này một cách tốt nhất.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm sinh viên thực hiện.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
................................................................................................................................. Điểm:
................................................................................................................................. Kí tên
ThS. Trần Thị Phương
BẢNG ĐNH GI MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC
CỦA CC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM SỐ MỨC ĐỘ HOÀN THỨ HỌ VÀ TÊN THÀNH CÔNG VIỆC KÍ TÊN GHI CHÚ TỰ (0-5) 46 HUỲNH MINH 5 THƯ 47 NGUYỄN THỊ 5 HÀ TIÊN 48 TRẦN THỊ 5 THỦY TIÊN 49 ĐINH THOẠI 4 MỸ TRÂN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.....................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA TRIT HỌC MC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ
CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
1.1 Quan hệ giữa cá nhân và xã hội..................................................................3
1.2 Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử...........................4
CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC” TRONG
QU TRÌNH PHT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vận dụng tư tưởng “Lấy dân làm gốc”.......................................................7
2.2. Quan điểm của Đảng về tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong quá trình phát
triển ở Việt Nam hiện nay.........................................................................11
2.3. Một số giải pháp năng cao vai trò của quần chúng nhân dân trong giai đoạn
hiện nay.....................................................................................................14
KT LUẬN ...............................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................18 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hàng vạn năm kể từ khi con người bước ra khỏi thuở hồng hoàng để ngẩng cao
đầu cảm nhận thế giới và nhận biết về mọi thứ xung quanh thì như một quy luật của
cuộc sống này chúng ta phải biết rằng: Để có được sống yên bình như ngày hôm
nay là sự đánh đổi của bao thế hệ cha anh đi trước, những con người bất khuất, kiên
cường, gan dạ, dũng cảm,… “Không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên đất
nước” ( Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm) chúng ta gọi chung đó là Quần chúng
nhân dân. Xuyên suốt các tiến trình lịch sử chúng ta nhận ra được trong bất cứ giai
đoạn lịch sử xã hội nào, ở mọi nền văn hóa, quốc gia,… thì luôn có những cá nhân
kiệt xuất đứng lên lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân theo con đường đúng đắn. Song cũng
không thể thiếu đi thành phần đông đảo, cơ bản và chủ yếu tạo nên một xã hội hoàn
chỉnh, các cuộc cách mạng và quyết định sự tồn tại hay suy vong, sự hưng thịnh
hoặc suy thoái của cả một quốc gia – Quần chúng nhân dân. Như vậy, chúng ta
có thể thấy được rằng cả vai trò của quần chúng nhân dân luôn được coi trọng từ khi
con người xuất hiện, nhà nước và giai cấp ra đời. Hơn thế nữa nó ngày càng được
quan trọng hóa và đề cao hơn khi chủ nghĩa Triết học Mác – Lênin có mặt trong sự
phát triển của thế giới. Chính Triết học Mác – Lênin đã đưa ra cho chúng ta thấy
những quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân một cách xác đáng, đúng đắn
và khoa học nhất. Quan điểm đó không bị giới hạn ở bất cứ khu vực, quốc gia hay
dân tộc nào mà nó lan rộng và có sức ảnh hưởng rất lớn đến khắp mọi nơi trên thế
giới, ở mọi thời đại. Những tưởng như ai nắm bắt và vận dụng được nó sẽ có được
chiếc chìa khóa của sự phát triển vượt bậc.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bằng cách tìm hiểu quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin về
vai trò của quần chúng, từ đó rút ra được
2.1. Quan điểm triết học về quần chúng
2.2. Vai trò của công chúng 2.3. Vai trò của cá nhân
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm triết học 7
Như vậy, chúng ta có thể thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong
đời sống thực tế ngày nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Phương pháp
nghiên cứu tiểu luận là những cách thức giúp tác giả bài nghiên cứu thu thập số
liệu, kiến thức hoặc thông tin nhằm tìm ra một hệ thống tri thức từ thực tiễn nhằm
giúp tìm ra quy luật của các sự vật hoặc hiện tượng liên quan đến chủ đề lựa
chọn, từ đó xây dựng nên một khung lý thuyết mới, hoặc sàng lọc loại bỏ giả
thuyết của một đề tài khoa học. Để thực hiện nội dung nghiên cứu, chú trọng vận
dụng phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp giả thuyết… 8 NỘI DUNG
Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA TRIT HỌC MC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ
CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
1.1. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội được thể hiện ở chỗ cá nhân là chủ thể và là
sản phẩm của xã hội. Cá nhân là chủ thể của các quan hệ xã hội, thúc đẩy sự biến đổi
và tiến bộ xã hội. Cá nhân là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Trong bất cứ giai
đoạn nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội. Là một hiện tượng lịch sử, quan
hệ cá nhân - xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi
về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
Thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là quan hệ lợi ích. Mối quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt khách quan và mặt chủ quan
Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã hội.
Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù
hợp với mục đích của con người.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với
cá nhân. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích
nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã
hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều
kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Vì vậy, thoả
mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và
động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay
cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì
chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp.
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
Trong mọi tiến trình lịch sử, quần chúng nhân dân đều có vai trò quyết định.
Điều đó được thể hiện qua ba mặt lớn: 9
Thứ nhất, quần chúng nhân dân có vai trò là lực lượng sản xuất cơ bản của xã
hội là thành phần trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và là cơ sở của sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Không có quần chúng nhân dân thì không có người trực tiếp sản xuất
sẽ không có của cải vật chất, sẽ không có đời sống vật chất, không có đời sống tinh
thần, không có xã hội,không có lịch sử. Để quy định cho sự xuất hiện, đảm bảo cho sự
tồn tại của xã hội và quyết định sự biến đổi của lịch sử được quyết định bởi lực lượng
lao động cơ bản bao gồm lao động chân tay và lao động trí óc. Vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhất là trong cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghệ đó chính là khoa học và các nhà khoa học. Khoa học và các
nhà khoa học bị hạn chế khi chỉ chỉ có thể xuất hiện và phát huy tác dụng thông qua
thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện
đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Làm cho khoa
học sẽ trở thành giáo điều và vai trò của các nhà khoa học do đó sẽ bị hạn chế nếu tách
rời khỏi hoạt động sản xuất trực tiếp và càng khẳng định lại hoạt động sản xuất của
quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Thực tế lịch sử chứng minh rằng trong suốt chiều dài lịch sử chưa bao giờ có một
cuộc thay đổi chế độ hay cách mạng xã hội nào mà không có sự hành động đông đảo
của quần chúng nhân dân. Vai trò của quần chúng nhân dân được tăng cường rõ rệt
trong mọi cuộc cách mạng của xã hội. Trong những thời kỳ lịch sử này, sức sáng tạo
và sức mạnh của quần chúng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Khi nói về các nguyên nhân của cuộc cách mạng, có thể thấy chỉ khi nào chế độ xã hội
đảm bảo được những ước muốn cũng như quyền lợi của phần lớn quần chúng nhân
dân thì chế độ xã hội đó mới có quyền được tiếp tục tồn tại. Do đó một khi lợi ích của
quần chúng nhân dân không được đảm bảo, quần chúng nhân dân đòi hỏi sự thay đổi
của chế độ xã hội thì các cuộc cách mạng nổ ra là một điều tất yếu.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của
xã hội. Những người sáng tạo ra văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh
tế, chính trị, đạo đức, v.v.. đều do quần chúng nhân dân sáng tạo ra. Để tạo ra nguồn
cảm hứng vô tận của các thiên tài văn hóa, khoa học đều bắt nguồn phần lớn từ những
hoạt động thực tiễn và cuộc sống của quần chúng nhân dân. Khi đó, giá trị của một nhà 10
văn lớn hay một thiên tài nhân loại chỉ được đánh giá và công nhận khi phần lớn quần
chúng nhân dân chấp nhận và phổ biến trong cuộc sống xã hội.
Đối với quần chúng, người lãnh đạo có nhiệm vụ sau đây: Đầu tiên là nắm bắt
các xu hướng quốc gia, quốc tế và đương đại, dựa trên sự hiểu biết về các quy luật
khách quan của các quá trình kinh tế và chính trị. chính trị và xã hội. Thứ hai, về định
hướng chiến lược và hoạch định kế hoạch hành động cách mạng. Ba là, tổ chức quân
đội, giáo dục, thuyết phục quần chúng, đoàn kết ý chí và hành động của quần chúng để
giải quyết những nhiệm vụ quan trọng nhất. Các nhà lãnh đạo đóng một vai trò rất
quan trọng trong lịch sử. Vai trò này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, các nhà lãnh đạo có thể thúc đẩy hoặc hạn chế tiến bộ xã hội. Nếu
người lãnh đạo hiểu rõ quy luật của các phong trào xã hội và chỉ đạo đúng đắn các
phong trào cách mạng dựa trên đó thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Mặt khác, nếu
người lãnh đạo không hiểu rõ động lực của dân tộc và thời đại thì có thể cản trở sự
phát triển của xã hội và dẫn lịch sử đi vào con đường phức tạp, phức tạp.
