Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập | Tiểu luận cuối kì môn Triết học Mác - Lênin
Trong quá trình hành động không ngừng nâng cao xã hội, nền kinh tế đóng vai trò quan trọng làm động lực thúc đẩy sự phát triển và thay đổi bộ mặt của các quốc gia gia đình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
I H TRƯỜNG ĐẠ M K ỌC SƯ PHẠ Ỹ THU T Ậ TP.H CHÍ MINH Ồ
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
Tiểu luận cuối kỳ
QUY LUẬT VỀ SỰ THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC
MẶT ĐỐI LẬP VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY TÌM HIỂU
MÂU THUẨN, GIẢI PHÁP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VỚI TIẾNG BỘ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG CON ĐƯỜNG
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Môn học: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_50
GVHD: TS. Đặng Thị Minh Tuấn
NHÓM THỰC HIỆN: ĐỜI LÀ NHỮNG NIỀM ĐAU
HỌC KỲ: I – NĂM HỌC: 2023-2024
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 1 NĂM 2024
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1. Nguyễn Văn Hòn - MSSV: 23146246
2. Bùi Vũ Huy - MSSV: 23146247
3.Nguyễn Kiều Trung Hiếu - MSSV: 23146241
4. Đinh Kim Hải - MSSV: 23146237
5. Lê Ngọc Hà - MSSV: 23146233 ĐIỂM: NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ................................................................... 4
3. Phương pháp thực hiện đề tài ....................................................................... 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐỐI
LẬP ....................................................................................................................... 6
1.1. KHÁI NIỆM VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐỐI LẬP ................ 6
1.1.1. Các mặt đối lập ,sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ..... 6
1.1.2. Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập: ..................................................................................... 6
1.2. Vai trò của mâu thuẫn với sự vận động và phát triển: ............................... 7 1.2.1 N ững đặc điể h
m của nền kinh tế thị trường nhìn tư góc độ triết học: . 7
CHƯƠNG 2: MÂU THUẨN GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TIẾN BỘ
CÔNG BẰNG XÃ HỘI ........................................................................................ 8
2.1 Khái niệm tăng tưởng kinh kế và tiến bộ công bằng xã hội: ...................... 8
2.1.1 Khái niệm về tăng tưởng kinh tế: ........................................................ 8
2.1.2 Khái niệm về tiến bộ công bằng xã hội: .............................................. 9
2.1.3 Vai trò của tăng tưởng kinh kế và tiến bộ công bằng xã hội: ............ 10
2.2. Vài nét về những mâu thuẫn trong quá trình chuyển hóa từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường ở V ệt Nam i
.......................... 11
2.2.2. Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường: ............... 16
2.3 Đánh giá hiện trạng và tiềm năng thị trường hiện nay ............................. 20
2.3.1. Đánh giá hiện trạng và tiềm năng của tăng trưởng kinh tế ............... 20
2.3.2. Đánh giá hiện trạng và tiềm năng của tiến bộ công bằng xã hội ...... 22
2.4. Một số giải pháp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong
con đường phát triển đất nước việt nam hiện nay .......................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 31 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình hành động không ngừng nâng cao xã hội, nền kinh tế đóng
vai trò quan trọng làm động lực thúc đẩy sự phát triển và thay đổi bộ mặt của các
quốc gia gia đình. Đặc biệt, đối lập với bức tranh đa dạng của thế giới ngày nay,
nền kinh tế Việt Nam đang phát triển trước những công thức đồng thời cơ hội lớn.
Trong bối cảnh bối rối này, quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các đối thủ,
một trong những hệ trụ cột học của nhà dưỡng học lớn Mac Lê Nin, nên trở nên
hết sức hấp dẫn khi ánh sáng của sự hiểu biết được biết được tham chiếu lên các
khía cạnh phức tạp của phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Qua công việc nghiên cứu vấn đề tài chính này, chúng tôi không chỉ mở một
cửa sổ để xem đất nước qua bộ kính dưỡng học, mà còn đặt mình vào vị trí của
những người tìm kiếm giải pháp, những người muốn hiểu hơn là về cách chúng
ta có thể kết hợp một cách hài hòa giữa kinh tế trưởng thành và mục tiêu xã hội
công bằng, một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với sự thịnh vượng của bất
kỳ xã hội nào. Hãy cùng nhau khám phá và tìm kiếm những ẩn số học trong con
đường phát triển của Việt Nam, để từ đó, chúng tôi có thể chia sẻ lời khuyên xây
dựng một tương lai giúp phát triển và công việc không còn gì là ổn vững chắc, trở
thành thành phần sống của mọi cộng đồng.
