



















Preview text:
BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH --- ❢--- ĐỀ TÀI:
CHUỖI CUNG ỨNG TRONG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Giảng viên: Nguyễn Phi Hoàng Sinh viên thực hiện:
Đặng Thúy Ngân – 1921003601
Vương Thị Trà My – 1921003587
Lê Trang Hà Nhi – 1921003638
Trần Thị Mỹ Ngọc – 1921003620
Nguyễn Thị Ngọc Mai – 2021007876
Nguyễn Thị Phương Nhi – 1921003642
Nguyễn Quế Lam – 1921003547
Ngô Thị Minh Thư - 1921003759
Tp.Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2022 MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1
II. MÔ HÌNH CHUỖI CUNG ỨNG CỦA NGÀNH DỆT MAY ................................... 2
III. PHÂN TÍCH CHUỖI CUNG ỨNG CỦA NGÀNH DỆT MAY.............................. 4
1. Phân tích .................................................................................................................. 4
2. Thành công ............................................................................................................ 10
3. Thất bại .................................................................................................................. 10
4. Điểm mạnh ............................................................................................................ 11
5. Điểm yếu ............................................................................................................... 12
6. Nguyên nhân .......................................................................................................... 12
7. Tồn tại .................................................................................................................... 14
IV. THÀNH PHẦN CHỦ ĐẠO CỦA CHUỖI CUNG ỨNG NGÀNH DỆT MAY .... 14
V. GIẢI PHÁP ............................................................................................................... 15
VI. NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG NGÀNH DỆT MAY .......... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 23
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Nhiều năm qua, dệt may là ngành “tiên phong” trong chiến lược xuất khẩu hàng
hóa Việt Nam ra thị trường thế giới, thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn.
Ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao. Thành
quả này là nhờ Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào, khéo tay; chi phí lao động
thấp, các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ được chữ tín trong kinh doanh
với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới. Với mục tiêu thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, dệt may là một trong những ngành được chú trọng và ưu tiên
phát triển trên cơ sở tận dụng nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ trong nước để thực hiện
các đơn hàng may xuất khẩu của nước ngoài. Đến nay, số lao động trong ngành may
là gần 2,5 triệu lao động, dự kiến đến năm 2025 số lao động sẽ tăng lên 5 triệu lao động.
Ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ và
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng của nền kinh tế. Trong tất cả các
mặt hàng công nghiệp xuất khẩu hiện nay, Dệt May là ngành có kim ngạch xuất khẩu
và tốc độ tăng trưởng cao và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, giữ
vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 12 - 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2018 đã đạt trên 36
tỷ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây là lần đầu tiên Việt
Nam đứng thứ hai thế giới về quy mô xuất khẩu hàng dệt may, chỉ sau Trung Quốc và
đứng thứ tư về quy mô sản xuất hàng dệt may toàn cầu. Sau hơn 10 năm gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam tăng
lên hơn 4 lần, trong đó giá trị nội địa hóa của sản phẩm dệt may xuất khẩu tăng trên 6
lần. Công nghiệp dệt may hiện đang giữ một vai trò quan trọng trong phát triển tăng
trưởng kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu cuộc sống
hàng ngày, ngành dệt may còn tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động
trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế quốc dân. 1
Song để phát triển hơn nữa, ngành Dệt May cần những sự thay đổi mạnh mẽ hơn
bằng việc tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 (CMCN 4.0). Cuộc CMCN 4.0 đã và đang lan rộng ra phạm vi toàn cầu, tác
động mạnh mẽ đến mọi hoạt động của đời sống - xã hội, trong đó có ngành Công
nghiệp Dệt May của thế giới nói chung và ngành Công nghiệp Dệt May của Việt Nam nói riêng.
Cách mạng công nghiệp 4.0 được kỳ vọng sẽ tạo nên sự thay đổi lớn về phương
thức sản xuất, làm thay đổi sâu rộng chuỗi giá trị sản phẩm, từ nghiên cứu - phát triển
đến sản xuất, dịch vụ logistics đến dịch vụ khách hàng,… giúp giảm đáng kể chi phí
sản xuất, vận chuyển, phân phối và làm tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với nhiều doanh nghiệp Dệt May
Việt Nam, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hiện nay, bởi
nhân lực để tiếp cận với cách mạng công nghiệp 4.0 còn yếu, việc đầu tư để ứng dụng
công nghệ còn hạn chế, do đó, đòi hỏi toàn ngành Dệt May phải nỗ lực rất nhiều mới
đáp ứng được những yêu cầu của hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay và sau này.
Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành hàng dệt may đạt 40,3 tỷ USD, tăng
15,2% so với năm 2020, trong đó, xuất khẩu hàng dệt may của khối doanh nghiệp FDI
đạt 24,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 60,3% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc của cả nước
Sản xuất công nghiệp của ngành dệt và may mặc Việt Nam đã khởi sắc trong
những tháng cuối năm. Năm 2021, sản xuất công nghiệp ngành dệt tăng 8,3% và
ngành may tăng 7,6% so với năm 2020. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
hàng dệt may đạt 40,3 tỷ USD, tăng 15,2% so với năm 2020, trong đó, xuất khẩu hàng
dệt may của khối doanh nghiệp FDI đạt 24,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm
trước và chiếm 60,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc của cả nước.
