Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất (KHTN-Đại học Quốc Gia Hà Nội)

Vào thời kỳ cổ đại:   Ở Hy Lạp nói riêng, phương Tây nói chung các nhà Triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Vào thời
kỳ cổ đại:
- Ở Hy Lạp nói riêng, phương Tây nói chung các nhà Triết học duy vật đã
đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó.
Ở phương Tây, các nhà triết học quy thế giới vào một chỉnh thể thống nhất từ
đó đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên. Một số quan điểm có thể nhắc tới như:
Taket coi vật chất là nước; Anaximen coi vật chất là không khí; Heraclitus coi
vật chất là lửa; Anximangdo coi vật chất là hạt praton (phần tử nhỏ bé không thể
phân chia được)
- Ở phương Đông, quan niệm vậy chất thể hiện qua một số trường phái Triết
học Ấn Độ và Trung Quốc về thế giới. Ấn Độ có trường phái Lokayata cho
rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp của 4 nguyên tố Đất – Nước – Lưả -
Khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian
và cấu thành vạn vật. Phái Nyaya và Vaisesika lại coi nguyên tử là thực thể
của thế giới.
Trung Quốc có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên
và phổ biến của vạn vật là tương tác của các thế lực đối lập nhau là Âm –
Dương. Trong đó âm là phạm trù rất rộng chỉ nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải,
số chẵn… còn Dương đối lập với Âm phản ánh tính cương, sáng, khô, phía trên,
số lẻ,… Hai thế lực đối lập nhưng cũng thống nhất với nhau tạo thành vạn vật.
Thuyết Ngũ Hành của Trung Quốc có xu hướng phân tích cấu trúc vạn vật
rồi quy về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau. 5 nhân tố khởi nguyên
lần lượt là Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, chúng không tồn tại độc lập mà tác
động lẫn nhau theo nguyên tắc tương sinh, tương khắc
Đây là những triết lý đặc sắc mang tính duy vật và biện chứng
Vào thời kỳ cận đại:
Vào thế kỷ 17 nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở Châu Âu có sự phát triển
mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực Vật lý học với phát minh của Newton,
phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào
trong Triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã
có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố Biện chứng.
- Nicolai Copernic chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn truyền
thuyết của kinh thành và quan điểm của thần học thế giới
- Quan điểm của Francis Bacon, coi thế giới vậ chất tồn tại khách quan, vật
chất là tổng hợp các hạt
- Quan điểm của Pierre Gassendi, phát triển học thuyết nguyên tử của thời cổ
đại cho rằng thế giới gồm những nguyên tử có tính tuyệt đối như tính kiên c
và tính không thể thông qua.
Vào thế kỷ 18, các nhà triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên một
tầm cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi sự vật chỉ có 1
thực thể duy nhất là vật chất. Mọi sự phân biệt về chất bị xem nhẹ và đều được
quy giải chỉ sự khác nhau về lượng. Vì vậy, các nhà triết học duy vật thời kỳ này
đã đồng nhất vật chất với khối lượng và coi vận động của vật chất chỉ là vận
động cơ học và nguyên nhân của sự vận động đó là do tác động từ bên ngoài.
Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Ludwig Feuerbach,ông chứng
minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ
thế giới tự nhiên. Nó không tự sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức
không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào. Sự tồn tại của giới tự nhiên năm
ngay trong lòng của giới tự nhiên. tuy nhiên L.Feuerbach lại khôngthấy đuợc
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con người với xã hội, con
ngườivới giới tự nhiên
Đây là những triết lý đặc sắc mang tính duy vật và siêu hình
Tóm lại: Các nhà triết học duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa
ra những kiến giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết
sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả
họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất với vật thể hoặc một
thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất gắn
liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống
xã hội và chỉ đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được
giải quyết một cách khoa học
| 1/2

Preview text:

Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Vào thời kỳ cổ đại:
- Ở Hy Lạp nói riêng, phương Tây nói chung các nhà Triết học duy vật đã
đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó.
Ở phương Tây, các nhà triết học quy thế giới vào một chỉnh thể thống nhất từ
đó đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên. Một số quan điểm có thể nhắc tới như:
Taket coi vật chất là nước; Anaximen coi vật chất là không khí; Heraclitus coi
vật chất là lửa; Anximangdo coi vật chất là hạt praton (phần tử nhỏ bé không thể phân chia được)
- Ở phương Đông, quan niệm vậy chất thể hiện qua một số trường phái Triết
học Ấn Độ và Trung Quốc về thế giới. Ấn Độ có trường phái Lokayata cho
rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp của 4 nguyên tố Đất – Nước – Lưả -
Khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian
và cấu thành vạn vật. Phái Nyaya và Vaisesika lại coi nguyên tử là thực thể của thế giới.
Trung Quốc có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên
và phổ biến của vạn vật là tương tác của các thế lực đối lập nhau là Âm –
Dương. Trong đó âm là phạm trù rất rộng chỉ nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải,
số chẵn… còn Dương đối lập với Âm phản ánh tính cương, sáng, khô, phía trên,
số lẻ,… Hai thế lực đối lập nhưng cũng thống nhất với nhau tạo thành vạn vật.
Thuyết Ngũ Hành của Trung Quốc có xu hướng phân tích cấu trúc vạn vật
rồi quy về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau. 5 nhân tố khởi nguyên
lần lượt là Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, chúng không tồn tại độc lập mà tác
động lẫn nhau theo nguyên tắc tương sinh, tương khắc
Đây là những triết lý đặc sắc mang tính duy vật và biện chứng
Vào thời kỳ cận đại:
Vào thế kỷ 17 nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở Châu Âu có sự phát triển
mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực Vật lý học với phát minh của Newton,
phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào
trong Triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã
có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố Biện chứng.
- Nicolai Copernic chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn truyền
thuyết của kinh thành và quan điểm của thần học thế giới
- Quan điểm của Francis Bacon, coi thế giới vậ chất tồn tại khách quan, vật
chất là tổng hợp các hạt
- Quan điểm của Pierre Gassendi, phát triển học thuyết nguyên tử của thời cổ
đại cho rằng thế giới gồm những nguyên tử có tính tuyệt đối như tính kiên cố
và tính không thể thông qua.
Vào thế kỷ 18, các nhà triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên một
tầm cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi sự vật chỉ có 1
thực thể duy nhất là vật chất. Mọi sự phân biệt về chất bị xem nhẹ và đều được
quy giải chỉ sự khác nhau về lượng. Vì vậy, các nhà triết học duy vật thời kỳ này
đã đồng nhất vật chất với khối lượng và coi vận động của vật chất chỉ là vận
động cơ học và nguyên nhân của sự vận động đó là do tác động từ bên ngoài.
Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Ludwig Feuerbach,ông chứng
minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ
thế giới tự nhiên. Nó không tự sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức và
không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào. Sự tồn tại của giới tự nhiên năm
ngay trong lòng của giới tự nhiên. tuy nhiên L.Feuerbach lại khôngthấy đuợc
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con người với xã hội, con
ngườivới giới tự nhiên
Đây là những triết lý đặc sắc mang tính duy vật và siêu hình
Tóm lại: Các nhà triết học duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa
ra những kiến giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết
sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả
họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất với vật thể hoặc một
thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất gắn
liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống
xã hội và chỉ đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được
giải quyết một cách khoa học