Sách Kinh tế vĩ mô | Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Sách Kinh tế vĩ mô | Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu gồm 171 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế vĩ mô ( UEH)
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
PRINCIPLES OF MACROECONOMICS 6E UEH N.GREGORY MANKIW KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
CHƯƠNG 10 ĐO LƯỜNG THU NHẬP QUỐC GIA
Khi bạn hoàn thành việc học hành và bắt đầu tìm kiếm một công việc toàn thời gian, ở phạm vi
tổng quát thì kinh nghiệm tìm việc của bạn sẽ được định hình bởi những điều kiện kinh tế hiện hành.
Trong một số năm nào đó, các doanh nghiệp trên khắp nền kinh tế đang mở rộng hoạt động sản xuất
hàng hóa và dịch vụ, công ăn việc làm rất dễ kiếm. Trong những năm khác, các doanh nghiệp lại đang
cắt giảm sản xuất, công ăn việc làm đang sụt giảm, và việc tìm kiếm một công việc tốt mất rất nhiều thời
gian. Không có gì ngạc nhiên, bất kỳ sinh viên nào mới tốt nghiệp đại học cũng sẽ dễ gia nhập lực lượng
lao động vào năm mà nền kinh tế mở rộng hơn là vào năm mà nền kinh tế thu hẹp.
Bởi vì sức khỏe của nền kinh tế tổng thể ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả chúng ta, cho nên những
thay đổi về điều kiện kinh tế được đề cập rộng rãi trên các phương tiện truyền thông. Thật vậy, khi đọc
một tờ báo, lướt qua tin tức trên mạng, hay bật tivi lên thì khó mà không nhìn thấy những số liệu thống kê
mới nhất được báo cáo về nền kinh tế. Số liệu thống kê có thể đo lường tổng thu nhập của tất cả mọi
người trong nền kinh tế (tổng sản phẩm quốc nội, hay GDP), mức mà tại đó giá cả trung bình đang tăng
lên hay giảm xuống (lạm phát/giảm phát), phần trăm lực lượng lao động không có việc làm (thất nghiệp),
tổng chi tiêu tại các cửa hàng (doanh số bán lẻ), hay sự mất cân bằng thương mại giữa Hoa Kỳ và phần
còn lại của thế giới (thâm hụt thương mại). Tất cả những số liệu thống kê này là kinh tế vĩ mô. Thay vì nói
với chúng ta về một hộ gia đình, một doanh nghiệp, hay một thị trường cụ thể, chúng cho chúng ta biết
một số điều về tổng thể nền kinh tế.
Như bạn có thể nhớ lại từ Chương 2, kinh tế học được chia thành hai nhánh: kinh tế vĩ mô và
kinh tế vĩ mô, Kinh tế vi mô là việc nghiên cứu cách thức ra quyết định của các hộ gia đình và các doanh
nghiệp và cách thức tương tác giữa họ trên các thị trường. Kinh tế vĩ mô là việc nghiên cứu nền kinh tế tổng thể
1. Kinh tế vi mô: nghiên cứu cách thức ra quyết định của các hộ gia đình và các doanh
nghiệp và cách thức tương tác giữa họ trên các thị trường.
2. Kinh tế vĩ mô: nghiên cứu các hiện tượng trên bình diện nền kinh tế, bao gồm lạm
phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhằm giải thích những thay đổi kinh tế có ảnh hưởng đồng thời đến
nhiều hộ gia đình, nhiều doanh nghiệp và các thị trường. Các nhà kinh tế học vi mô trả lời những câu hỏi
khác nhau: Tại sao thu nhập bình quân là cao ở một số quốc gia trong khi lại thấp ở những cái giá cả đôi
khi tăng lên nhanh chóng trong khi ở một số thời đi ổn định hơn? Tại sao sản xuất và việc làm lại mở
rộng trong một số năm và thu hẹp vào những năm khác? Chính phủ có thể làm gì, bất cứ việc gì, để thúc
đẩy tăng trưởng thu nhập nhanh chóng, giữ lạm phát ở mức thấp và tăng làm ổn định? Những câu hỏi
này về bản chất đều là những vấn đề mộ bởi vì chúng quan tâm đến sự vận hành của toàn bộ nền kinh tế.
Bởi vì nền kinh tế tổng thể là một tập hợp từ nhiều hộ gia đình và nhiều doanh nghiệp tương tác
với nhau trên nhiều thị trường, cho nên kinh tế vĩ mô và kiểu tế vĩ mô có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Ví
dụ, các công cụ cơ bản về cung và cầu là trung tâm cho sự phân tích kinh tế vĩ mô giống như vai trò
trung tâm của chúng trong phân tích kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nền kinh tế trên bình diện
tổng thể đặt ra một số thách thức mới và hấp dẫn.
Trong chương này và chương tiếp theo, chúng ta thảo luận một số số liệu mà các nhà kinh tế và
các nhà hoạch định chính sách sử dụng để giám sát thành quả tổng thể của nền kinh tế. Những số liệu
này phản ánh những thay đổi kinh tế mà các nhà kinh tế vĩ mô cố gắng giải thích. Chương này xem xét
tổng sản phẩm quốc nội, đại lượng đo lường tổng thu nhập của một quốc gia. GDP là số liệu thống kế
kinh tế được theo dõi chặt chẽ nhất bởi vì nó được cho là thước đo tốt nhất về phúc lợi kinh tế của một xã hội.
THU NHẬP VÀ CHI TIÊU CỦA NỀN KINH TẾ
Nếu bạn đánh giá một con người về phương diện kinh tế, thì trước hết bạn nhìn vào thu nhập
của họ. Một người với thu nhập cao có thể dễ dàng đáp ứng những nhu cầu thiết yếu và xa xỉ của cuộc
sống hơn. Không có gì ngạc nhiên khi những người có thu nhập cao thụ hưởng mức sống cao hơn, như June 1, 2021 1 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
là: nhà ở tiện nghi hơn, dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn, những chiếc xe hơi sành điệu hơn, các kỳ
nghỉ sang trọng hơn, vv.. Lô gíc tương tự cũng áp dụng cho tổng thể nền kinh tế của một quốc gia. Khi
đánh giá hiệu một nền kinh tế đang vận hành tốt hay tồi, thì việc xem xét tổng thu nhập mà tất cả mọi
người trong nền kinh tế đang kiếm được là điều tự nhiên. Đó là nhiệm vụ của tổng sản phẩm quốc nội.
GDP đo lường đồng thời hai chỉ tiêu; tổng thu nhập của tất cả mọi người õ nền kinh tế và tổng
chi tiêu cho sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền KT GDP có thể đóng vai trò đo lường cả tổng thu
nhập và tổng chi tiêu bởi tiêu này thực sự là như nhau. Đối với tổng thể nền kinh tế, thu nhập phải bằng chi tiêu.
Tại sao điều này lại đúng? Thu nhập của nền kinh tế thì cũng bằng chi tiêu chè nền kinh tế đó bởi
vì mỗi giao dịch đều có hai bên: người bán và người mua. Mỗi
đô la chi tiêu của người mua là một đô la thu nhập của người bán. Ví dụ, giả sử rằng Karen trả 100 USD
để Doug cắt cỏ cho cô ấy. Trong trường hợp này, Doug là người bán dịch vụ, và Karen là người mua.
Doug kiếm được 100 USD, và Karen chi tiêu 100 USD. Do đó, giao dịch này đóng góp như nhau vào thu
nhập và vào chi tiêu của nền kinh tế. GDP, dù được đo lường bằng tổng thu nhập hay tổng chi tiêu, đều tăng 100 USD.
Một cách khác để thấy sự bằng nhau của thu nhập và chi tiêu là nhìn vào Sơ đó dòng chu
chuyển trong Hình 1. Như bạn có thể nhớ lại từ Chương 2, biểu đồ này mô tả tất cả các giao dịch giữa
các hộ gia đình và các doanh nghiệp trong một nền kinh tế đơn giản. Nó đơn giản hóa vấn đề bằng việc
giả định rằng toàn bộ các hàng hóa và dịch vụ được mua bởi các hộ gia đình và các hộ gia đình chi tiêu
toàn bộ thu nhập của họ. Trong nền kinh tế này, khi các hộ gia đình mua hàng hóa và dịch vụ từ các
doanh nghiệp, những khoản chi tiêu này luân chuyển qua thị trường hàng hóa và dịch vụ. Khi các doanh
nghiệp đến lượt dùng số tiền họ thu được từ việc bán hàng để trả lương cho người lao động, tiền thuế
cho chủ đất và lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp, thì thu nhập này luân chuyển qua thị trường các yếu tố
sản xuất. Dòng tiền liên tục luân chuyển từ các hộ gia đình đến các doanh nghiệp và sau đó quay trở lại các hộ gia đình.