Trong đó, hàng dệt, may đạt 32,8 tỷ USD tăng 9,9% so với năm trước, xơ sợi đạt 5,6 tỷ USD, tăng 50,2%. 2
II. MÔ HÌNH CHUỖI CUNG ỨNG CỦA NGÀNH DỆT MAY
Mô hình chuỗi cung ứng của ngành dệt may Việt Nam
Nhìn vào chuỗi cung ứng của ngành Dệt may, có thể nhận thấy đây là một chuỗi
cung ứng có quy mô lớn và các thành viên trong chuỗi có mối quan hệ mật thiết với
nhau dựa trên nền tảng kỹ thuật phức tạp. Mỗi thành viên trong chuỗi cung ứng có vai
trò nhất định trong quy trình tạo ra sản phẩm đáp ứng các yêu cầu của người tiêu
dùng. Một thành viên trong chuỗi cung ứng có thể là khách hàng của thành viên trước
nó nhưng lại đóng vai trò là nhà cung cấp cho thành viên sau nó. Mỗi một khâu trong
chuỗi cung ứng có thể do một hoặc một số thành viên trong chuỗi cung ứng đảm
nhiệm. Chính vì vậy, để bảo đảm cho chuỗi cung ứng đạt được hiệu quả cao thì các
thành viên trong chuỗi cung ứng phải có sự liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm đảm bảo
sự phù hợp giữa sự cung ứng với các yêu cầu của khách hàng, hạn chế đến mức thấp
nhất thời gian chết trong quá trình sản xuất. Trong chuỗi cung ứng, thông tin đầy đủ,
chính xác và kịp thời là nền tảng quan trọng để đưa ra các quyết định kinh doanh đúng
đắn, kịp thời. Thông tin chính là sự liên kết tất cả các hoạt động, các công đoạn và các
thành viên trong một chuỗi cung ứng. Nếu có được thông tin chính xác, đầy đủ và
đúng lúc thì các thành viên trong chuỗi cung ứng sẽ ra được quyết định đúng đắn, hợp
lý và đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Điều này sẽ giúp cho các thành viên trong 3
chuỗi cung ứng tối đa hóa lợi nhuận của mình. Vấn đề về thông tin trong chuỗi cung
ứng sẽ được giải quyết triệt để nếu các thành viên trong chuỗi cung ứng đẩy mạnh ứng
dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình.
III. PHÂN TÍCH CHUỖI CUNG ỨNG CỦA NGÀNH DỆT MAY
1. Phân tích các thành phần trong chuỗi cung ứng a. Hệ thống xuất khẩu
- Thị trường xuất khẩu dệt may chính của Việt Nam
Việt Nam đứng thứ 2 thị phần nhập khẩu dệt may tại Mỹ, và có xu hướng tăng khi
chiến tranh thương mại Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng (tăng từ 12% - 2018 lên 15%
- 2020). Đến năm 2021, thị phần của Việt Nam giảm nhẹ 1% do ảnh hưởng từ giãn
cách Covid. Ngoài ra, mặt hàng dệt may Việt Nam có dấu hiệu bị chịu áp lực về giá.
Sau khi nguồn cung giá rẻ là Trung Quốc bị ảnh hưởng, Mỹ có xu hướng gia tăng
nhập hàng từ các nước có giá dệt may thấp hơn Việt Nam, khiến giá dệt may nhập từ
Việt Nam giảm mạnh 7,7% svck.
- Ảnh hưởng từ các hiệp định đã ký kết
RCEP (có hiệu lực từ 01/01/2022): Với sự gia nhập của Trung Quốc dẫn đến quy
tắc xuất xứ sợi hoặc vải trở đi của RCEP được coi là dễ đáp ứng hơn điều kiện của
CPTPP đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, RCEP kỳ vọng sẽ đồng thời bổ
trợ KNXK sang 6 nước giao thoa với CPTPP.
EVFTA (có hiệu lực từ 01/08/2021): Tuy EU là nước nhập khẩu may mặc lớn
nhất thế giới, tuy nhiên trị giá xuất khẩu sang EU mới chỉ chiếm khoảng 6% tổng
KNXK dệt may của Việt Nam. Nhờ tác động của EVFTA kết hợp với tốc độ kiểm
soát Covid tại EU, trị giá xuất khẩu của VN sang EU tăng 8% trong năm 2021.