Đề tài này không chỉ là một sự lựa chọn cá nhân mà còn phản ánh ánh sáng nhạy
cảm với nguyên tắc và giá trị mà học Mac Lê Nin mang lại. Việc nghiên cứu về
quy luật về sự thống nhất và đấu tranh không chỉ là một bước tiến trong công việc
hiểu rõ hơn về tư tưởng của một nhà tư tưởng vĩ đại, mà còn là sự cố gắng tìm
kiếm những câu trả lời cho những điều đột phá thức và nhất quán mà xã hội phải
đối mặt, đặc biệt là một công việc đồng thời thúc đẩy kinh tế trưởng và tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nhóm chúng tôi chọn vấn đề “Quy luật về sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật này tìm hiểu mâu thuẩn ,giải
pháp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong con đường
phát triển đất nước Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu Quy luật về sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật này tìm hiểu mâu thuẩn ,giải pháp
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong con đường phát triển
đất nước Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
-Phân tích và hiểu được được Quy luật về sự t ống h
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
-Trình bày khái quát quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
vận dụng quy luật này tìm hiểu mâu thuẩn ,giải pháp giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ công bằng xã hội trong con đường phát triển đất nước Việt Nam hiện nay
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Lý luận dựa trên cơ sở nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ tịch Hồ
Chí Minh kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích -
tổng hợp, quy nạp - diễn dịch… B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỀ QUY LUẬT THỐNG
NHẤT VÀ ĐỐI LẬP
1.1. KHÁI NIỆM VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐỐI LẬP
Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I Lênin đã coi quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt nhân của phép biện chứng”
bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và
phát triển của sự vật, và là “chìa khóa” giúp chóng ta nắm vững thực chất của các
quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nghiên
cứu vấn đề này, có những nội dung đáng chú ý như sau :
1.1.1. Các mặt đối lập ,sự thống n ất và đấ h
u tranh giữa các mặt đối lập
Theo phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những
thuộc tính có xu hướng vận động trái ngược nhau, loại trừ, bài xích, chống đối
lẫn nhau. Chúng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhưng lại song song
tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó.
Giữa các mặt đối lập trên luôn luôn có sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn
nhau gọi là sự thống nhất của các mặt đối lập. Thống nhất ở đây không phải là
chúng đứng bên cạnh nhau mà chúng có sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Mặt đối
lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Một sự vật không thể
tồn tại nếu thiếu đi một trong hai mặt đối lập chính tạo nên sự vật đó. Điều đó
có nghĩa là sự tồn tại của bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng không thể thiếu
được sự thống nhất của các mặt đối lập tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng ấy.
Như vậy, trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự
thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi
vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển
trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường
được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập
chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập
này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình
thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
1.1.2. Tính khách quan và phổ b ế
i n của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập:
Một điều dễ nhận thấy là: tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều
luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng đó là tồn tại trong
mối liên hệ phổ biến với nhau (một cách trực tiếp hay gián tiếp…). Sự thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì là cái vôn có trong
các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực (như tự nhiên, xã hội và tư duy) …
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ
biến nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mầu thuẫn trong mỗi sự vật và trong
mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật, hiện tượng không chỉ có một
mâu thuẫn mà có nhiều mâu thuẫn … sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến
một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu
thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho
sự vật không ngừng vận động và phát triển.
1.2. Vai trò của mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đâu tranh của hai mặt đối lập.
Trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối, còn đấu tranh
giữa hai mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối
lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là tự thân và diễn ra liên tục.
Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất
phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng phức tạp, giai đoạn … Như vậy,
mâu thuẫn là khách quan phổ biến, đa dạng. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan đều là thống nhất của các mặt đối lập. Chính sự đấu tranh của
các mặt đối lập và sự chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sù phát triển.
Như chóng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã
hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành
và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc
trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước TBCN cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh
chóng xóa bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế
và xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
1.2.1 N ững đặc đi h
ểm của nền kinh tế thị trường nhìn tư góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường
vận động theo cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự
phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có
sù đấu tranh thì có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
một quá trình khó khăn, phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn
chiếm ưu thế. Hiện nay, chóng ta đang chúng ta đang trong thời kỳ chuyển
tiếp từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Do vậy, nền kinh tế cũng mang những đặc điểm của thời kỳ quá độ.