Thứ hai, người lãnh đạo thường là người sáng lập và là linh hồn của các tổ chức
chính trị, xã hội. Vì vậy, người lãnh đạo là người sáng lập, quản lý, lãnh đạo các tổ
chức xã hội và đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của các tổ chức này.
Thứ ba, các nhà lãnh đạo cũng là hình mẫu cho công chúng, những người nỗ lực và
học hỏi từ việc cải thiện tính cách của các thành viên trong tổ chức. Một khi người
lãnh đạo hoàn thành vai trò của mình, người đó sẽ trở thành một biểu tượng tinh thần
sống mãi trong cảm xúc và niềm tin (trái tim) của quần chúng.
Nói cách khác, trong lịch sử trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế đến chính trị, hoạt
động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng một vai trò vô
cùng quan trọng. Tuy vậy, tùy theo hoàn cảnh cụ thể của các giai đoạn lịch sử khác
nhau, vai trò chủ quan của quần chúng nhân dân cũng có thể thể hiện khác nhau. Quần
chúng có đủ điều kiện để phát triển tài năng và trí tuệ sáng tạo dưới chủ nghĩa xã
hội.Song sức mạnh của quần chúng chỉ có thể được phát huy nếu quần chúng được
lãnh đạo, tổ chức và hướng dẫn. Kết luận lại: vai trò của quần chúng trong việc định
hình lịch sử gắn chặt với vai trò của người lãnh đạo. 11
Chương 2 Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC” TRONG
QU TRÌNH PHT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vận dụng tư tưởng “Lấy dân làm gốc”
“Lấy dân làm gốc” là quan điểm của cha ông ta trong việc trị nước từ bao đời
nay. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục củng cố, phát huy và
vươn lên tầm cao mới. “Lấy dân làm gốc” là kim chỉ nam trong lịch sử dựng nước và
giữ nước. Hiểu dân vì dân và đoàn kết, đoàn kết toàn dân sẽ tạo nên nguồn sức mạnh
to lớn. Nguyễn Trãi nổi tiếng kết luận vào năm: “Việc nhân là để bảo vệ con người”.
Quân đội trước nhận trừng phạt, lo việc bài trừ bạo lực.” Khi vua hỏi tướng Trần Hưng
Đạo về kế hoạch giữ nước, ông khuyên: “Chiến lược tốt nhất là dùng sức dân để “phát
triển cội rễ sâu xa và giữ vững cội nguồn” để giữ nước.” Khi giành được độc lập
(1945), Đảng và Bác Hồ ngoài việc bảo vệ chính quyền non trẻ còn đặt việc chăm lo
đời sống của nhân dân lên hàng đầu là chăm lo cho nhân dân. Họ đã đồng cảm với
những “nồi cơm” của phong trào xóa đói, phổ cập giáo dục, chia ruộng cho nông dân,
trao trách nhiệm cho người dân về đất đai và chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần của mình.