Theo như VITAS cho biết, khi gia nhập TTP, ngoài lợi thế giảm thuế vào thị
trường các nước thành viên, ngành dệt may Việt Nam sẽ thu hút nhiều nguồn vốn FDI
vào lĩnh vực dệt nhuộm, tăng thêm động lực phát triển cho ngành. 4
UKVFTA (có hiệu lực từ 01/05/2021): HĐ giúp Việt Nam và Vương quốc Anh &
Bắc Ireland duy trì các điều kiện thương mại ưu đãi và lợi ích kinh tế thông qua cam
kết mở cửa thị trường đã có trong EVFTA. Tại Anh, VN chỉ chiếm tỷ trọng ~2,5% giá
trị nhập khẩu, Anh nhập nhiều nhất từ Trung Quốc (tỷ trọng 21%) và Bangladesh (tỷ
trọng 15%).Giá trị xuất khẩu may mặc sang nước Anh chỉ chiếm gần 2% tổng giá trị
xuất khẩu dệt may của Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam chủ yếu là Mỹ (chiếm đến 45-
50% tổng giá trị). Năm 2021, giá trị xuất khẩu sang Mỹ đạt 16 tỷ USD (+15% svck). b. Nguyên liệu đầu vào
- Giá nguyên liệu sản xuất tiếp tục tăng 5
Hiện nay, trên 60% thị phần sợi toàn cầu tập trung vào sợi nhân tạo tổng hợp vốn
có nguồn gốc từ dầu mỏ, than đá, khí đốt. Do đó xung đột Nga-Ukraine tác động trực
tiếp và dự kiến sẽ đẩy mạnh giá sản xuất xơ, sợi trong năm 2022. Giá bông nguyên
liệu đã tăng khoảng 42% trong năm 2021 và dự kiến sẽ tăng chủ yếu trong 6 tháng đầu
năm 2022, trước khi phục hồi lại cán cân cung cầu trong nửa cuối năm. Giá bông và
xơ, sợi nguyên liệu tăng cao trong khi giá trị các sản phẩm may mặc không tăng đủ để
bù đắp chi phí tăng thêm (giá bán chỉ tăng 15-17% trong cùng một giai đoạn) sẽ ảnh
hưởng đến biên lợi nhuận của các DN may mặc. Các DN sản xuất xơ sợi, vốn là mảng
được hưởng lợi chủ yếu trong ngành dệt may năm 2021. Dự kiến sau khi tăng mạnh
về giá trị trong năm 2021, thị trường sợi sẽ điều chỉnh về điểm cân bằng trong năm
2022. Do đó, biên lợi nhuận sẽ co hẹp so với năm 2021. 6
Thiếu và yếu kém trong khâu thiết kế, phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu,
năng suất lao động thấp khiến giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may Việt Nam còn thấp
Đa phần nguyên phụ liệu sản xuất vẫn phải nhập khẩu. Tính đến nay ngành dệt
may mới chỉ nội địa hóa được khoảng 48% nguồn nguyên phụ liệu xuất nên giá trị
thặng dư của ngành khó được cải thiện. Cụ thể hiện nay ngành mới chỉ đáp ứng được
2% nhu cầu bông, 1/8 nhu cầu vải. Tuy nhiên chất lượng chưa được đảm bảo. Mặc dù
tỷ lệ nội địa hóa đang từng bước được cải thiện, mỗi năm tăng từ 3%-5%, nhưng vẫn
còn thấp xa so với mức 90% của Ấn Độ và 95% của Trung Quốc.
- Ngành dệt may đang phụ thuộc khoảng 70% nguyên phụ liệu nhập khẩu
Ngành dệt may Việt Nam có tính gia công lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát
triển. Do đó, theo số liệu thống kê của VITAS, hiện nay hơn 70% nguyên phụ liệu dệt
may vẫn phải nhập khẩu. Đối với vải và xơ, sợi dệt, Trung Quốc luôn là top 1 nhà
cung ứng chính khi chiếm xấp xỉ 60% KNNK các mặt hàng này vào Việt Nam.
- Chỉ 1/3 sợi sản xuất được sử dụng cho nhu cầu trong nước
Ngành trồng bông và kéo sợi là khâu của đoạn đầu của chuỗi dệt may và giữ vai
trò trọng yếu trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào và cho các phân đoạn còn lại 7
gồm dệt – nhuôm và cắt may. Các khâu trong chuỗi dệt may Việt Nam hiện vẫn chưa
phát triển cân xứng với nhau, bước tiếp theo là Dệt và Nhuộm chưa thể đáp ứng được
yêu cầu sản xuất. Do đó, chỉ khoảng 1/3 sợi sản xuất sử dụng cho nhu cầu trong nước,
phần còn lại được xuất khẩu, chủ yếu sang Thổ Nhĩ Kỳ.
c. Các yếu tố sản xuất
- Khâu Dệt & Nhuộm công nghiệp được coi là nút thắt của ngành dệt may Việt Nam.
Quy trình này đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu cao, đặc biệt cho hệ thống xử lý nước
thải. Thực tế hiện nay dệt may Việt Nam lại không có nhiều nhà máy nhuộm đáp ứng
được những tiêu chuẩn cần thiết, năng lực sản xuất lại quá nhỏ nên cũng không thể
đáp ứng được đủ nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất trong nước. Thêm vào đó, đặc
tính ngành may Việt Nam là gia công xuất khẩu, việc chọn nguyên liệu phải theo sự
chỉ định của khách hàng, tạo thêm khó khăn cho ngành dệt nhuộm.