Trước hết, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, mọi chức năng kinh tế –
xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hóa. Tất
cả các khâu sản xuất – lưu thông – phân phối đều mang nặng tính bao cấp.
Động lực trực tiếp của hoạt động xã hội là lợi ích kinh tế gần như bị bỏ qua.
Do đó, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Sau năm 1986, nước ta có sự thay đổi lớn, tạo ra bước ngoặt trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VII (12.1986) thực
sự là đại hội của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình, đánh dấu
mốc phát triển mới trong nền kinh tế ở nước ta. Đó là dứt khoát từ bỏ những
nhận thức sai lầm, những quan điểm lạc hậu, lỗi thời về chủ nghĩa xã hội mà
vấn đề trung tâm là “phải vượt qua mô hình chủ nghĩa xã hội cũ để xác lập mô
hình mới về chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Dù nền kinh tế thị trường mới được hình thành ở V ệt
i Nam nhưng cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời
sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hóa…”Sự đan
xem chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối
cảnh một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính bao cấp đã làm cho cơ chế thị
trường bị khúc xạ theo nhiều chiều hướng khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò
quản lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định
các vấn đề kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở trong giai đoạn mới hình thành
nên còn đang thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn đến môi trường sản xuất, kinh
doanh thiếu ổn định, an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả
phương diện kinh tế – xã hội dường như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho
các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Do vậy quá trình chuyển hóa này vấp
phải rất nhiều mâu thuẫn nội tại.
Những mâu thuẫn trong quá trình chuyển hóa từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường ở V ệt Nam i
CHƯƠNG 2: MÂU THUẨN GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ TIẾN BỘ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
2.1 Khái niệm tăng tưởng kinh kế và tiến bộ công bằng xã hội:
2.1.1 Khái niệm về tăng tưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về giá trị của tất cả các hàng hóa và dịch vụ
sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với một
nền kinh tế, tăng trưởng không chỉ là việc gia tăng về tổng giá trị, mà còn liên
quan đến khả năng duy trì và bền vững mà không gây hại cho môi trường và xã
hội. Tăng trưởng kinh tế thường được đo lường bằng tỷ lệ tăng trưởng của GDP,
tức là giá trị toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một
quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể.
Trong bối cảnh Việt Nam, tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu quan trọng,
nhưng cũng đặt ra mâu thuẫn với yêu cầu về tiếng bộ công bằng xã hội. Đối mặt
với các thách thức và mâu thuẫn này, quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập có thể được áp dụng để tìm ra giải pháp cân bằng giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nhằm đảm bảo rằng lợi ích của phát triển
được phân phối công bằng và bền vững.
2.1.2 Khái niệm về tiến bộ công bằng xã hội:
Khái niệm về công bằng xã hội đại diện cho một trạng thái mà mọi thành viên
trong xã hội đều được đối xử bình đẳng và có cơ hội tương đương trong mọi
khía cạnh của cuộc sống. Công bằng xã hội không chỉ ám chỉ sự phân phối công
bằng về tài nguyên và quyền lợi, mà còn tập trung vào việc giảm thiểu bất bình
đẳng và loại bỏ các rào cản mà mọi người có thể gặp phải trong việc tiếp cận cơ
hội và phúc lợi xã hội.
Tại một xã hội công bằng, không có sự phân biệt đối xử dựa trên các yếu tố
không công bằng như đẳng cấp xã hội, giới tính, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc,
hay khả năng kinh tế. Mọi người đều có quyền và trách nhiệm cùng nhau xây
dựng một cộng đồng hài hòa và proactively tham gia vào quá trình quyết định xã hội.
Công bằng xã hội không chỉ nằm ở việc cung cấp phương tiện sống cơ bản
như giáo dục, y tế, và nhà ở cho mọi người mà còn bao gồm sự công bằng trong
quyền lợi lao động và mức sống. Nó là một tiêu chí cho việc đánh giá sự thành
công của một xã hội, nơi mà mọi cá nhân đều có thể thực hiện tiềm năng của
mình mà không bị cản trở bởi các yếu tố không công bằng.
Công bằng xã hội đòi hỏi sự hợp tác và cam kết từ cộng đồng, chính phủ, và
các tổ chức để xây dựng một môi trường nơi mọi người đều được đánh giá cao
và đóng góp vào sự phồn thịnh chung. Nó không chỉ là một mục tiêu, mà còn là
một nguyên tắc cơ bản để xây dựng một xã hội vững mạnh và bền vững trong tương lai.