Khi sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Đảng ta không có lợi ích gì
ngoài lợi ích của Tổ quốc, giai cấp và dân tộc; Tại Đại hội VI của Đảng, Người đã đúc
kết khẩu hiệu “Lấy dân làm gốc” và đề xuất như một tư tưởng chiến lược trên con
đường cách mạng Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ 13 năm 2021 đã đặt ra quyền “giám
dân, dân vui”, đồng thời bổ sung phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
soát…”, đã được đề xuất vào nhiệm kỳ thứ bảy. Đây cũng là lần đầu tiên Đảng ta đặt
chiến lược “Lòng dân” lên trên tình hình quốc phòng an ninh trong các văn kiện Quốc
hội. Trong bài viết mới đây về “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giải
thích thêm: “Mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các
chủ thể đoàn kết với nhau. trong mục tiêu và lợi ích; Mọi chính sách, chủ trương, pháp
luật và hoạt động của Đảng, Nhà nước đều hướng tới hạnh phúc của nhân dân, lấy
hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nó cũng là một mô hình chính trị
chung xác định quan điểm “nhân dân là trên hết” của Đảng và Nhà nước chúng ta. 12
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở
hai khía cạnh cơ bản. Thứ nhất, Người chỉ rõ mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước
đều xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; chúng ta phải tôn
trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân để nhân dân phục vụ. Bởi vì nhân dân
là chủ sở hữu thực sự của đất đai, là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, là chủ thể
sáng tạo của lịch sử; chính lực lượng quyết định sự thành bại của cách mạng; không có
quần chúng thì không có câu chuyện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng chứ không phải của một anh hùng”. Thứ hai, để phát huy
trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng, Người yêu cầu mọi tổ chức
Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải gần gũi với nhân dân, lắng nghe và hiểu nhân dân để
đề ra những chính sách đúng đắn, dễ hiểu. Hướng dẫn mọi người và tổ chức, lãnh đạo
và khuyến khích mọi người biến điều đó thành hiện thực. Nếu trở thành Đảng cầm
quyền, mọi chính sách, chỉ thị của Đảng phải nhằm mục đích cải thiện đời sống nhân
dân, trước hết là đảm bảo cho người dân có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, giáo dục. Cán bộ,
đảng viên phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, sách vở, pháp luật của Nhà nước; họ phải coi việc phụng sự Tổ
quốc, nhân dân là mục đích, là lý do sống, là niềm vui, hạnh phúc của mình và tuyệt
đối không được lên mặt “Quan cách mạng”, “ra lệnh ra oai”. Chỉ khi đó ‘gốc’ mới
vững chắc và được đảm bảo. Cầu mong Cách mạng dẫn đến thắng lợi.
Trong lĩnh vực quân sự, với tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, lực lượng tham gia hoạt động quân sự là toàn dân; bởi vì, sức mạnh của
nhân dân là vô cùng to lớn, có vai trò quyết định đến thắng lợi. Theo Người, mọi
người dân đều có thể tham gia hoạt động trên lĩnh vực quân sự, không phân biệt giới
tính, độ tuổi; tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội đều tham gia đánh giặc bằng
mọi vũ khí, từ thô sơ đến hiện đại, bằng mọi cách đánh trên các địa bàn chiến lược.
Chúng ta tiến hành đánh địch bằng mọi lực lượng, như bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân tự vệ, kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, kết
hợp giữa đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ,... Người nói: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có 13
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”. Trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “31 triệu đồng bào
ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu
nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”.
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị to lớn
cả về lý luận và thực tiễn, góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong việc làm phong phú thêm lịch sử.
Đồng thời, hệ tư tưởng của nó cũng là cơ sở quan trọng để Đảng ta đề ra con đường
cách mạng đúng đắn, hướng tới quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, của Tổ
quốc. Tổ chức, giáo dục, hình thành đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự là đảng của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhờ đó, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn nhận được sự tin tưởng, cảm thông, ủng hộ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, giành được những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử, giành được sự
nghiệp giải phóng dân tộc năm 1945, đoàn kết toàn dân tộc. đất nước và thực hiện sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tế lịch sử dân tộc Việt Nam cho thấy, tùy vào nước mà nước đó thịnh hay
suy, mạnh hay yếu, giữ được đất nước, kiên định bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích
quốc gia của mình. Nó phụ thuộc vào “lòng dân”, về việc xây dựng “vị trí trong lòng
dân” Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cho rằng: “Khai thác sức mạnh của nhân
dân để xây dựng kế hoạch sâu xa. Đó là châm ngôn chính trị, bảo vệ đất nước.”;
Nguyễn Trãi giải thích: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.” Ở thời đại Hồ Chí
Minh, tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Người là gốc rễ, là nền tảng nhằm hình
thành một chính sách chiến tranh nhân dân toàn diện, độc đáo, sáng tạo và đóng góp
cho toàn dân. Điều quan trọng là phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh bại bất kỳ kẻ
thù xâm lược nào. Trên cơ sở thành tích đó, Đảng ta quyết định xây dựng “thái độ lòng
dân” làm cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân tộc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội X của Đảng, thuật ngữ “lòng dân” lần đầu tiên
được ghi nhận trong văn kiện đại hội: “Xây dựng “lòng dân” làm cơ sở phát huy sức
mạnh thống nhất của toàn Đảng. Tiếp nối quan điểm này, các Đại hội XI, XII, XIII của 14
Đảng đã khẳng định thêm: “Xây dựng thế trận “lòng dân”, thế trận phòng thủ toàn dân,
thế trận an ninh vững chắc của nhân dân” là cơ sở cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.