- Cắt may là khâu sản xuất chính trong chuỗi dệt may của Việt Nam nhưng lại có
tỷ suất lợi nhuận thấp nhất
Các công ty dệt và nhuộm trong nước chỉ đáp ứng được 0.8 tỷ mét vài nhuộm,
tương ứng 11.8% tổng số vải nhuộm, còn lại 6 tỷ mét phải nhập khẩu. Trong đó, 50%
vải nhuộm được nhập khẩu từ Trung Quốc, phần còn lại là từ các quốc gia Đài Loan,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Ấn Độ… Việt Nam được đánh giá là có lợi thế ở
khâu cắt may trong chuỗi cung ứng từ nguồn lao động dồi dào và yêu cầu vốn đầu tư
thấp hơn. Tuy nhiên đây là khâu được cho là có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất trong
chuỗi giá trị ngành dệt may. d. Hệ thống sản xuất
Thiếu tự chủ về nguồn nguyên liệu cũng như tập trung chủ yếu vào gia công
(CMT) khiến Việt Nam tuy là nhà xuất khẩu may mặc lớn thứ 2 Thế Giới nhưng biên
lợi nhuận vẫn rất thấp (xấp xỉ 5-6%). Đồng thời, với các tiêu chuẩn khắt khe về nguồn
gốc, việc chuỗi cung ứng bị phân mảnh khiến các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận
dụng tối đa được lợi ích của các hiệp định FTA. e. Hệ thống marketing 8
- Liên kết yếu giữa các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng
Hoạt động phân phối, mạng lưới xuất khẩu và marketing của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự phát triển, phụ thuộc nhiều vào các nhà
buôn nước ngoài. Đây là điểm yếu lớn trong chuỗi giá trị ngành Dệt may Việt Nam,
hạn chế xâm nhập vào các khâu cao hơn trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Phần lớn
các doanh nghiệp trong nước vẫn phải thông qua các nhà cung cấp khu vực để có các
hợp đồng gia công, rất ít các doanh nghiệp có hợp đồng gia công trực tiếp từ các nhà
bán lẻ. Một số khác thì thông qua các văn phòng đại diện ở Việt Nam của các thương
hiệu nổi tiếng để cung cấp sản phẩm.
Gần như không có sự tương tác trực tiếp giữa các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam và các nhà bán lẻ cuối cùng. Điều này gây khó khăn cho các nhà sản xuất trong
việc nắm bắt yêu cầu của thị trường để đáp ứng một cách nhanh chóng sự thay nhu
cầu của người mua cũng như xu hướng thời trang mới trên thế giới.
- Các sản phẩm may mặc trong nước còn chiếm thị phần khá thấp
Thị phần dệt may sản xuất trong nước chiếm khoảng 70% tổng mức tiêu thụ tại thị
trường nội địa, 30% còn lại là hàng dệt may nước ngoài. Thực tế, sản phẩm may bình
dân do Việt Nam sản xuất chất lượng tốt nhưng còn hạn chế trong chiếm lĩnh thị
trường trong nước do từ trước đến nay chủ yếu tập trung cho xuất khẩu. Bên cạnh đó,
mặc dù triển vọng phát triển thị trường may mặc ở khu vực nông thôn là rất lớn nhưng
việc triển khai hệ thống phân phối tại khu vực này còn gặp nhiều khó khăn do nhu cầu
tiêu dùng chưa cao, các kênh phân phối nhỏ khi giao hàng thường nợ đọng vốn, nên
lượng vốn lưu động cần rất lớn. Thị trường bán lẻ trong nước rất phân tán. Theo
nghiên cứu mới đây của Niesel cho thấy, có đến 90% ngưởi tiêu dùng được hỏi ở TP
Hồ Chí Minh và 83% ở Hà Nội cho biết họ có thể hoặc chắc chắn sẽ mua hàng Việt
Nam nhiều hơn. Có thể thấy xu hướng sự dụng hàng Việt Nam đang tăng lên. Lý do
khiến người tiêu dùng quay trở lại với các sản phẩm trong nước được đưa ra bao gồm:
giá cả hợp lý, tính đa dạng, dịch vụ khuyến mại, bảo hành tốt, và quan trọng hơn là 9
giảm mối quan ngại về vấn đề an toàn sức khỏe của sản phẩm may mặc tràn làn trên thị trường hiện nay. 2. Thành công
VN đang có ngành dệt may quy mô lớn thứ 4 thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Ấn
Độ, Bangladesh. Tuy nhiên, VN là quốc gia duy nhất duy trì tốc độ tăng trưởng 2 con
số đã chứng tỏ năng lực cạnh tranh của ngành trên thị trường thế giới là khá tốt và có
tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất dệt may của thế giới.
Sau hơn 20 năm liên tục phát triển với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 15%/năm,
vươn lên đứng thứ 2 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Nếu
như năm 1990 hàng dệt may Việt Nam mới chỉ có mặt ở gần 30 nước trên thế giới thì
đến nay đã hiện diện ở hầu khắp các châu lục với trên 100 nước và vùng lãnh thổ.
Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
hàng dệt may đạt 40,3 tỷ USD, tăng 15,2% so với năm 2020, trong đó, xuất
khẩu hàng dệt may của khối doanh nghiệp FDI đạt 24,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với
cùng kỳ năm trước và chiếm 60,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may
mặc của cả nước. Về chất lượng, chất lượng tăng trưởng vẫn đang là vấn đề lớn đặt ra
đối với ngành dệt may Việt Nam.