GDP đo lường dòng tiền này. Chúng ta có thể tính toán GDP cho nền kinh tế này theo một trong
hai cách: bằng việc cộng tổng chi tiêu của các hộ gia đình hoặc bằng việc cộng tổng thu nhập (tiền
lương, tiền thuê và lợi nhuận) được trả bởi các doanh nghiệp. Bởi vì tất cả các khoản chi tiêu trong nền
kinh tế rốt cuộc trở thành thu nhập của ai đó, cho nên GDP là bằng nhau bất kể chúng ta tính nó theo cách nào.
Nền kinh tế trong thực tế dĩ nhiên là phức tạp hơn nền kinh tế - họa trong Hình 1. Các hộ gia
đình không chi tiêu tất cả thu nhận phải nộp một phần thu nhập dưới dạng thuế cho chính phủ, và ho ta
phần thu nhập để sử dụng trong tương lai. Hơn nữa, các hộ gia đình khác tất cả các hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất trong nền kinh tế: một hóa và dịch vụ được mua bởi chính phủ, và một số được mua bởi
những doanh nghiệp có kế hoạch sử dụng chúng trong tương lai để sản xuất đầu ra của chiếc họ. Nhưng
nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên: Bất kể một hộ gia đình, chính phủ, hay doanh nghiệp mua một hàng
hóa hay dịch vụ, thì giao dịch đó đều có một người mua và người bán. Như vậy, đối với tổng thể nền kinh
tế, chi tiêu và thu nhập luôn bằng nhau.
ĐO LƯỜNG TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI
Sau khi đã thảo luận về ý nghĩa của tổng sản phẩm quốc nội theo ý nghĩa tổng quát, chúng ta tìm
hiểu cụ thể hơn về cách thức đo lường số liệu thống kê này. Đây là một định nghĩa về GDP mà tập trung
vào cách xem GDP như là một thước đo tổng chi tiêu:
• Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng
hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia trong một
khoảng thời gian nhất định. Định nghĩa này có lẽ khá đơn giản. Nhưng trong thực tế, có nhiều vấn đề tinh
tế phát sinh khi tính toán GDP của một nền kinh tế. Vì thế, chúng ta hãy xem xét cẩn thận từng cụm từ trong định nghĩa này.
“GDP là giá trị thị trường...”
Bạn có thể đã nghe câu châm ngôn, “Bạn không thể so sánh những quả táo với những quả cam.
Tuy nhiên, GDP lại làm đúng như vậy. GDP cộng nhiều loại sản phẩm khác nhau vào trong một thước đo June 1, 2021 2 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
giá trị duy nhất của hoạt động kinh tế. Để làm việc này, nó sử dụng giá cả thị trường. Bởi vì giá cả thị
trường đo lường số tiền mà người ta sẵn lòng trả cho những hàng hóa khác nhau, cho nên chúng phản
ánh giá trị của những hàng hoá đó. Nếu giá của một quả táo gấp đôi gia của một quả cam, thì một quả
táo đóng góp nhiều gấp đôi vào GDP so với sự đồng góp của một quả cam.
1. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch
vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. "... của tất cả ...”
GDP cố gắng bao hàm tất cả. Nó bao hàm tất cả. Nó bao gồm tất cả các mặt hàng được sản
xuất trong tinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường. GDP đo lường giá trị trường của không chỉ
những quả táo và quả cam mà cả những quả lê và quả bưởi, - báo và phim ảnh, dịch vụ cắt tóc và chăm sóc sức khỏe, vv...
GDP cũng bao gồm giá trị thị trường của các dịch vụ nhà ở được cung cấp bởi nguồn cung nhà ở của
nền kinh tế. Đối với nhà ở cho thuê, giá trị này rất dễ tính toán - tiền thuế vừa bằng chi tiêu của người
thuê nhà và vừa bằng thu nhập của chủ nhà. Tuy nhiên, nhiều người sở hữu ngôi nhà mà họ đang ở và
vì thế không phải trả tiền thuê. Chính phủ tính dịch vụ nhà ở mà chủ sở hữu đang cư trú vào GDP bằng
cách ước tính giá trị cho thuế của nó. Trong thực tế, GDP được dựa trên giả định rằng chủ sở hữu đang
cho chính mình thuê nhà. Tiền thuế ước tính thì được tính vào cả trong chi tiêu của chủ nhà và trong thu
nhập của họ, vì thế nó được tính vào GDP.
Tuy nhiên, có một số sản phẩm mà GDP không tính vào bởi vì việc đo lường chúng là quá khó
khăn. GDP không bao gồm hầu hết các mặt hàng được sản xuất và bán một cách ngấm ngầm, chẳng
hạn như các loại thuốc phiện bất hợp pháp. Nó cũng không bao gồm hầu hết các mặt hàng được sản
xuất và tiêu dùng tại nhà và do đó không bao giờ được đưa ra thị trường. Rau quả bạn mua ở cửa hàng
tạp hóa là một phần của GDP; rau quả bạn trồng trong vườn nhà thì không được tính.
Những sự loại trừ này khỏi GDP có thể đôi khi dẫn đến những kết quả bất hợp lý. Ví dụ, khi
Karen trả tiền để Doug cắt cỏ cho cô ấy, giao dịch đó là một phần của GDP. Nếu Karen đã kết hôn với
Doug, thì tình huống sẽ thay đổi. Mặc dù Doug có thể tiếp tục cắt cỏ cho Karen, nhưng giá trị của việc cắt
cỏ bây giờ bị loại khỏi GDP bởi vì dịch vụ của Doug không còn được bán trên thị trường nữa. Vì vậy, khi
Karen và Doug kết hôn, GDP giảm xuống. “... cuối cùng...”
Khi International Paper sản xuất giấy, sau đó Hal mark sử dụng để sản xuất thiệp chúc mừng, thì
giấy được gọi là hàng hóa trung gian, và thiệp chúc mừng được gọi là hàng hóa cuối cùng. GDP chỉ bao
gồm giá trị của các hàng hóa cuối cùng. Điều này đúng bởi vì giá trị của những hàng hóa trung gian đã
được tính vào giá cả của Các hàng hóa cuối cùng. Việc cộng thêm giá trị thị trường của giấy vào giá trị
thị trường của thiệp chúc mừng sẽ là sự tính trùng. Tức là, GDP sẽ tính (không chính xác) giá trị của giấy hai lần.
Một ngoại lệ quan trọng của nguyên tắc này nảy sinh khi một hàng hóa trung gian được sản xuất
và thay vì được sử dụng, thì được đưa vào hàng tồn kho của một doanh nghiệp để sử dụng hoặc bán về
sau. Trong trường hợp này, hàng hóa trung gian được tính là “cuối cùng” tại thời điểm này, và giá trị của
nó như là khoản đầu tư vào hàng tồn kho được tính là một phần của GDP. Vì vậy, sự gia tăng của hàng
tồn kho được tính vào GDP, và khi hàng tồn kho được sử dụng hoặc được bán ra sau đó, thì lượng hàng
tồn kho giảm đi . trừ ra khỏi GDP.
“...hàng hóa và dịch vụ..”
GDP bao gồm cả hàng hóa hữu hình (thực phẩm, quần áo, xe hơi) và các dịch . vô hình (cắt tóc,
lau dọn nhà cửa, khám sức khỏe). Khi bạn mua một đĩa CD ban nhạc yêu thích, thì bạn đang mua một
hàng hóa, và giá mua là một phần . GDP. Khi bạn trả tiền để nghe một buổi hòa nhạc cũng của ban nhạc
đó, thì bạn đang mua một dịch vụ, và giá vé cũng là một phần của GDP.
“... được sản xuất..”
GDP bao gồm những hàng hóa và dịch vụ hiện đang được sản xuất. Nó không bao gồm các giao
dịch liên quan đến những hàng hóa được sản xuất trước đây. Khi Ford sản xuất và bán một chiếc xe June 1, 2021 3 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
mới, giá trị của chiếc xe được tính vào GDP. Khi một người bán một chiếc xe đã sử dụng cho người
khác, giá trị của chiếc xe đã sử dụng đó không được tính vào GDP.
"...trong phạm vi một quốc gia …”
GDP đo lường giá trị sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Khi một công dân
Canada làm việc tạm thời tại Hoa Kỳ, sản lượng sản xuất của người đó là một phần GDP của Hoa Kỳ.