“Thế trận lòng dân” thực chất là trạng thái chính trị, tinh thần của nhân dân, thể
hiện ở tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng tự trọng và sự tin cậy của nhân
dân đối với chế độ, vào sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, của chính
quyền Đảng. Nhà nước này được xác lập vững chắc, trở thành “thế trận” được huy
động và sử dụng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Xây dựng “thái độ trong lòng nhân dân” là thực
hiện đồng thời các giải pháp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh
để người dân hài lòng, yên tâm, tin tưởng, yêu mến Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Đây là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về “lòng dân”, “đất nước lấy
dân làm gốc”, là quan điểm, chính sách đúng đắn, phù hợp với nhân dân. Sự phát triển
này đã đánh thức, tập hợp, đoàn kết, phát huy sức mạnh của mọi yếu tố tạo nên “thế
trận lòng dân”; Đó là một trong những bí quyết thành công của Cách mạng Việt Nam.
Trong những năm qua, với nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của “lòng dân”,
Đảng, Nhà nước ta và các cấp, các ngành luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục cán bộ, Đảng viên, chiến sĩ và nhân dân các tầng lớp xã hội. đời sống truyền thống
yêu nước Việt Nam, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, nhiều chính sách được ban hành và giải pháp đề xuất
nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước. Nhờ đó, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, như đã
nêu trong văn kiện Đại hội khóa XIII. Đại hội Đảng có ý nghĩa: “Đất nước ta chưa bao
giờ trải qua chuyện như thế này. Hạnh phúc, tiềm lực, vị thế và danh tiếng quốc tế như ngày nay”.
Đảng và Nhà nước luôn phấn đấu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; ban
hành nhiều chính sách, chủ trương, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; Đẩy mạnh xây dựng, chấn chỉnh hệ thống 15
Đảng, chính trị trong sạch, vững mạnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực... Vì lẽ đó, cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhiệt tình, tin tưởng vào Đảng, Nhà
nước, vào tiến trình đổi mới, vào sự thịnh vượng của đất nước, triển vọng phát triển;
tin tưởng vào lực lượng vũ trang; tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái, năng động, sáng tạo của nhân dân Việt Nam được phát
huy và củng cố. Vị thế và sức mạnh của đất nước ngày càng được củng cố và nâng cao.
2.2. Quan điểm của Đảng về tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong quá trình
phát triển ở Việt Nam hiện nay
Trong lịch sử, Hồ Chí Minh là người thấm nhuần quan điểm Mác - Lênin về vai
trò của quần chúng nhân dân trong việc chỉ đạo tư tưởng và hành động thực tiễn, luôn
đề cao vai trò quản lý của nhân dân. Nhân dân, sức mạnh của nhân dân, luôn tin tưởng
vào khả năng, sức mạnh của nhân dân, chỉ cần có dân thì sẽ có nước, chinh phục được
lòng dân là được tất cả. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), trả lời cho câu
hỏi: “Ai là người cách mệnh?”, Người giải thích: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh,
cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản
lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng bào ta đã huy động sức mạnh
của cả nước “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, đất nước ta nhận nhiệm vụ “vừa
kháng chiến, vừa dựng nước” và quyết giữ được độc lập, thành lập quốc gia và lãnh
đạo cuộc kháng chiến giành thắng lợi hoàn toàn. Để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn và
to lớn này, quan điểm của Hồ Chí Minh là phải nhìn thấu mọi việc và phát huy tối đa
sức mạnh của nhân dân. Trong một nước cộng hòa Dân chủ, Chính phủ và người dân
phải đoàn kết thành một khối. Không có người dân, Chính phủ sẽ không có đủ quyền
lực. Không có Chính phủ thì người dân không có ai hướng dẫn. Lực lượng bao nhiêu
đều nhờ dân hết, rằng “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm
cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết cách giải 16
quyết nhiều vấn đề một cách dễ dàng, nhanh chóng và triệt để hơn mà đôi khi những
người tài giỏi và các tổ chức lớn không thể nghĩ tới."