2.1.3 Vai trò của tăng tưởng kinh kế và tiến bộ công bằng xã hội:
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của một quốc gia, như Việt Nam, nơi đang tồn tại sự
đối lập giữa tăng trưởng kinh tế và tiếng bộ công bằng xã hội. Sự thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập là một hiện thực không thể tránh khỏi trong hành
trình xây dựng đất nước.
Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò như một động lực mạnh mẽ, là nguồn động
viên để nền kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nó tạo ra cơ
hội việc làm, thu nhập gia tăng, và nguồn lực cho chính phủ đầu tư vào các lĩnh
vực cơ bản như giáo dục, y tế, và cơ sở hạ tầng. Tăng trưởng kinh tế mang lại sự
giàu có và phồn thịnh, nhưng cũng đặt ra những thách thức về sự phân phối
không đồng đều của lợi ích, tăng bất bình đẳng và đe dọa sự công bằng xã hội. T ến bộ công b i
ằng xã hội là yếu tố cần thiết để đối mặt với những mâu thuẫn
này. Nó không chỉ giúp giảm bất bình đẳng và đảm bảo mọi người đều có cơ hội
tương đương, mà còn định hình hệ thống giáo dục và chính sách lao động để bảo
vệ nhóm dân tộc và tầng lớp khó khăn. Tiến bộ công bằng xã hội không chỉ là
một mục tiêu, mà là một quyết định chiến lược để đảm bảo rằng sự phát triển
kinh tế là bền vững và mang lại lợi ích cho toàn bộ xã hội.
Để vận dụng quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, cần
phải tìm hiểu mâu thuẫn và đưa ra giải pháp linh hoạt. Việc đồng bộ hóa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các
bên liên quan, chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng. Bằng cách này, Việt Nam
có thể đi trên con đường phát triển không chỉ là một quốc gia giàu có mà còn là
một xã hội công bằng và bền vững.
2.2 Vài nét về những mâu thuẫn trong quá trình chuyển hóa từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường ở V ệt Nam i
Lý luận và Mô hình kinh tế: Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam vẫn còn đang
trong quá trình hoàn thiện; chưa được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của
một nước công nghiệp. Thực hiện CNH, HĐH chưa bằng thể chế của nền kinh tế
thị trường, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường.
Chiến lược CNH, HĐH trong thời gian dài chưa xác định rõ trọng tâm, trọng
điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn đấu. Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu,
hoặc thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa làm rõ được những nội dung
cơ bản, và động lực để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn.
Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới có xu hướng tăng chậm hơn,
trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới và đang phát triển
càng “gay gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển nhanh, nhiều nền kinh tế
đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng từ nguy cơ chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp
sớm hơn so với dự kiến.
Phát triển kinh tế và ngành công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn
dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang phát triển
theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó, nền kinh tế nước
ta phát triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng không cao.
Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn khoảng cách lớn để đạt đến
mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm, đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH.
Tăng trưởng của ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp trong cơ cấu
GDP cả nước chưa cao, và tăng/giảm không ổn định trong các giai đoạn vừa qua.
Đến năm 2018, ngành công nghiệp đạt 28,4%, thấp hơn năm 2010 (đạt 31,7%).
Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo ra
những thay đổi đáng kể về cơ cấu công nghiệp. Ngành Khai khoáng, dù tỷ trọng
VA của ngành có xu hướng giảm dần (từ 36,5% xuống 25,9% trong giai đoạn
2011-2018) nhưng vẫn chiếm cao trong cơ cấu VA toàn ngành công nghiệp.
Chỉ số GDP/người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/người của nước ta đã tăng
khá nhanh, đến năm 2018 đạt 2.590 USD/người, gấp hơn 6,6 lần so với năm 2000.
Tính theo sức mua tương đương thì GDP/người của Việt Nam hiện đạt khoảng 7.435 USD/người.
Từ số liệu các năm cho thấy, mặc dù GDP/người của Việt Nam đã có những
bước cải thiện so với mức bình quân của thế giới (từ 26,0% năm 2000, lên 34,2%
năm 2010 và 41,3% năm 2018), tuy nhiên trong gần 20 năm phát triển kinh tế đã
qua cho thấy, khoảng cách chệch lệch của Việt Nam với thế giới vẫn còn ở mức
khá cao. So sánh tương đối với một số quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp”
(NICs) thì Việt Nam hiện tương đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn
Philipine (8.936 USD); bằng 1/2 của Indonesia, Nam Phi, Braxin và từ 1/3-1/4
của Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia.