Khi một công dân Mỹ sở hữu một nhà máy ở Haiti, sản lượng sản xuất tại nhà máy đó không phải là một
phần GDP của Hoa Kỳ. (Nó là một phần GDP của Haiti). Do đó, những mặt hàng được tính vào GDP của
một quốc gia nếu chúng được sản xuất trong nước, không phân biệt quốc tịch của nhà sản xuất.
“...trong một khoảng thời gian nhất định...”
GDP đo lường giá trị sản xuất diễn ra trong một khoảng thời gian cụ thể. Thông thường, khoảng
thời gian đó là một năm hoặc một quý (ba tháng). GDP đo lường dòng thu nhập và dòng chi tiêu của nền
kinh tế trong khoảng thời gian đó.
Khi chính phủ báo cáo GDP cho một quý, chính phủ thường thể hiện GDP “theo tỷ lệ hàng năm” Điều
này có nghĩa là con số được báo cáo của GDP theo quý là khoản thu nhập và chi tiêu trong quý nhân với
4. Chính phủ sử dụng quy ước này để các con số GDP hàng quý và hàng năm có thể so sánh được dễ dàng hơn.
Ngoài ra, khi chính phủ báo cáo GDP theo quý, thì số liệu đó đã được điều chỉnh bởi một quy
trình thống kê được gọi là điều chỉnh yếu tố mùa vụ. Số liệu không được điều chỉnh cho thấy rõ ràng rằng
nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn ở một số khoảng thời gian trong năm so với những
khoảng thời gian khác. (Như bạn có thể đoán ra, mùa mua sắm vào kỳ nghỉ lễ tháng 12 là thời gian cao
điểm). Khi đánh giá điều kiện của nền kinh tế, các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách thường
muốn nhìn xa hơn những thay đổi thường lệ theo mùa vụ này. Do đó, những người làm công tác thống
kê của chính phủ điều chỉnh số liệu hàng quý để loại bỏ chu kỳ theo mùa. Số liệu GDP được báo cáo
trong các bản tin luôn được điều chỉnh theo mùa.
Bây giờ chúng ta hãy nhắc lại định nghĩa GDP:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định.
Định nghĩa này tập trung vào việc xem GDP như là tổng chi tiêu trong nền kinh tế. Nhưng đừng
quên rằng mỗi đô la chi tiêu của người mua một hàng hóa hay dịch vụ trở thành một đô la thu nhập của
người bán của hàng hóa hay dịch vụ đó. Vì vậy, ngoài việc áp dụng định nghĩa này, chính phủ cũng xác
định được tổng thu nhập trong nền kinh tế. Hai cách tính GDP mang lại hầu như chính xác cùng một câu
trả lời. (Tại sao lại là “hầu như”? Mặc dù hai thước đo nên chính xác là như nhau, nhưng các nguồn số
liệu không phải là hoàn hảo. Sự chênh lệch giữa hai cách tính GDP được gọi là sai số thống kê.)
Rõ ràng GDP là một thước đo phức tạp về giá trị của hoạt động kinh tế. Trong các khóa học
nâng cao về kinh tế vĩ mô, bạn sẽ tìm hiểu thêm về những sự tinh tế phát sinh trong quá trình tính toán
nó. Nhưng ngay cả bây giờ bạn cũng có thể thấy rằng mỗi cụm từ trong định nghĩa này đều chứa đựng một ý nghĩa.
CÁC THÀNH PHẦN CỦA GDP
Chi tiêu trong nền kinh tế có nhiều hình thức. Bất cứ lúc nào, gia đình Smith có thể đang ăn trưa
tại Burger King; Ford có thể đang xây dựng một nhà máy sản xuất xe hơi; Bộ Hải quan có thể đang mua
một tàu ngầm; và British Airways có thể đang mua một chiếc máy bay từ Boeing. GDP bao gồm tất cả
các hình thức chỉ tiêu khác nhau này vào những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước.
Để hiểu được nền kinh tế đang sử dụng các nguồn lực khan hiếm như thế nào, các nhà kinh tế
nghiên cứu những thành phần của GDP giữa các loại chi tiêu khác nhau. Để làm điều đó, GDP (mà
chúng ta ký hiệu là Y) được chia thành bốn thành phần: tiêu dùng (C), đầu tư (I), mua sắm của chính phủ
(G), và xuất khẩu ròng (NX): Y=C+I+G + NX.
Phương trình này là một đồng nhất thức – một phương trình phải đúng vì cách thức xác định các
biến trong phương trình. Trong trường hợp này, bởi vì mỗi đô la chi tiêu được tính vào GDP được đặt June 1, 2021 4 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
vào một trong bốn thành phần của GDP, cho nên tổng bốn thành phần phải bằng với GDP. Chúng ta hãy
xem xét từng thành phần này một cách cụ thể hơn. THEO DÒNG THỜI SỰ
Những Thước Đo Thu Nhập
Khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ tính GDP hàng quý của quốc gia, họ cũng tính những thước đo khác
về thu nhập để có được một bức tranh đầy đủ hơn về những gì đang diễn ra trong nền kinh tế. Những
thước đo này khác với GDP bởi việc loại ra hay tính vào một số loại thu nhập nhất định. Sau đây là sự
mô tả ngắn gọn năm trong số những thước đo thu nhập này, được sắp xếp theo thứ tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất.
• Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng thu nhập kiếm được bởi các cư dân thường trú của một quốc
gia (gọi là công dân). Nó khác với GDP bởi việc tính cả thu nhập của công dân kiếm được ở nước ngoài
và loại ra thu nhập mà người nước ngoài kiếm được trong nước. Ví dụ, khi một công dân Canada làm,
việc tạm thời ở Hoa Kỳ, sản phẩm mà người đó làm ra là một phần GDP của Hoa Kỳ, nhưng nó không
phải là một phần GNP của Hoa Kỳ (Nó là một phần GNP của Canada). Đối với hầu hết các quốc gia, kể
cả Hoa Kỳ, các công dân trong nước làm ra hầu hết tổng sản phẩm quốc nội, cho nên GDP và GNP khá
giống nhau. Sản phẩm quốc gia ròng (NNP) là tổng thu nhập của các cư dân một nước (GNP) trừ đi
phần mất đi do khấu hao, Khấu hao là sự hao mòn trữ lượng các nhà xưởng và thiết bị của nền kinh tế,
như là xe tải bị gỉ sét và máy tính bị lỗi thời. Trong tài khoản thu nhập quốc gia do Bộ Thương mại hoạch
toán, khấu hao được gọi là “tiêu dùng vốn cố định.
• Thu nhập quốc dân là tổng thu nhập kiếm được bởi cư dân của một quốc gia trong quá trình sản xuất
hàng hóa và dịch vụ. Nó gần như giống hệt với sản phẩm quốc dân ròng. Hai thước đo này khác nhau do
sai số thống kê phát sinh từ những vấn đề trong
quá trình thu thập số liệu.
• Thu nhập cá nhân là thu nhập mà các hộ gia đình và các hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ nhận
được. Không giống như thu nhập quốc dân, nó không bao gồm các khoản thu nhập giữ lại, khoản | thu
nhập mà các công ty kiếm được nhưng đã không trả cho các chủ sở hữu, Nó cũng trừ đi các khoản thuế
kinh doanh gián tiếp (như là thuế bán hàng), các khoản thuế thu nhập doanh nghiệp, và các khoản đóng
bảo hiểm xã hội (hầu hết là các khoản thuế an sinh xã hội). Ngoài ra, thu nhập cá nhân bao gồm thu
nhập từ tiền lãi mà các hộ gia đình nhận được từ việc nắm giữ khoản nợ của chính phủ và thu nhập mà
các hộ gia đình nhận được từ những chương trình chuyển nhượng của chính phủ, như là phúc lợi và an sinh xã hội. .
• Thu nhập cá nhân khả dụng là thu nhập mà các hộ gia đình và các hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ
lẻ còn lại sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ đối với chính phủ. Nó bằng với thu nhập cá nhân trừ đi thuế
thu nhập cá nhân và những khoản chi trả ngoài thuế nhất định (như là phí phạt giao thông).