Kế thừa và phát huy tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử của dân
tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là "gốc của nước". Nếu gốc khỏe thì cây sẽ bền và
có thể xây dựng những tòa nhà thắng lợi từ nó: "Chiến thắng dựa trên nền tảng của
nhân dân". Nhận thức được “sức mạnh của toàn dân là sức mạnh vĩ đại nhất, không ai
có thể vượt qua được sức mạnh này”, Người đã dạy cán bộ như sau: Nếu ta có thể
nhận được sự ưu ái của dân thì ta không có gì phải sợ hãi. Ta không thể chiến thắng
trừ khi ta giành được ta được lòng dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân.
Người khẳng định: “Trên trời không có gì quý hơn dân, trên đời này không có gì mạnh
hơn sức mạnh đoàn kết của toàn dân” và khẳng định “cách duy nhất để làm được điều
đó là dựa vào lực lượng của nhân dân, sức mạnh của nhân dân, tinh thần của nhân
dân”, “Từ bỏ tinh thần dân sinh để tạo hạnh phúc cho nhân dân”. Niềm tin vào sức
mạnh và trí tuệ của nhân dân là một trong những phẩm chất cơ bản của người Cộng
sản. Xét tình hình đất nước ngày càng khó khăn, chúng ta càng phải tin tưởng hơn vào
khả năng cách mạng và sức mạnh của quần chúng Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào Nhân dân và trông cậy vào Nhân dân. Ông
luôn đề cao việc phát huy tinh thần làm chủ và tôn trọng, lắng nghe ý kiến người dân.
“Nước lấy dân làm gốc” là mục tiêu, động lực của mọi đường lối, chính sách của Đảng
ta và của dân tộc, đồng thời cũng là bí quyết thắng lợi. Chủ nghĩa xã hội nhằm mục
đích nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của Nhân dân và do Nhân dân xây
dựng. Điều này có nghĩa là phát huy tinh thần làm chủ và sáng tạo ở Nhân dân. Nhân
dân phải được tham gia thực tế vào quá trình sản xuất và quản lý cuộc sống của mình.
Chúng ta phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người dân thông qua các tổ chức đại
diện như Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…
Hy vọng cho tương lai của hàng triệu người dân. Nếu không có ý kiến đóng góp của
công chúng thì không tập hợp được trí tuệ của quần chúng sẽ không tránh khỏi những hạn chế sai lầm
Dưới đường lối của Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dặn dò:
Chúng ta phải nỗ lực thực hiện dân chủ và thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân 17
dân, dân chủ kinh tế và dân chủ chính trị. Theo Bác: “Với dân chủ, cả quan chức và
công chúng đều có thể nắm quyền kiểm soát”. Chỉ khi đó con người mới có niềm tin,
mới lên tiếng, có tính sáng tạo và từ đó mới có động lực sản xuất.
Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
rèn luyện cán bộ, Đảng viên nêu cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm với Nhân dân, phê
phán mạnh mẽ những phát ngôn gây tổn hại đến lợi ích của nhân dân. Với tư tưởng
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Bác luôn coi mình là người phục vụ quần
chúng và có trách nhiệm với họ. Bác miêu tả bộ máy quan liêu, xa cách nhân dân, coi
thường nhân dân, đặc biệt là “bộ máy quan liêu cách mạng” ra lệnh, áp đặt quyền lực,
“không tin nhân dân”, dẫn đến “dân không tin tưởng”, Chính phủ bị chỉ trích gay gắt,
Chính phủ “không thể tin cậy được người dân.'' “Điều này làm tổn hại đến uy tín của Đảng và chính phủ”
Trước khi ra đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nhức nhối trong lòng khi nghĩ
tới việc phải chăm lo cho cuộc sống của người dân. Trong di chúc, Người để lại
những chỉ dẫn chi tiết về những việc cần làm đối với những người đã dũng cảm hi sinh
một phần xương máu của mình, đối với cha mẹ, vợ con các thương binh liệt sĩ, đối với
các chiến sĩ trẻ của lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong, đối với nông dân,
với “xây dựng lại các thị trấn, làng mạc đẹp”, “phát triển công tác vệ sinh y tế”, “sửa
đổi chế độ giáo dục”... nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần Nhân dân.
Với tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, yêu thương, tôn trọng Nhân dân, luôn tin
tưởng vào khả năng, sức mạnh của quần chúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vun đắp
vì đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp ngày càng lan rộng mạnh mẽ, vững chãi, góp phần to
lớn vào những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng vì dân,
vì con người. Dựa vào Nhân dân, tin vào sức lực, trí tuệ của Nhân dân, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết, quan hệ chặt
chẽ giữa Đảng và nhân dân. Đó cũng là nền tảng cho công cuộc đổi mới và phát triển
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện.