Với những cơ hội do hội nhập mang lại,ngành dệt may Việt Nam hiện chủ yếu
tham gia vào khâu gia công sản phẩm cuối cùng với giá trị gia tăng thấp. Do vậy việc 10
thâm nhập sâu rộng vào tìm kiếm ... chuỗi giá trị toàn cầu là hết sức cần thiết để ngành
dệt may phát huy hơn nữa vai trò trong phát triển nền kinh tế đất nước. 3. Thất bại
Với hơn 95 triệu dân, Việt Nam là một thị trường tiêu thụ may mặc khá tiềm
năng, trị giá ước tính gần 9 tỷ USD. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự
mạnh trên thị trường nội địa là do các nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, trên thị trường may mặc Việt Nam có quá nhiều thị trường "ngách",
trong đó hàng tiểu ngạch chiếm một phần không nhỏ. Hàng tiểu ngạch có ưu điểm là
tương đối rẻ, lại đa dạng về màu sắc và mẫu mã, chủng loại nên được số đông chấp
nhận. Quần áo do các công ty Việt Nam sản xuất, tuy chất lượng tốt hơn nhưng do chi
phí sản xuất cao nên khó cạnh tranh về giá so với hàng tiểu ngạch.
Thứ hai, để đầu tư vào hệ thống sản xuất cho tiêu dùng trong nước cần mất nhiều
công sức, thời gian và nhiều vốn. Do đó khả năng thu hồi vốn không nhanh như sản
xuất gia công xuất khẩu.
Vì vậy, từ góc độ kinh doanh, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp may mặc của Việt
Nam vẫn mang tâm lý ngần ngại, chưa mạnh dạn đầu tư vào thị trường nội địa bởi khả
năng hồi vốn chậm, có khi phải chấp nhận thua lỗ trong thời gian đầu để xây dựng
thương hiệu. Thêm vào đó, các điểm yếu của doanh nghiệp dệt may trong nước là
chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên
phụ liệu từ nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, sản xuất quy mô còn nhỏ nên không
cạnh tranh được về giá, mẫu mã…
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú đánh giá ngành dệt may tham gia
chuỗi cung ứng vẫn đang dừng lại ở mức bị động, chưa hướng đến nhu cầu của thị
trường để tìm cách đáp ứng nhu cầu. Ngay cả bản thân các doanh nghiệp sản
xuất hàng gia công cũng rất thụ động trong việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường.
"Trong khi đó, muốn phát triển và vươn ra các thị trường khu vực, quốc tế thì điều
thiết yếu của doanh nghiệp là phải tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu một cách trực
tiếp hay gián tiếp. Do vậy, việc định vị được vị trí của mình trong chuỗi giá trị toàn 11
cầu là điều mà các doanh nghiệp dệt may phải hướng đến nếu không muốn chỉ dừng ở
công đoạn gia công, lấy công làm lãi" - ông Tú đưa ra lời khuyên. 4. Điểm mạnh
- Sản phẩm dệt may của Việt Nam đã được chấp nhận tại các thị trường có yêu
cầu cao như EU, Nhật Bản, Mỹ
- Việt Nam đã ghi danh trên bản đồ xuất khẩu hàng may mặc với vị trí thứ hai
toàn cầu vượt qua Bangladesh và chỉ đứng sau Trung Quốc vào năm 2021
- Chi phí lao động trong ngành dệt may của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc trong
khi kỹ năng và tay nghề được đánh giá cao
- Một số doanh nghiệp lớn đã xây dựng được thương hiệu và hình thành chuỗi giá trị trong nước
- Dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ trọng lớn, là nguồn cung lao động tốt cho dệt may
- Dệt may vẫn được chính phủ Việt Nam xác định là ngành công nghiệp trong
điểm, ưu tiên phát triển
- Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam được đánh giá cao nhờ tình hình
chính tri trong nước và chính sách đối ngoại ổn định 5. Điểm yếu
- Mặt hàng may xuất khẩu chủ yếu theo phương thức gia công (CMT), khâu thiết
kế chưa phát triển, và tỷ lệ đơn hàng FOB thấp.