Mặc dù những thước đo thu nhập khác nhau về chi tiết, nhưng chúng hầu như luôn kể cùng một
câu chuyên về các điều kiện kinh tế. Khi GDP đang tăng trưởng nhanh chóng, những thước đo thu nhập
khác cũng thường đang tăng trưởng nhanh chóng. Và khi GDP đang sụt giảm, những thước đo khác này
cũng thường đang sụt giảm. Để theo dõi sự dao động trong tổng thể nền kinh tế, việc chúng ta sử dụng
thước đo thu nhập nào không phải là vấn đề gì lớn. Tiêu dùng
Tiêu dùng là chi tiêu của các hộ gia đình cho các hàng hóa và dịch vụ, ngoại trừ việc mua nhà ở
mới. Các hàng hoá bao gồm chi tiêu của hộ gia đình cho những hàng hóa lâu bền, như là xe hơi và các
trang thiết bị, và hàng hóa không lâu bền, như là thực phẩm và quần áo. Các dịch vụ bao gồm các sản
phẩm vô hình như cắt tóc và chăm sóc y tế, Chỉ tiêu của hộ gia đình cho giáo dục cũng được tính vào 1
.Tiêu dùng chi tiêu của các hộ gia đình cho các hàng hóa và dịch vụ, ngoại trừ mua nhà ở mới, t iêu
dùng các dịch vụ (mặc dù người ta có thể cho rằng nó nằm trong thành phần tiếp theo thì phù hợp hơn.)
Đầu tư Đầu tư là việc mua những hàng hóa mà sẽ được sử dụng trong tương lai để sản xuất
thêm các hàng hóa và dịch vụ. Nó là tổng các khoản mua sắm thiết bị sản xuất, hàng tồn kho và các
công trình xây dựng. Đầu tư vào các công trình xây dựng bao gồm cả chi tiêu cho nhà ở mới. Theo quy June 1, 2021 5 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
ước, việc mua một ngôi nhà mới là một hình thức của chi tiêu hộ gia đình và được phân loại là đầu tư thay vì tiêu dùng.
Như đã đề cập trước đây trong chương này, việc xếp loại tích lũy hàng tồn kho là đáng lưu ý. Khi
Del sản xuất một máy tính và thêm nó vào hàng tồn kho của họ thay vì bán nó, thì Del được cho là đã
“mua” máy tính đó cho chính họ. Tức là, kế toán thu nhập quốc gia xem cái máy tính đó như là một phần
trong chi tiều đầu tư của Del . (Nếu sau đó Del bán cái máy tính đó ra khỏi hàng tồn kho, thì đầu tư vào
hàng tồn kho của Del khi đó sẽ giảm đi, bù trừ cho chi tiêu tăng lên của người mua). Hàng tồn kho được
đối xử theo cách này bởi vì một mục đích của GDP là nhằm đo lường giá trị sản xuất của nền kinh tế, và
hàng hóa được bổ sung vào hàng tồn kho là một phần của giá trị sản xuất trong thời gian đó.
Lưu ý rằng việc hoạch toán GDP sử dụng từ đầu tư khác với cách mà bạn có thể đã nghe về
thuật ngữ này trong trò chuyện hàng ngày. Khi bạn nghe từ đầu tư, bạn có thể nghĩ đến các khoản đầu
tư tài chính, chẳng hạn như là cổ phiếu, trái phiếu và các quỹ hỗ tương - những chủ đề mà chúng ta sẽ
nghiên cứu về sau trong cuốn sách này. Trái lại, bởi vì GDP đo lường chi tiêu cho các hàng hóa và dịch
vụ, ở đây từ đầu tư có nghĩa là việc mua hàng hóa (chẳng hạn như là thiết bị sản xuất, nhà xưởng và
hàng tồn kho) được sử dụng để sản xuất những hàng hóa khác.
Mua sắm của chính phủ
Mua sắm của chính phủ bao gồm chi tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ bởi Chính quyền địa phương,
tiểu bang và liên bang. Nó bao gồm tiền lương của nhưng người làm việc khu vực chính phủ cũng như
chi tiêu cho các hoạt động Công. Gần đây, tài khoản thu nhập quốc gia của Hoa Kỳ đã chuyển sang sử
dụng Cái tên dài hơn là chi tiêu tiêu dùng và tổng đầu tư của chính phủ, nhưng trong vuon sách này,
chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ truyền thống và ngắn hơn là mua sắm của chính phủ. 1. Đ
ầu tư: chi tiêu cho thiết bị sản xuất, hàng tồn kho và các công trình xây dựng, bao gồm cả mua nhà
ở mới của các hộ gia đình. 2. M
ua sắm của chính phủ: chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ bởi chính quyền địa phương, tiểu bang và liên bang.
Ý nghĩa từ sự mua sắm của chính phủ cần phải được làm rõ. Khi chính HL, trả lương cho một vị
tướng quân đội hay cho một giáo viên, thì tiền lương : là một phần mua sắm của chính phủ. Nhưng
khi chính phủ chi trợ cấp an ninh xã hội cho một người cao tuổi hoặc là bảo hiểm thất nghiệp cho một
người lao động mới bị mất việc gần đây, thì câu chuyện lại rất khác: những khoản chi này được gọi
là chi chuyển nhượng bởi vì chúng được chi không phải để đổi lấy một hàng hóa hay dịch vụ được
sản xuất hiện thời. Chi chuyển nhượng làm thay đổi thu nhập của hộ gia đình, nhưng nó không phản
ánh sự sản xuất của nền kinh tế. (Từ quan điểm kinh tế vĩ mô, chi chuyển nhượng giống như là một
loại thuế âm). Bởi vì GDP được dùng để đo lường thu nhập từ hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch
vụ và chi tiêu cho hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ, cho nên chi chuyển nhượng không được
tính là một phần mua sắm của chính phủ.
Xuất khẩu ròng Xuất khẩu ròng' bằng chi tiêu của người nước ngoài cho hàng hóa được sản xuất
trong nước (xuất khẩu) trừ đi chi tiêu của cư dân trong nước cho hàng hóa nước ngoài (nhập khẩu). Việc
bán hàng hóa của một doanh nghiệp trong nước cho một người mua ở nước khác, chẳng hạn như
Boeing bán một chiếc máy bay cho British Airways, thì làm tăng xuất khẩu ròng.
Chữ ròng trong từ xuất khẩu ròng liên quan đến thực tế là nhập khẩu được trừ vào xuất khẩu. Phép
trừ này được thực hiện bởi vì những thành phần khác của GDP đã bao gồm cả nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ. Ví dụ, giả sử là một hộ gia đình mua một chiếc xe hơi trị giá 30.000 USD từ Volvo, nhà sản xuất
xe hơi Thụy Điển. Giao dịch đó làm chi tiêu tiêu dùng tăng thêm 30.000 USD bởi vì mua sắm xe hơi là
một phần trong chi tiêu tiêu dùng. Nó cũng làm xuất khẩu ròng giảm đi 30.000 USD bởi vì chiếc xe là một
hàng hóa nhập khẩu. Nói cách khác, xuất khẩu ròng bao gồm những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
ở nước ngoài (mang dấu trừ) bởi vì những hàng hóa và dịch vụ này được tính vào tiêu dùng, đầu tư và
mua sắm của chính phủ (mang dấu cộng). Do đó, khi một hộ gia đình, một doanh nghiệp, hoặc chính phủ
trong nước mua một hàng hóa hay dịch vụ từ nước ngoài, thì việc mua sắm làm giảm xuất khẩu ròng, June 1, 2021 6 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
nhưng bởi vì nó cũng làm tăng tiêu dùng, đầu tư hoặc mua sắm của chính phủ, cho nên nó không ảnh hưởng đến GDP. June 1, 2021 7 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG
Các Thành Phần Trong GDP của Hoa Kỳ
Bảng 1 cho thấy các thành phần trong GDP của Hoa Kỳ vào năm 2009. Trong năm này, GDP của Hoa
Kỳ là hơn 14 ngàn tỷ USD. Chia con số này cho dân số 04 - năm 2009 là 300 triệu người thì được GDP
theo đầu người (đôi khi được gọi là
1. Xuất khẩu ròng: chi tiêu của người nước ngoài cho hàng hóa được sản xuất trong nước (xuất khẩu)
trừ đi chi tiêu của cư dân trong nước cho hàng hóa nước ngoài (nhập khẩu).
GDP bình quân đầu người). Năm 2009, thu nhập và chi tiêu của người Mỹ trung bình là 46.372
USD. Tiêu dùng chiếm 71% GDP, hay 32.823 USD/người. Đầu tư là 5.278 USD/ Mua sắm của chính phủ
là 9,540 USD/người. Xuất khẩu ròng là -1.269 USD/người. Con số này âm bởi vì người Mỹ chi tiêu cho
hàng hóa nước ngoài nhiều hơn người nước ngoài chi tiêu cho hàng hóa Hoa Kỳ.