2.3. Một số giải pháp nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân trong giai đoạn hiện nay 18
Vai trò của quần chúng trong thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương thể hiện
ở nhận thức, tính chủ động của họ trong việc thừa nhận giá trị của dân chủ và tầm quan
trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ. Khi quần chúng đã chủ động tìm hiểu, hiểu
đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình, hiểu rõ chính sách, pháp luật của Nhà nước thì
trên cơ sở đó họ sẽ chủ động, tích cực thực hiện và thực thi các quyền, nghĩa vụ của
mình. Thực tiễn thực hiện các quy định, mệnh lệnh thực hiện dân chủ ở cấp địa
phương cho thấy: ở bất kỳ địa phương nào, người dân cũng tích cực tìm hiểu, hiểu rõ
nội dung các quy định, mệnh lệnh thực hiện quy chế dân chủ. Bằng cách này, quần
chúng nhân dân biết được nội dung nào họ có quyền quyết định trực tiếp và nội dung
nào họ có quyền tham gia, đóng góp ý kiến mà cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Để phát huy vai trò của quần chúng trong thực hiện quy chế dân chủ ở địa
phương, thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phát huy quyền làm chủ và vai trò của quần chúng trong việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cấp cơ sở ở cấp xã.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một trong những giải pháp quan trọng
giúp người dân thực sự thực hiện quyền làm chủ của mình. Trên cơ sở đó, phát huy
dân chủ và phát huy vai trò của quần chúng trong việc thực hiện những quy chế dân
chủ cơ bản ở các đô thị Trong những năm tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp cụ
thể nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững của huyện nhằm tạo điều kiện,
tiền đề cần thiết nâng cao đời sống vật chất và trình độ dân trí cho nhân dân. Tiếp tục
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất nguyên liệu,
phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, hình thành các chuỗi giá trị hiện có, đẩy
mạnh xây dựng, hình thành các vùng chuyên canh mới trong vùng, góp phần từng
bước thay đổi tư duy, nâng cao trình độ dân trí, mức độ quần chúng ở nông thôn. Từ
đó, nâng cao nhận thức và khả năng thực hành dân chủ ở cấp xã cho quần chúng.
Thứ hai, tiếp tục tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước
Tăng cường hoạt động quan hệ công chúng và thực hiện triệt để Kết luận số
120-KL/TW ngày 7 tháng 1 năm 2016 của Bộ Chính trị với chủ đề “Tiếp tục đẩy mạnh
cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”
và Thông tư số 01/2016/TT-BNV, ngày 13/01/2016 của Bộ Nội vụ “Hướng dẫn một 19
số nội dung của Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 09/01/2015 của Chính phủ về
thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị
sự nghiệp công lập”; Chỉ thị số 27-CT/TU, ngày 26/02/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về tiếp tục tăng cường lãnh đạo xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở và Nghị
quyết số 12-NQ/HU, ngày 18/5/2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy về “tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở thôn,
khu phố trong tình hình mới”.
Rà soát, tăng cường hơn nữa thành phần Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện thể
chế dân chủ ở cơ sở các cấp trên cơ sở trách nhiệm của từng cá nhân được giao quản lý
cơ quan. Đánh giá thực tế công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
Tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của
Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ
Chính trị ban hành Quy định về Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, trong đó có nội dung
về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Gắn việc tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước và trong xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền. Nâng cao
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong đối thoại trực tiếp với nhân
dân, trong công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân góp phần ổn định tình hình chính trị, kinh tế- xã
hội, quốc phòng an ninh ở địa phương.
Thứ ba, nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm quần
chúng nhân dân thực hiện quyền làm chủ
Tạo điều kiện để quần chúng tham gia đóng góp ý kiến về nội dung nghị quyết,
quyết định, kế hoạch của cấp ủy, chính quyền địa phương. Quá trình xây dựng nghị
quyết, chương trình của các cấp ủy Lạng Sơn phần lớn vẫn còn khép kín và là công
việc nội bộ của Đảng bộ. Vai trò của người dân trong xây dựng nghị quyết Đảng chỉ
mang tính lý thuyết, chưa được cụ thể hóa trong các quy định. Vì vậy, để bảo đảm
quyền kiểm soát của nhân dân, cấp ủy, chính quyền thành phố cần bảo đảm quyền 20