- Công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là ngành dệt phát triển chưa tương xứng với ngành
may nên tỷ lệ nội địa hóa và giá trị tạo ra trong nước chưa cao. Việc phụ thuộc lớn vào
lượng vải nhập khẩu khiến doanh nghiệp may khó hình thành được chuỗi sản xuất
trong nước và chủ động kế hoạch sản xuất
- Hầu hết các doanh nghiệp dệt may có quy mô nhỏ và vừa, khả năng huy động
vốn thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị, kỹ năng quản lý còn
thấp, năng suất lo động chưa cao. 12
- Thiếu chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dệt may chất lượng cao và đội ngũ
thiết kế có khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu. 6. Nguyên nhân
Ngành dệt may thiếu tính liên kết theo chuỗi giá trị và liên kết giữa FDI với doanh
nghiệp trong nước: chuỗi cung ứng ngành dệt may là sự liên kết giữa các công đoạn
sản xuất khác nhau, bắt đầu từ sản xuất nguyên liệu bông, xơ, đến kéo sợi, dệt vải, và
cuối cùng là may mặc. Tại Việt Nam, chuỗi cung ứng trong nước thiếu sự liên kết chặt
chẽ giữa các công đoạn, đặc biệt giữa kéo sợi dệt vải và may mặc. Dệt may Việt Nam
đạt thặng dư thương mại đối với sợi và hàng may mặc, nhưng lại thâm hụt lớn đối với
vải; sợi sản xuất ra không được sử dụng trong nước để dệt vải mà chủ yếu để xuất
khẩu, trong khi đó vải sản xuất trong nước chỉ đáp ứng chưa đến 50% nhu cầu trong
nước khiến mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu trên 10 tỷ USD vải các loại, hàng may
mặc của Việt Nam phụ thuộc lớn vào vải nhập khẩu, một phần do nguồn cung trong
nước không đủ, nhưng phần lớn là do các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là các thương hiệu lớn, đã có sẵn chuỗi cung ứng của riêng họ, họ đầu
tư nhà xưởng may hoặc đặt hàng các doanh nghiệp trong nước gia công tại Việt Nam
để tận dụng lợi thế về đất đai và lao động, trong khi toàn bộ nguồn cung nguyên liệu,
mẫu mã thiết kế đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này khiến cho các doanh
nghiệp trong nước khó có thể tham gia vào chuỗi sản xuất của các thương hiệu lớn.
Phương thức sản xuất vẫn chủ yếu là gia công: mặc dù có trên 6.000 doanh nghiệp
may mặc, nhưng trừ một số ít doanh nghiệp lớn đã tạo dựng được thương hiệu trong
nước, phần lớn doanh nghiệp may làm gia công theo đơn đặt hàng từ khách hàng,
không chủ động được nguồn cung nguyên liệu cũng như mẫu mã, thương hiệu của
riêng mình. Các doanh nghiệp may không có điều kiện tiếp cận thị trường cung ứng
nguyên phụ liệu, cũng như thị trường tiêu dùng cuối cùng và khách hàng mua trực tiếp
mà chủ yếu giao dịch thông qua các công ty thương mại. Do không tiếp cận được
khách hàng trực tiếp nên các doanh nghiệp khó có thể nắm bắt được xu hướng thị
trường. Các doanh nghiệp may chậm dịch chuyển lên các phương thức sản xuất cao
hơn một phần cũng là do thiếu tính năng động và khả năng làm chủ chuỗi cung ứng do
không có năng lực quản lý theo chuỗi để hạn chế rủi ro. Năng lực quản lý yếu kém 13
khiến doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và thời gian giao
hàng, hơn nữa, doanh nghiệp cũng không đủ năng lực về tài chính để sẵn sàng đối phó
với những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Khan hiếm nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực đã qua đào tạo: mặc dù đang
trong thời kỳ dân số vàng, mỗi năm thị trường lao động tiếp nhận thêm 400 nghìn lao
động mới, ngành dệt may vẫn phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực,
kể cả lao động kỹ thuật và lao động phổ thông. Các nhà máy may phải dịch chuyển về
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để dễ dàng tiếp cận với nguồn lao động dịch
chuyển từ khu vực nông nghiệp. Các doanh nghiệp dệt vừa gặp khó khăn trong việc
tìm địa điểm đặt nhà máy mới do các địa phương quan ngại vấn đề môi trường, vừa
gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động kỹ thuật do các chuyên ngành dệt
nhuộm tại các cơ sở đào tạo thu hút được rất ít học sinh, sinh viên đăng ký theo học.
Công nghiệp hỗ trợ trong ngành may mặc chưa phát triển: công nghiệp hỗ trợ của
ngành chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài, dẫn đến sự khan hiếm nguồn nguyên liệu trong nước, phụ thuộc lớn vào nhập
khẩu, và khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ. Ngành dệt
nhuộm kém phát triển và khó thu hút đầu tư cũng một phần là do đầu tư hạ tầng còn
chậm, công tác giải phóng mặt bằng tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gặp rất
nhiều khó khăn, các địa phương thường không mặn mà với các dự án đầu tư vào dệt
nhuộm do quan ngại về vấn đề môi trường.
Thiếu thông tin về thị trường, về nguồn cung nguyên liệu: một trong những lý do
khiến doanh nghiệp may khó dịch chuyển lên phương thức sản xuất cao hơn là thiếu
thông tin về khách hàng, về các nhà cung cấp và thị trường nguyên phụ liệu, thiếu đội
ngũ cán bộ mua hàng am hiểu thị trường và có năng lực quản lý chuỗi giá trị. Cơ sở
dữ liệu về các doanh nghiệp dệt may với những thông tin chi tiết, cập nhật về nhà
cung cấp và dịch vụ hỗ trợ là cần thiết để giúp các doanh nghiệp may dần dần tự chủ
được về khả năng mua hàng và quản lý chuỗi giá trị để dịch chuyển lên các phương thức cao hơn. 7. Tồn tại 14
Sau nhiều năm gia nhập chuỗi giá trị dệt may toàn cầu mặc dù kim ngạch xuất
khẩu cao nhưng ngành dệt may Việt Nam vẫn chỉ tập trung xuất khẩu các sản phẩm
may mặc theo phương thức gia công – vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu – với giá trị
gia tăng tương đối thấp. Hạn chế lớn nhất của ngành là sự phát triển không đồng đều ở
các khâu đặc biệt là ở công đoạn đầu trong chuỗi giá trị dệt may bao gồm: trồng bông,
dệt, nhuộm và hoàn tất. Sự phát triển yếu và chậm các khâu này đã cản trở sự phát
triển, làm giảm giá trị gia tăng ở khâu kéo sợi và sản xuất hàng may mặc. Bên cạnh đó
mạng lưới xuất khẩu và tiếp thị vẫn đang là điểm yếu lớn trong chuỗi giá trị của ngành
dệt may Việt Nam, hạn chế sự xâm nhập vào các khâu cao hơn trong chuỗi giá trị dệt
may toàn cầu. Như vậy, thách thức của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là để
thành công, họ phải chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn
bằng cách nâng cấp năng lực cạnh tranh của mình.