Những số liệu này lấy từ Cục Phân tích Kinh tế, một cơ quan thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ
chuyển hạch toán tài khoản thu nhập quốc gia. Bạn có thể tìm các số liệu gần đây hơn về GDP tại trang
web của họ, http://www.bea.gov.
GDP THỰC SO VỚI GDP DANH NGHĨA
Như chúng ta đã thấy, GDP đo lường tổng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ trên tất cả các thị
trường trong nền kinh tế. Nếu tổng chi tiêu tăng lên từ năm này sang năm tiếp theo, thì ít nhất một trong
hai điều sau đây phải đúng: (1) nền kinh tế đang sản xuất một sản lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn,
hoặc (2) hàng hóa và dịch vụ đang được bán với giá cao hơn. Khi nghiên cứu những sự thay đổi trong
nền kinh tế theo thời gian, các nhà kinh tế muốn tách bạch hai tác động này. Cụ thể là, họ muốn một
thước đo cho tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ mà nền kinh tế đang sản xuất ra nhưng không bị ảnh
hưởng bởi những sự thay đổi về giá cả của các hàng hóa và dịch vụ đó.
Để làm điều này, các nhà kinh tế sử dụng một thước đo được gọi là GDP thực. GDP thực trả lời
một câu hỏi giả thuyết: Giá trị của các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong năm nay sẽ là bao nhiêu
nếu chúng ta tính toán giá trị của những hàng hóa và dịch vụ này theo mức giá hiện hữu ở một năm cụ
thể nào đó trong quá khứ? Với việc đánh giá sản lượng hiện hành bằng cách sử dụng mức giá cố định
trong quá khứ, GDP thực cho biết sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế thay đổi như thế nào theo thời gian.
Để biết cụ thể hơn GDP thực được tính toán như thế nào, chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Một ví dụ bằng số
Bảng 2 trình bày số liệu của một nền kinh tế chỉ sản xuất hai hàng hóa: xúc xích và bánh mì kẹp thịt.
Bảng này cho thấy giá cả và số lượng được sản xuất của hai hàng hóa đó trong các năm 2010, 2011 và 2012.
Để tính toán tổng chi tiêu trong nền kinh tế này, chúng ta sẽ nhận số lượng xúc xích và bánh mì kẹp thịt
với giá của chúng. Trong năm 2010, 100 xúc xích được bán với giá 1 USD/cái, vì vậy chi tiêu cho xúc
xích là 100 USD. Trong cùng năm đó, 50 chiếc bánh mỳ kẹp thịt được bán với giá 2 USD/cái, do đó chi
tiêu cho bánh mì kẹp thịt cũng bằng 100 USD. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế – tổng của chi tiêu cho xúc
xích và chi tiêu cho bánh mì kẹp thịt - là 200 USD. Số tiền này, sản lượng hàng hóa và dịch vụ được định
giá theo mức giá hiện hành, được gọi là GDP danh nghĩa.
Bảng này cho thấy cách tính GDP danh nghĩa cho ba năm đó. Tổng chi tiêu tăng từ 200 USD
vào năm 2010 lên 600 USD năm 2011 và sau đó lên 1.200 USD vào năm 2012. Một phần của sự gia
tăng này là do sự gia tăng số lượng xúc xích và bánh mì kẹp thịt, và một phần là do sự gia tăng giá cả
của xúc xích và bánh mì kẹp thịt.
Để có được một thước đo cho sản lượng được sản xuất mà không bị ảnh hưởng bởi những
thay đổi về giá cả, chúng ta sử dụng GDP thực, đó là sản lượng hàng hoá và dịch vụ được định giá theo
mức giá cố định. Chúng ta tính toán GDP thực bằng cách trước hết chọn một năm làm năm cơ sở. Sau
đó chúng ta sử dụng giá của xúc xích và bánh mì kẹp thịt trong năm cơ sở để tính toán giá trị của các
hàng hóa và dịch vụ trong tất cả các năm. Nói cách khác, giá cả trong năm cơ sở làm căn cứ cho việc so
sánh số lượng trong những năm khác nhau. June 1, 2021 8 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
1. GDP thực: sản lượng hàng hóa và dịch vụ được định giá theo mức giá cố định.
Giả sử chúng ta chọn năm 2010 là năm cơ sở cho ví dụ này. Sau đó chúng ta có thể sử dụng giá
của xúc xích và bánh mì kẹp thịt trong năm 2010 để tính toán giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
trong các năm 2010, 2011 và 2012.Bảng 2 trình bày những pha ta sử dụng giá của xúc xích và số lượng
của xúc xích và bánh mì kẹp thịt trong năm 2010 (năm cơ sở) và số lượng của xúc xích và bánh mì kẹp
thịt được sản xuất trong năm 2010. (Do đó, đối với năm cơ sở, GDP thực luôn bằng GDP danh nghĩa.).
Để tính GDP thực cho 2011, chúng ta sử dụng giá của xúc xích và bánh mì kẹp thịt trong năm 2010 (năm
cơ sở) và số lượng của xúc xích và bánh mì kẹp thịt được sản xuất trong năm 2011. Tương tự, để tính
GDP thực cho năm 2012, chúng ta sử dụng giá trong năm 2010 và số lượng trong năm 2012. Khi chúng
ta thấy rằng GDP thực đã tăng từ 200 USD trong năm 2010 lên 350 USD vào năm 2011 và sau đó lên
500 USD trong năm 2012, chúng ta biết rằng sự gia tăng này là do sự gia tăng số lượng sản xuất bởi vì
giá cả đang được giữ cố định tại mức giá của năm cơ sở. .
Tóm lại: GDP danh nghĩa sử dụng giá hiện hành để tính giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ
của nền kinh tế. GDP thực sử dụng giá cố định của năm cơ sở để tính giá trị sản lượng hàng hóa và dịch
vụ của nền kinh tế. Bởi vì GDP thực không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi của giá cả, cho nên sự thay
đổi của GDP thực chỉ phản ánh sự thay đổi của số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất. Vì vậy,
GDP thực là thước đo sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế.
Mục tiêu của chúng ta khi tính toán GDP là nhằm đánh giá xem nền kinh tế tổng thể đang hoạt
động như thế nào. Bởi vì GDP thực đo lường sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế, cho nên nó
phản ánh năng lực của nền kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn của người dân. Vì thế,
GDP thực là thước đo phúc lợi kinh tế tốt hơn so với GDP danh nghĩa. Khi các nhà kinh tế nói về GDP
của nền kinh tế, họ thường đề cập đến GDP thực chứ không phải GDP danh nghĩa. Và khi họ nói về sự
tăng trưởng của nền kinh tế, họ đo lường sự tăng trưởng đó bằng sự thay đổi phần trăm của GDP thực
từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.
Chỉ số giảm phát GDP
Như chúng ta vừa thấy, GDP danh nghĩa phản ánh cả số lượng hàng hóa và dịch vụ mà nền
kinh tế đang sản xuất và giá cả của những hàng hóa và dịch vụ đó. Ngược lại, bằng cách giữ giá cả cố
định tại mức giá của năm cơ sở, GDP thực chỉ phản ánh số lượng được sản xuất. Từ hai số liệu thống
kê này, chúng ta có thể tính toán số liệu thứ ba, được gọi là chỉ số giảm phát GDP, phản ánh giá cả của
hàng hóa và dịch vụ. Chỉ số giảm phát GDP được tính như sau:
Chỉ số giảm phát GDP = (GDP danh nghĩa/GDP thực)*100%
1. Chỉ số giảm phát GDP: thước đo mức giá được tính toán bằng tỷ số của GDP danh nghĩa so với
GDP thực nhân với 100.
Bởi vì GDP danh nghĩa và GDP thực phải giống nhau ở năm cơ sở, cho nên chỉ số giảm phát
GDP của năm cơ sở luôn bằng 100. Chỉ số giảm phát GDP của những năm tiếp theo đo lường sự thay
đổi của GDP danh nghĩa so với năm cơ sở mà không thể quy về sự thay đổi của GDP thực.
Chỉ số giảm phát GDP đo lường mức giá hiện hành so với mức giá trong năm Cơ sở. Để biết vì
sao điều này lại đúng, hãy xem xét một vài ví dụ đơn giản. Đầu tiên, hãy hình dung rằng số lượng được
sản xuất trong nền kinh tế tăng lên theo thời gian nhưng giá cả vẫn như cũ. Trong trường hợp này, cả
GDP danh nghĩa và GDP thực đều tăng lên cùng nhau, vì thế chỉ số giảm phát GDP không thay đổi. Bây
giờ thay vào đó, giả sử rằng giá cả tăng lên theo thời gian nhưng số lượng được sản xuất lại vẫn như cũ.