Có thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh tế
nước ta, trong việc tính toán và xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
Năng suất lao động: Năng suất lao động có mối liên hệ trực tiếp với
GDP/người và đang thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, Việt
Nam hiện có diện tích thuộc nhóm trung bình của thế giới và đặc biệt đang có
nhiều thuận lợi về dân số (quy mô, độ tuổi lao động), tuy nhiên năng suất lao động
của Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp nói riêng vẫn đang ở mức độ thấp,
khi so với các nước phát triển. Qua đó cho thấy, nền kinh tế V ệ i t Nam sẽ phải đối
mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới, để có thể bắt kịp mức năng suất lao
động của các nước trong khu vực, và trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền
kinh tế Việt Nam chỉ ở mức trung bình và có vị trí tăng/giảm không ổn định trong
thời gian vừa qua. Đến năm 2019, Việt Nam đứng vị trí 67/141 nền kinh tế, tăng
thêm 10 bậc so với năm 2018 và vẫn còn một khoảng cách khá xa, so với các nước
đứng đầu trong khu vực ASEAN.
Dân số và nguồn nhân lực: Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hóa dân số
khá nhanh so với thế giới. Nước ta đã bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm
2011 và dự báo đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ tăng lên 17%
và đạt đến 25% vào năm 2050. Quá trình già hóa dân số nhanh sẽ khiến lực lượng
lao động bị thu hẹp, ảnh hưởng đến năng suất lao động của toàn nền kinh tế, và
tác động lâu dài đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Đây là một thách
thức lớn, đến phát triển kinh tế V ệt Nam trong tương lai gần. i
Chất lượng nguồn nhân lực thiếu hụt lao động có tay nghề cao; cơ cấu lao
động qua đào tạo bất hợp lý và lạc hậu (Tỷ lệ tương quan giữa số lượng lao động
có trình độ đại học trở lên/caođẳng/trungcấp/sơ cấp nghề năm 2018 là:
1/0,37/0,54/0,37). Có thể đánh giá, việc hạn chế về nguồn nhân lực đang được
xem là một trong những rào cản lớn nhất đối với quá trình phát triển kinh tế và
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình CNH; huy động nguồn lực của xã hội
vào các hoạt động khoa học và công nghệ còn yếu; đầu tư cho khoa học và công
nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ chưa
gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý.
Xuất khẩu hàng hóa: Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xuất
khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP nhưng chưa vững chắc. Độ mở của nền
kinh tế qua kênh xuất khẩu khá lớn nhưng quy mô xuất khẩu còn nhỏ; chỉ số xuất
khẩu sản xuất bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình trên thế giới.
Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(hiện chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu), dẫn đến nền kinh tế và ngành công
nghiệp Việt Nam nói riêng, gặp nhiều khó khăn trong việc chủ động phát triển các
ngành công nghiệp trong dài hạn, do doanh nghiệp FDI, có thể sẽ chuyển hoặc
đầu tư sang các quốc gia khác sản xuất, nếu các điều kiện cho đầu tư và sản xuất,
tiếp cận thị trường xuất khẩu,... gặp thuận lợi hơn.
Đầu tư từ nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam đạt thấp. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào gia công,
lắp ráp và có tỷ lệ nội địa hóa thấp; chưa tạo được sự lan tỏa công nghệ từ doanh
nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước như kỳ vọng. Thu hút đầu tư vào một
số ngành, lĩnh vực ưu tiên từ các tập đoàn lớn đa quốc gia còn hạn chế; hơn một
nửa dự án FDI có quy mô dưới 1 triệu USD.
Quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng: Quá trình đô thị hóa diễn ra với
tốc độ khá nhanh, nhưng thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội;
trình độ, năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu.
Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị V ệt Nam đều chậ i m so với
phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa đáp ứng với
sự đổi thay về tư duy quản lý đô thị hóa, phát triển đô thị theo hướng CNH và HĐH.
Quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quản lí bao cấp sang cơ chế thị trường
ở Việt Nam đã gặp phải nhiều mâu thuẫn và thách thức. Dưới đây là một số mâu
thuẫn phổ biến trong quá trình chuyển hóa này:
Sự chênh lệch về hiệu quả và cạnh tranh: Trong cơ chế tập trung quản lí bao
cấp, do sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước, các doanh nghiệp và ngành nghề
thường không phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ. Khi chuyển sang cơ chế
thị trường, các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt và phải nỗ
lực để nâng cao hiệu quả sản xuất và cạnh tranh trên thị trường.
Sự thay đổi vai trò của Nhà nước: Trong cơ chế tập trung quản lí bao cấp,
Nhà nước thường đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành và quản lý kinh tế.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò của Nhà nước thay đổi, từ việc can
thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế sang việc tạo ra một môi trường kinh doanh
công bằng, minh bạch và thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Khả năng thích ứng và tái cơ cấu: Quá trình chuyển hóa đòi hỏi khả năng
thích ứng và tái cơ cấu của các doanh nghiệp và ngành nghề. Các doanh nghiệp
phải thích ứng với môi trường kinh doanh mới, nâng cao năng lực quản lý, nâng
cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ và cải thiện hiệu quả sản xuất. Đồng thời, các
ngành nghề cũng cần tái cơ cấu để phù hợp với cơ chế thị trường và nhu cầu của thị trường.
Rủi ro và bất bình đẳng: Chuyển từ cơ chế tập trung quản lí bao cấp sang cơ
chế thị trường có thể gây ra rủi ro và tạo ra sự bất bình đẳng. Một số doanh nghiệp
và ngành nghề có thể gặp khó khăn trong việc thích ứng với cơ chế thị trường,
trong khi những người khác có thể tận dụng tốt cơ hội mới. Điều này có thể tạo ra
sự chênh lệch về phát triển và tạo ra bất bình đẳng trong xã hội.
Sự thay đổi trong quan điểm và tư duy: Chuyển hóa từ cơ chế tập trung quản
lí bao cấp sang cơ chế thị trường đòi hỏi sự thay đổi trong quan điểm và tư duy
của các cá nhân và tổ chức. Cần có sự nhận thức và hiểu biết về cơ chế thị trường,
ý thức về cạnh tranh, sự sáng tạo và khả năng thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh.
Trước hết, cơ chế thị trường là cơ chế tự đ ều i
tiết vĩ nền kinh tế do sự tác
động của các quy luật vốn có của nó:
Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ những sù Thích ứng lẫn nhau, điều tiết
lẫn nhau của các yếu tố: giá cả, cung, cầu, cạnh tranh…cơ chế thị trường với
những quy luật khó nắm bắt, thường biểu hiện như là một cơ chế tự phát hơn, tự
nhiên hơn và nằm xa sù chi phối của con người hơn. Trong các giai đoạn quá độ,
chuyển tiếp, yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi
vậy, nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự phát, tự giác của
nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc tìm ra phương pháp kiểm soát thích hợp
là điều rất có ý nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có quá nhiều hiện tượng, quá
trình mà ta còn buông lỏng sự kiểm soát hoặc chưa thực sự đủ khả năng kiểm soát.
Sản xuất hàng hóa cùng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường được xem là khách
quan tất yếu với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta cũng
hiểu rõ thêm bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội:
Nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội nhưng tăng trưởng
kinh tế chưa hẳn nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, sự chuyển dịch
cơ chế tập trung – bao cấp sang cơ chế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước.
2.2.1. Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất
là vấn đề rất phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của
nó xét trên phương diện triết học Mác – Lênin thì: lực lượng sản xuất là nội dung
còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng
sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn phù
hợp nữa. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Để mở đường cho lực lượng sản xuất cần thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất
lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt, cần được giải quyết.
Để giải quyết được mâu thuẫn đó cần tiến hành cách mạng xã hội. Ví dụ như
công cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ quan trọng nhất,
thể hiện tính chất cách mạng rõ nhất của công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay là
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa,”dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang
tính cách mạng, vừa mang tính khoa học. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghĩa là
từng bước xây dựng nền sản xuất tiên tiến lực lượng sản xuất phát triển phù hợp
với sự phát triển của quan hệ sản xuất. Đây là phương thức tốt nhất để đưa nền
kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo
điều kiện cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển.
Thứ hai: ta xét mâu thuẫn giữa cái hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị trường.