IV. THÀNH PHẦN CHỦ ĐẠO CỦA CHUỖI CUNG ỨNG NGÀNH DỆT MAY
Để phát triển chuỗi cung ứng ngành dệt may Việt Nam là cần linh hoạt trong việc
lựa chọn và thay đổi kịp thời nhà cung cấp phù hợp để không phải lệ thuộc vào một
nhà cung cấp duy nhất. Nhà cung cấp phù hợp ở đây có nghĩa là nhà cung cấp đáp ứng
được nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng mà từng doanh nghiệp đề ra. Đồng
thời giá cả nguyên vật liệu cũng phải hợp lý, và thêm vào đó, nhà cung cấp phải có
nhiều chính sách ưu đãi đối với các đơn đặt hàng với khối lượng lớn. Có thể nói, lựa
chọn được các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào phù hợp coi như đã giải quyết
được một nửa bài toán phát triển chuỗi cung ứng của ngành dệt may Việt Nam.
Nguyên vật liệu đầu vào là một mắt xích quan trọng hỗ trợ cho ngành dệt may
phát triển. Đối với hàng may mặc, giá trị của phần nguyên phụ liệu chiếm tỷ trọng lớn
và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Nguyên phụ liệu trong ngành dệt may thường
chia thành hai phần: nguyên liệu chính và phụ liệu. Nguyên liệu chính là thành phần
chính tạo nên sản phẩm may mặc, chính là các loại vải. Phụ liệu là các vật liệu đóng
vai trò liên kết nguyên liệu, tạo thẩm mỹ cho một sản phẩm may mặc, gồm có hai loại
phụ liệu chính là chỉ may và vật liệu dựng. Vật liệu dựng là các vật liệu góp phần tạo
dáng cho sản phẩm may như: khóa kéo, cúc, dây thun,… V. GIẢI PHÁP 15 ❖ Nhà cung cấp
Linh hoạt trong việc lựa chọn và thay đổi nhà cung cấp để không bị lệ thuộc .
❖ Trách nhiệm của các doanh nghiệp và nhà nước
Cụ thể, xây dựng nền tảng thiết kế 3D để đáp ứng được diễn biến nhanh của thị
trường; Xây dựng – đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, tầm nhìn thời trang, ngoại
ngữ để cập nhật xu thế thời trang thế giới. Đồng thời, doanh nghiệp sản xuất phải có ý
thức, chịu trách nhiệm đến cùng cho sản phẩm làm ra để người tiêu dùng yên tâm, tin
tưởng. Bên cạnh đó, nhà nước cần xây dựng các khu công nghiệp có xử lý nước thải,
phải kêu gọi đầu tư nhà máy về sợi – dệt – nhuộm hoàn tất, cũng như đưa ra giải pháp
quyết liệt hơn để phát triển thị trường nội địa, gắn với Cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Bên cạnh đó, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu của
ngành dệt may, tuy vậy, đây là chỉ là sự gián đoạn trong ngắn hạn. Tuy nhiên, ngành
dệt may Việt Nam đã và đang nỗ lực không ngừng để có thể bắt kịp với xu hướng thế
giới. Trong đó, nổi bật nhất là sự chủ động của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã chủ động nâng cao năng lực sản xuất;
nâng cao trình độ tay nghề; chuyển hướng sản xuất từ hình thức chỉ nhận gia công
sang hình thức tự chủ nguồn nguyên liệu, tự thiết kế và hoàn thành sản phẩm; đặc biệt,
việc các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào thiết bị, công nghệ tự động hóa cũng là một
trong những yếu tố góp phần tạo nền tảng để ngành dệt may chống chịu được những
áp lực của thị trường về chất lượng, điều kiện giao hàng nhanh…
Ngoài ra, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước trong việc tổ chức các cuộc hội thảo, xúc
tiến thương mại theo hình thức trực tuyến để các doanh nghiệp dệt may có cơ hội tìm
kiếm đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu; nhà nước hỗ trợ trong việc thu hút vốn
đầu tư vào ngành dệt may…
❖ Ứng dụng công nghệ và nền tảng internet
Hàng dệt may có đặc điểm là có tính linh động cao trên thị trường, chu kỳ sản
phẩm ngắn, tính mốt thể hiện rõ, tính quốc tế cao. Do đó công nghệ phải đổi mới
nhanh và theo hướng hiện đại. Đổi mới máy móc thiết bị giúp năng suất tăng cao, chất 16
lượng sản phẩm được đảm bảo tốt hơn, đảm bảo số lượng các đơn đặt hàng mà khách hàng yêu cầu.