Trong trường hợp thứ hai này, GDP danh nghĩa tăng lên nhưng GDP thực vẫn không thay đổi, do đó chỉ
số giảm phát GDP tăng lên. Lưu ý rằng, trong cả hai trường hợp, chỉ số giảm phát GDP phản ánh những
gì đang xảy ra với giá cả, chứ không phải với sản lượng.
Bây giờ chúng ta quay trở lại ví dụ bằng số trong Bảng 2. Chỉ số giảm phát GDP được tính ở
phía dưới bảng. Năm 2010, GDP danh nghĩa là 200 USD, và GDP thực là 200 USD, do đó chỉ số giảm
phát GDP là 100. (Chỉ số này luôn là 100 trong năm cơ sở). Năm 2011, GDP danh nghĩa là 600 USD, và
GDP thực là 350 USD, do đó chỉ số giảm phát GDP là 171.
Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ lạm phát để mô tả tình huống mà mức giá chung của nền
kinh tế đang gia tăng. Tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi trong thước đo mức giá từ giai đoạn này sang June 1, 2021 9 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
giai đoạn kế tiếp. Sử dụng chỉ số giảm phát GDP, tỷ lệ lạm phát giữa hai năm liên tiếp được tính như sau:
Tỷ lệ lạm phát trong năm 2 =[ ( Chỉ số giảm phát năm 2 - Chỉ số giảm phát năm 1)/ Chỉ số giảm phát năm 1]x100
Bởi vì chỉ số giảm phát GDP đã tăng từ 100 lên 171 trong năm 2011, cho nên tỷ lệ lạm phát là
100 x (171 - 100)/100, hay 71%. Năm 2012, chỉ số giảm phát GDP đã tăng lên 240 từ 171 vào năm
trước, do đó tỷ lệ lạm phát là 100 x (240 – 171)/171, hay 40%.
Chỉ số giảm phát GDP là một thước đo mà các nhà kinh tế sử dụng để theo dõi mức giá trung
bình của nền kinh tế và vì thế cũng theo dõi tỷ lệ lạm phát. Chỉ số giảm phát GDP có tên gọi như vậy bởi
vì nó có thể được sử dụng để tách lạm phát ra khỏi GDP danh nghĩa – tức là, để “giảm phát” GDP danh
nghĩa vì sự gia tăng do sự tăng lên của giá cả. Chúng ta xem xét một thước đo khác về mức giá của nền
kinh tế, được gọi là chỉ số giá tiêu dùng trong chương tiếp theo, tại đó chúng ta cũng sẽ mô tả sự khác
nhau giữa hai thước đo này.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG GDP Thực Trong Lịch sử Gần Đây
Bây giờ chúng ta đã biết làm thế nào để xác định và đo lường GDP thực, chúng ta hãy xem biển
số kinh tế vĩ mô này cho chúng ta biết điều gì về lịch sử gần đây của Hoa Kỳ. HÌnh 2 cho thấy số liệu
GDP thực theo quý của nền kinh tế Hoa Kỳ kể từ năm 1965.
Đặc điểm rõ nét nhất của những số liệu này là GDP thực tăng lên theo thời gian của nền kinh tế
Hoa Kỳ vào năm 2009 là gần gấp bốn lần so với 1965. Nói cách khác, sản lượng hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất tại Hoa Kỳ đã tăng trung bình khoảng 3%/năm. Sự tăng trưởng liên tục của GDP thực cho
phép một người dân Mỹ điển hình thụ hưởng sự thịnh vượng kinh tế lớn hơn so với cha mẹ và ông bà của họ.
Đặc điểm thứ hai của số liệu GDP là tăng trưởng không ổn định. Xu hướng tăng lên của GDP
thực thỉnh thoảng bị gián đoạn trong một số thời kỳ mà GDP cut giảm, gọi là thời kỳ suy thoái. Hình 2
đánh dấu những thời kỳ suy thoái với các thanh đứng đậm màu. (Không hề CÓ quy tắc cứng nhắc để khi
nào thì ủy ban xác định chu kỳ kinh tế chính thức sẽ tuyên bố rằng một thời kỳ suy thoái diễn ra, nhưng
một thông lệ chung là khi GDP thực sụt giảm trong hai quý liên tiếp thì được xem là suy thoái.) Suy thoái
không chỉ gắn liền với thu nhập thấp hơn mà còn đi cùng với những hình thức khác của tình trạng khốn
cùng kinh tế: thất nghiệp gia tăng, lợi nhuận sụt giảm, số vụ phá sản tăng lên, vv...
Phần lớn nội dung của kinh tế vĩ mô luôn nhằm vào mục đích giải thích sự tăng trưởng trong dài
hạn và sự dao động của GDP thực trong ngắn hạn. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo,
chúng ta cần những mô hình khác nhau cho hai mục đích này. Bởi vì những dao động ngắn hạn thể hiện
sự chệch khói xu hướng dài hạn, cho nên trước hết chúng ta phân tích hành vi của các biến Số kinh tế vĩ
mô chính, bao gồm GDP thực, trong dài hạn. Rồi ở những chương Về sau, chúng ta dựa trên sự phân
tích này để giải thích những sự dao động trong ngắn hạn.
Phần trước trong chương này, GDP đã được gọi là thước đo tốt nhất về phúc lợi kinh tế của một
xã hội. Bây giờ chúng ta đã biết GDP là gì, vì vậy chúng ta có thg đánh giá nhận định đó.
Như chúng ta đã thấy, GDP đo lường cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ
của nền kinh tế. Do đó, GDP bình quân đầu người cho chúng ta biết thu nhập và chi tiêu trung bình của
một người trong nền kinh tế. Bởi vì hâm hết mọi người sẽ thích nhận được thu nhập cao hơn và thụ
hưởng mức chi tiêu nhiều hơn, cho nên GDP bình quân đầu người dường như là thước đo tự nhiên, về
phúc lợi kinh tế trung bình của cá nhân,
Tuy nhiên, một số người bất đồng về tính hợp lý của GDP với tư cách là một thước đo phúc lợi.
Khi Thượng nghị sĩ Robert Kennedy vận động tranh cử tổng thống vào năm 1968, ông đã đưa ra một lời
bình phẩm xúc động về những thước đo kinh tế như vậy:
Tổng sản phẩm quốc nội] không tính đến sức khỏe của con cái chúng ta, chất lượng giáo dục mà
chúng nhận được, hay niềm vui của chúng khi vui chơi. Nó không bao gồm vẻ đẹp của thơ ca hay sự
bền vững của các cuộc hôn nhân, sự thông minh trong những cuộc tranh luận công khai hay sự liêm
chính của các quan chức. Nó không đo lường lòng can đảm và sự hiểu biết của chúng ta, mà cũng
không đo lường sự cống hiến của chúng ta cho đất nước. Nói một cách ngắn gọn, nó đo lường tất cả mọi
thứ, ngoại trừ những thứ làm cho cuộc sống đáng giá hơn, và nó có thể cho chúng ta biết tất cả mọi thứ June 1, 2021 10 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
về nước Mỹ ngoại trừ lý do tại sao chúng ta lại tự hào rằng mình là người Mỹ. Phần lớn những gì Robert
Kennedy nói là chính xác. Vậy thì tại sao chúng ta lại quan tâm đến GDP?
Câu trả lời là trong thực tế, GDP lớn giúp chúng ta hướng đến một cuộc sống tốt đẹp. GDP
không đo lường sức khỏe của con cái chúng ta, nhưng các quốc gia có GDP lớn hơn có thể chăm sóc
sức khỏe cho chúng tốt hơn. GDP không đo lường chất lượng giáo dục mà chúng nhận được, nhưng các
quốc gia có GDP lớn hơn có thể cung cấp hệ thống giáo dục tốt hơn. GDP không đo lường vẻ đẹp của
thơ ca, nhưng các quốc gia có GDP lớn hơn có thể giảng dạy cho nhiều công dân của họ hơn về cách
đọc và thưởng thức thơ. GDP không tính đến trí thông minh, sự liêm chính, lòng can đảm, sự hiểu biết,
hay sự cống hiến của chúng ta cho đất nước, nhưng tất cả những phẩm chất đáng khen ngợi đó thì dễ
nuôi dưỡng hơn khi người ta ít phải bận tâm về việc cố gắng đảm bảo những nhu cầu vật chất thiết yếu
của cuộc sống. Nói ngắn gọn, GDP không trực tiếp đo lường những điều làm cho cuộc sống có giá trị,
nhưng nó đo lường khả năng của chúng ta để có được nhiều đầu vào phục vụ cho một cuộc sống tốt đẹp.