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hai hình thức sở
hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể được áp dụng triệt để. Sự tồn tại
của hai hình thức sở hữu này là tất yếu khách quan vì nó phù hợp với điều kiện
lịch sử khi tiến hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH. Sau khi giành được
chính quyền, công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Một
là hình thức sở hữu tư nhân TBCN, có thể giải quyết bằng cách tước đoạt hoặc
“chuộc lại” để chuyển sang sở hữu toàn dân. Hai là với hình thức sở hữu tư nhân
của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì có thể dùng biện pháp giáo dục, vận
động, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển sang sở hữu tập thể bằng con
đường hợp tác hóa hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ
nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường ở V ệt
i Nam bắt đầu xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Thực tiễn cho thấy rằng
một nền kinh tế nhiều thành phần sẽ kéo theo sự đa dạng về hình thức sở hữu chứ
không phải chỉ hai hình thức sở hữu như trong nền kinh tế cũ.
Theo quan niệm cũ, sở hữu toàn dân thuộc về công hữu, do nhà nước trực
tiếp đứng ra quản lý. Hiện nay, quan niệm đó đã có nhiều thay đổi. Theo hiến pháp
và luật đất đai quy định: “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế, đất
đai là phương tiện tồn tại của cả một cộng đồng. Về mặt xã hội, đất đai là nơi cư
trú của cả một cộng đồng việc đất đai là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện
quản lý không hề mâu thuẫn với việc tạo quyền sở hữu.v..v.Văn kiện đại hội Đảng
lần thứ VII đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất
được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các
vấn đề thừa kế, chuyển nhượng, sử dụng đất đai”. Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII. Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta đã được xác định theo nội dung mới.
+ Hình thức sở hữu thứ hai: sở hữu nhà nước
Trong cơ chế cũ, sở hữu nhà nước thường không có sự tách biệt với sở hữu
toàn dân. Do vậy mà trong một thời gian dài người ta chỉ quan tâm tới sở hữu toàn
dân mà bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc
doanh hóa nền kinh tế với sù tin chắc chỉ như vậy mới đi đến chủ nghĩa xã hội.
Nhưng sự thực, sở hữu toàn dân không thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nào.
Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở
hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta là khu vực kinh tế quốc
doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.v.v…
Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức
hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) mà các xã
viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán
hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước
ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế,
đôi khi còn có tình trạng lạm phát. Sự không xác định, sự “nhập nhằng” với quyền
sở hữu nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để
thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần
xác định rõ quyền mua, bán, chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể
sản xuất kinh doanh. Như vậy thì sở hữu tập thể mới trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Như chóng ta biết, hợp tác xã không phải là hình thức đặc trưng cho nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà là hình thức sở hữu tiến bọ
trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần duy trì và phát triển hơn
nữa hình thức này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lênin đã khẳng định:
“chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung
ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới
có khả năng phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp
tác xã kiểu mới ra đời cho nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường.
Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với
thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Thứ ba: xét mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người XHCN, yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong
sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn
của cải vật chất và văn hóa con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới, là mục tiêu của XHCN, chóng ta phải bắt đầu từ con người, lấy
con người làm điểm xuất phát.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện
nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường.
Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản
để thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng
ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng
sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và
sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát
hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH
từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.
Những phân tích trên cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con
người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây
chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội, giữa quá trình xây dựng con
người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra
những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những
độc tố hủy hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không
đơn giản. Ở nước ta, mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng
con người CNXH được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định: “Sản xuất hàng hóa
không đối lập với chủ nghĩa xã hộ mà là thành tựu nền phát triển văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH
đã được xây dựng”. Như vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa nền kinh tế
thị trường với mục tiêu xây dựng con người XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị
trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời
xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt
vấn đề này sẽ góp phần phát huy tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngõa,
hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt
động kinh doanh phải hướng vào phục vụ xây dựng nguồn lực con người. Cần
phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm xóa bỏ tâm lý sùng bái đồng
tiền, bấp chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Phải ra sức phát huy các
giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mĩ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân téc như
nội dung của nghị quyết T.W V đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan
trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn này.
2.3 Đánh giá hiện trạng và tiềm năng thị trường hiện nay
2.3.1. Đánh giá hiện trạng và tiềm năng của tăng trưởng kinh tế
Thứ nhất: Việt Nam có vị trí địa chính trị - kinh tế rất thuận lợi.
Việt Nam có vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu
vực Đông Nam Á với bờ biển
dài, giao thương thuận lợi trong kết nối với các lục địa khác. Việt Nam là thành
viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với hơn 678 triệu dân, tổng sản phẩm