Khi thiết bị hiện đại, chúng ta có đủ điều kiện để sản xuất những sản phẩm thời
trang, các sản phẩm đa dạng hơn, nhiều mẫu hơn, đáp ứng được những khách hàng
khó tính. Khi các mặt hàng có chất lượng tốt, kiểu dáng hấp dẫn dần dần Việt Nam sẽ
xây dựng được thương hiệu về sản phẩm dệt may của mình.
Đối với các dự án các nhà đầu tư trong nước, cần phải cân nhắc kỹ càng trong
việc lựa chọn công nghệ. Tập đoàn Dệt May Việt Nam cần tư vấn, hỗ trợ về thông tin
các nguồn cung cấp công nghệ, các thế hệ công nghệ giúp các nhà đầu tư tránh được
việc nhập khẩu các công nghệ đã lạc hậu, công nghệ thải hồi của các nước, nhất là các
nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Trung Quốc…
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có cơ chế khuyến khích các DN dệt nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam để giúp dệt Việt Nam tiếp cận công nghệ hiện đại thế giới.
Theo Trung tâm Thông tin Công nghiệp Thương mại, tự động hóa được kết nối
trên nền tảng internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây, công nghệ sản xuất in 3D,
phân tích dữ liệu lớn và trí thông minh nhân tạo sẽ dần dần thay thế người lao động
trong các dây chuyền sản xuất trong nhà máy và trong toàn bộ chuỗi cung ứng sản
phẩm dệt may. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập, xu thế sử dụng sản phẩm xanh,
vật liệu nano, vật liệu có tính năng đặc biệt ngày càng phổ biến trên thế giới. Do đó,
công nghệ sản xuất của ngành sợi, dệt, nhuộm phải đáp ứng xu thế này thì mới có đơn
hàng. Ngoài ra, xu thế sử dụng thiết bị dệt may được số hóa, tự động hóa, đặc biệt là
lĩnh vực sản xuất sợi, dệt, nhuộm và may cơ bản (nhà máy thông minh, in 3D, dệt 3D)
… cũng sẽ phải theo xu thế này để kết nối minh bạch trong toàn bộ chuối cung
ứng.Do đó, để phát triển, các doanh nghiệp cần phải đầu tư tiếp cận công nghệ dệt
may hàng đầu của thế giới, nhằm giảm lượng lao động trên một sản phẩm. Đồng thời,
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và sản xuất, nhằm giúp doanh
nghiệp Dệt May tích lũy nguồn lực đầu tư công nghệ mới theo xu hướng của CMCN 4.0 17
Trong bối cảnh hội nhập ngày này thì phương thức đặt hàng tự động trên nền tảng
trí tuệ nhân tạo và robot đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong khâu kết nối doanh
nghiệp với khách hàng. Thương mại điện tử cũng sẽ là kênh bán hàng được phát triển
rộng rãi trong nhiều khâu của chuỗi cung ứng trong ngành sợi, đặc biệt là khâu bán hàng…
❖ Bắt kịp xu hướng thời trang
Khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thì thách thức các doanh nghiệp không
thể bỏ qua đó là xu hướng fashion (thời trang ăn liền hay thời trang nhanh) sản xuất
trong thời gian cực ngắn.
Nếu như trước đây các doanh nghiệp một mùa mới đưa ra mẫu mới thì bây giờ là
hàng tuần, đặc biệt các hãng thời trang ngoại như Zara, H&M, đã đổ bộ vào Việt
Nam với giá rất bình dân, không những gây áp lực cho các doanh nghiệp trong nước
về tiến độ sản xuất mà còn giá cả.
Trước xu hướng thời trang không còn theo mùa mà là theo tuần điều này tạo áp
lực rất lớn cho doanh nghiệp không chỉ về mẫu mã, đơn hàng mà còn gánh nặng thời
gian.Để đáp ứng một đơn hàng nhanh như vậy, rõ ràng với những công cụ truyền
thống không đáp ứng được buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm phầm mềm giúp xây
dựng kế hoạch, triển khai đơn hàng sản xuất thật nhanh và chính xác, đồng thời tiết kiệm được chi phí.
Chẳng hạn, riêng việc cắt vải nếu không tính toán kỹ thì đơn hàng nhanh như vậy
sẽ tốn rất nhiều chi phí, định mức vải khi mua rồi thì không trả lại được, khi có phần
mềm tối ưu hóa những vấn đề này sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều chi phí “chìm” mà doanh
nghiệp không nhìn thấy được
Sự góp mặt của các thương hiệu thời trang này cạnh tranh khốc liệt với các doanh
nghiệp trong nước nhưng đây lại là động lực cho các doanh nghiệp nội thay đổi
phương thức sản xuất, kinh doanh và thay đổi công nghệ nếu không muốn bị lấn át.
Để được như vậy, cần phải chuyển từ phương thức sản xuất truyền thống chủ yếu
là gia công sang tự thiết kế và sản xuất thành phẩm. 18