Tuy nhiên, GDP không phải là một thước đo hoàn hảo về phúc lợi. Một số thứ góp phần tạo nên
một cuộc sống tốt đẹp lại bị loại ra khỏi GDP. Một là thời gian nghỉ ngơi. Ví dụ, giả sử tất cả mọi người
trong nền kinh tế đột nhiên làm việc tất cả các ngày trong tuần, thay vì tận thưởng thời gian nghỉ ngơi vào cuối tuần.
Nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn sẽ được sản xuất, và GDP sẽ tăng lên. Nhưng mặc dù GDP tăng
lên, chúng ta không nên kết luận rằng tất cả mọi người sẽ có cuộc Sống tốt hơn. Sự thiệt hại do thời gian
nghỉ ngơi bị giảm bớt sẽ bù trừ đi lợi ích từ việc sản xuất và tiêu thụ số lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn.
Bởi vì GDP sử dụng giá thị trường để định giá hàng hóa và dịch vụ, cho nên nó không bao gồm
giá trị của hầu hết các hoạt động diễn ra bên ngoài thị trường. Cụ thể là, GDP bỏ sót giá trị của hàng hóa
và dịch vụ được sản xuất tại nhà. Khi một đầu bếp chuẩn bị một bữa ăn ngon và bán nó tại nhà hàng của
mình, thì giá trị của bữa ăn đó là một phần của GDP. Nhưng nếu đầu bếp này chuẩn bị bữa ăn như vậy
cho gia đình của mình, thì giá trị chế biến mà người đó đã thêm vào nguyên liệu lại không được tính vào
GDP. Tương tự như vậy, dịch vụ trông trẻ được cung cấp tại các trung tâm trông trẻ hằng ngày là một
phần của GDP, trong khi đó việc trông trẻ của cha mẹ ở nhà thì không phải. Những công việc tình
nguyện cũng đóng góp vào phúc lợi của người dân trong xã hội, nhưng GDP không phản ánh những
đóng góp này. . Một điều nữa mà GDP không bao gồm là chất lượng của môi trường. Hãy tưởng tượng
rằng chính phủ loại bỏ tất cả các quy định về môi trường. Khi đó các doanh nghiệp có thể sản xuất các
hàng hóa và dịch vụ mà không xem xét tình trạng ô nhiễm mà họ gây ra, và GDP có thể tăng lên. Tuy
nhiên, phúc lợi gần như chắc chắn sẽ giảm. Sự suy giảm chất lượng không khí và nước sẽ lớn hơn so
với sự bù đắp lợi ích từ việc sản xuất nhiều hơn.
GDP cũng không nói gì về sự phân phối thu nhập. Một xã hội mà 100 người có thu nhập hằng
năm là 50.000 USD thì có GDP là 5 triệu USD và không hề ngạc nhiên, GDP mỗi người là 50.000 USD.
Cũng xã hội đó mà 10 người kiếm được 500.000 USD và 90 người còn lại chẳng kiếm được gì cả thì
cũng có GDP như thế. Rất ít người sẽ xem hại tình huống đó là tương đương nhau. GDP bình quân đầu
người cho chúng ta biết điều gì xảy ra với một người trung bình, nhưng đằng sau một người trung bình
lại là những hoàn cảnh cá nhân rất khác nhau.
Cuối cùng, chúng ta có thể kết luận rằng GDP là một thước đo tốt về phúc lợi kinh tế cho hầu hết
– chứ không phải là tất cả – các mục đích. Điều quan trọng cần ghi nhớ là GDP bao gồm những gì và
những gì mà nó loại trừ ra. N
GHIÊN CỨU : Sự Khác Biệt Quốc Tế Về GDP TÌNH HUỐNG và Chất Lượng Cuộc Sống
Một cách để đánh giá tính hữu ích của GDP với tư cách một thước đo phúc lợi kinh tế là xem xét
số liệu quốc tế. Các nước giàu và các nước nghèo có những mức GDP bình quân đầu người rất khác
nhau. Nếu GDP lớn dẫn đến mức sống cao hơn, thì chúng ta sẽ thấy GDP có mối tương quan chặt chẽ
với các thước đo khác nhau về chất lượng cuộc sống. Và trong thực tế, chúng ta thấy như vậy.
Bảng 3 cho thấy thứ tự xếp hạng theo GDP bình quân đầu người của mười hai quốc gia đông dân nhất
thế giới. Bảng này cũng cho thấy tuổi thọ trung bình (tuổi thọ kỳ vọng khi sinh), mức độ biết chữ (tỷ lệ
phần trăm dân số trưởng thành June 1, 2021 11 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
biết đọc), và việc sử dụng Internet (tỷ lệ phần trăm dân số thường xuyên sử dụng Internet). Những số
liệu này cho thấy một mẫu hình rõ ràng. Ở các nước giàu, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức,
người dân có thể sống đến khoảng 80 tuổi, hầu như toàn bộ dân số đều biết chữ, và từ một nửa đến hai
phần ba dân số sử dụng Internet. Ở những nước nghèo, chẳng hạn như Nigeria, Pakistan và
Bangladesh, người dân thường chết sớm hơn khoảng từ 10 đến 20 năm, một phần lớn dân số không biết
chữ, và việc sử dụng Internet là hiếm hoi.
Số liệu về những khía cạnh khác của chất lượng cuộc sống kể một câu chuyện tương tự. Các
quốc gia có GDP bình quân đầu người thấp có xu hướng nhiều trẻ em sinh ra với cân nặng thấp, tỷ lệ trẻ
em tử vong cao hơn, tỷ lệ phụ nữ mang thai tử vong cao hơn, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao hơn, và
sự tiếp cận nguồn nước uống an toàn là ít hơn. Ở các quốc gia có GDP bình quân đầu người thấp, ít trẻ em
Các nhà kinh tế nhìn chung đều đồng ý rằng Madness: Sex, Drugs and Cheap Labor in the
American nền kinh tế ngầm còn lớn hơn ở các nước đang phát Black Market, nhà văn điều tra Eric
Schlosser đã viện triển, nơi mà mạng lưới hành chính quan liêu và tham dẫn lý thuyết"bàn tay vô hình”
của Adam Smith rằng nhũng là hết sức nghiêm trọng. Ví dụ, [nhà kinh tế con người khi theo đuổi tư lợi sẽ
mang lại lợi ích cho Friedrich]Schneider vào năm 2003 đã công bố những xã hội. Bàn tay vô hình này đã
tạo ra một nền kinh tế ước tính về"nền kinh tế ngầm” (được định nghĩa rộng ngầm có quy mô khá lớn, và
chúng ta cũng không thể rãi là toàn bộ các hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch hiểu được toàn bộ hệ
thống kinh tế nếu không hiểu vụ hợp pháp, trên cơ sở thị trường và được các cơ quan được chức năng
của nền kinh tế ngầm. “Nền kinh tế chính quyền che chắn có chủ đích) cho các quốc gia ngầm là một
thước đo tốt về sự tiến bộ và sức khỏe bao gồm: Zimbabwe, được ước tính lên đến 63,2% của các quốc
gia” Schlosser viết. “Khi nhiều hoạt động GDP, Thái Lan là 54,1%, và Bolivia là 68,3%. Trong là phi pháp,
thì nhiều hoạt động cần phải được che số các nước thuộc khối Xô-viết cũ, Georgia dẫn đầu giấu” Hàm ý
của Schlosser là nhiều hoạt động kinh tế với nền kinh tế ngâm chiếm 68% GDP, và tổng cộng ở Hoa Kỳ
là phi pháp. Nếu ông có quan điểm toàn cầu nền kinh tế ngầm của các nước đó chiếm trung bình hơn, thì
có lẽ ông đã nhận thấy rằng hoạt động bị che 40,1% GDP. Con số này trái ngược với mức trung bình
16,7% ở các quốc gia phương Tây.
trong độ tuổi đi học được đến trường, và những em được đến trường thì phải học với số giáo viên ít hơn
tính bình quân trên mỗi học sinh. Các quốc gia này cũng thường có số tivi, số điện thoại, số con đường
được trải nhựa, và số hộ gia đình có điện ít hơn. Số liệu quốc tế xác nhận rằng GDP bình quân đầu
người của một quốc gia có mối tương quan chặt chẽ với mức sống người dân của quốc gia đó KẾT LUẬN
Chương này đã thảo luận về cách thức mà các nhà kinh tế đo lường tổng thu nhập của một quốc
gia. Dĩ nhiên, việc đo lường mới chỉ là điểm khởi đầu. Phần lớn nội dung của kinh tế vĩ mô là nhằm mục
đích tìm hiểu những nhân tố quyết định tổng sản phẩm quốc nội của một quốc gia trong ngắn hạn và dài
hạn. Ví dụ, tại sao GDP của Hoa Kỳ và Nhật Bản lại cao hơn GDP của Ấn Độ và Nigeria? Các chính phủ
của những quốc gia nghèo nhất có thể làm gì để thúc đẩy tăng trưởng GDP nhanh hơn? Tại sao GDP
của Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng trong một số năm và giảm xuống trong những năm khác? Những nhà
hoạch định chính sách của Hoa Kỳ có thể làm gì để giảm bớt mức độ nghiêm trọng trong những biến
động này của GDP? Đây là những câu hỏi mà chúng ta sẽ sớm trả lời. .
Tại thời điểm này, điều quan trọng là phải nhận thức được tầm quan trọng của việc đo lường
GDP. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được phần nào sự vận hành của nền kinh tế khi chúng ta lo toan
cuộc sống. Tuy nhiên, các nhà kinh tế là những người nghiên cứu về những thay đổi trong nền kinh tế và
các nhà hoạch định chính sách là những người xây dựng các chính sách kinh tế, cho nên họ cần nhiều
căn cứ hơn là cảm nhận mơ hồ này – họ cần những số liệu cụ thể để làm cơ sở cho các đánh giá. Do
đó, việc định lượng hành vi của nền kinh tế bằng những số liệu thống kê như GDP là bước đầu tiên để
phát triển khoa học kinh tế vĩ mô. TÓM TẮT
• Bởi vì mỗi giao dịch đều có một người mua và một người bán, cho nên tổng
chi tiêu trong nền kinh tế phải bằng tổng thu nhập trong nền kinh tế.
• Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đo lường tổng chi tiêu của một nền kinh tế vào những hàng hóa và dịch
vụ được sản xuất mới và tổng thu nhập nhận được từ việc sản xuất những hàng hóa và dịch vụ này. June 1, 2021 12 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
Chính xác hơn, GDP là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất
trong một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
GDP được chia thành bốn thành phần của chi tiêu: tiêu dùng, đầu tư, mua sắm chính phủ và
xuất khẩu ròng. Tiêu dùng bao gồm chi tiêu của các hộ gia đình cho hàng hóa và dịch vụ, ngoại trừ việc
mua nhà ở mới. Đầu tư bao gồm chi tiêu cho thiết bị và các công trình nhà xưởng mới, kể cả khoản mua
nhà ở mới của các hộ gia đình. Mua sắm chính phủ bao gồm của chính quyền liên bang, tiểu bang và địa
phương cho hàng hóa và dịch vụ. Xuất khẩu ròng bằng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong
nước và bán ra nước ngoài (xuất khẩu) trừ đi giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài và
bán ở trong nước (nhập khẩu).
GDP danh nghĩa sử dụng giá hiện hành để tính toán giá trị sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nền
kinh tế. GDP thực sử dụng giá cố định của năm cơ sở để tính toán giá trị sản xuất hàng hóa và dịch vụ
của nền kinh tế. Chỉ số giảm phát GDP – được tính bằng tỷ lệ GDP danh nghĩa trên GDP thực - đo
lường mức giá trong nền kinh tế.
• GDP là một thước đo tốt về phúc lợi kinh tế bởi vì mọi người thích thu nhập cao hơn là thu nhập thấp.
Nhưng nó không phải là một thước đo hoàn hảo về phúc lợi. Ví dụ, GDP không bao gồm giá trị của sự
nghỉ ngơi và giá trị của môi trường trong lành. June 1, 2021 13 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
CHƯƠNG 11 ĐO LƯỜNG CHI PHÍ SINH HOẠT.
Vào năm 1931, khi nền kinh tế Hoa Kỳ đang phải chịu đựng cuộc Đại Khủng hoảng; đội New
York Yankees đã trả cho cầu thủ bóng chày nổi tiếng Babe ph khoản lương 80.000 USD. Vào thời đó,
khoản lương này là cao bất thường ngay cả là trả cho những ngôi sao bóng chày. Theo một câu chuyện
được kể lại, một phóng viên đã hỏi Ruth liệu anh ấy có cho là hợp lý khi mà mình kiếm được nhiều tiền
hơn Tổng thống Herbert Hoover với tiền lương chỉ có 75.000 USD. Ruth đã trả lời rằng: “Tôi đã có một năm làm việc tốt hơn?
Năm 2010, mức lương trung bình mà một cầu thủ đội New York Yankees kiếm được là 5,5 triệu
USD, và cầu thủ ghi được nhiều điểm nhất là Alex Rodriguez thì được trả đến 33 triệu USD. Mới đầu,
thực tế này có thể khiến bạn nghĩ rằng bóng chày đã trở nên sinh lợi hơn rất nhiều so với cách đây 8
thập niên. Nhưng như mọi người đều biết, giá cả hàng hóa và dịch vụ cũng đã tăng lên. Năm 1931, một
đồng 5 xu mua được một que kem, và 25 xu mua được một vé xem phim ở rạp địa phương. Bởi vì giá cả
vào thời của Babe Ruth thì thấp hơn rất nhiều so với ngày nay, cho nên chúng ta không biết được là
Ruth đã thụ hưởng mức sống cao hơn hay thấp hơn so với các cầu thủ ngày nay.
Trong chương trước, chúng ta đã tìm hiểu cách thức các nhà kinh tế sử dụng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) để đo lường số lượng hàng hoá và dịch vụ mà nền kinh tế đang sản xuất. Chương này
xem xét cách thức các nhà kinh tế đo lường chi phí tổng thể của cuộc sống. Để so sánh mức lương
80.000 USD của Babe Ruth với những mức lương hiện tại, chúng ta cần phải tìm một số cách để biển số
tiền thành các thước đo sức mua có ý nghĩa. Đó chính là công việc của thống kê và được gọi là chỉ số
giá tiêu dùng. Sau khi đã biết được cách thức xây dựng chỉ số giá tiêu dùng, chúng ta thảo luận về cách
thức sử dụng chỉ số giá này để so sánh số tiền ở những thời điểm khác nhau.
Chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng để đánh giá những thay đổi của chi phí sinh hoạt qua thời
gian. Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng lên, một gia đình điển hình phải chi nhiều tiền hơn để duy trì mức sống
như trước. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngủ lạm phát de mô tả một tình huống trong đó mức giá chung
của nền kinh te đang gia tăng. Tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi của mức giá so với kỳ trước. Chương
trước đã cho thấy cách thức mà các nhà kinh tế có thể đo lường lạm phát bằng việc sử dụng chỉ số giảm
phát GDP. Tuy nhiên tỉ lệ lạm phát mà bạn nghe thấy trong những bản tin mỗi tối thì không được tính
toán từ dữ liệu thống kê này. Bởi vì chỉ số giá tiêu dùng phản ánh tốt hơn những hàng hóa và dịch vụ mà
người tiêu dùng mua, cho nên nó là thước đo phổ biến hơn về lạm phát.
Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo, lạm phát là của thành tựu kinh tế vĩ mô mà
được theo dõi sát sao và là một hướng dẫn chính sách kinh tế vĩ mô. Chương này cung cấp nền tảng
cho sự phân tích đó bằng việc cho thấy cách thức mà các nhà kinh tế đo lường tỷ lệ lạm phát bằng cách
sử dụng chỉ số giá tiêu dùng và cách thức sử dụng con số thống kê này để so sánh số tiền ở những thời điểm khác nhau.
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)' là một thước đo chi phí tổng quát của các hàng và dịch vụ được mua bởi một
người tiêu dùng điển hình. Hàng tháng. Con kê Lao động (BLS), cơ quan trực thuộc Bộ Lao động, tính
toán và báo cáo chi giá tiêu dùng. Trong phần này, chúng ta thảo luận về cách thức tính toán chỉ số giá
tiêu dùng và những vấn đề phát sinh trong quá trình đo lường. Chúng ta cũng soi sánh chỉ số này với chỉ
số giảm phát GDP, một thước đo khác về mức giá chung, mà chúng ta đã tìm hiểu trong chương trước.
Chỉ số giá tiêu dùng được tính toán như thế nào
Khi BLS tính toán chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát, cơ quan này sử dụng số liệu về giá cả
của hàng ngàn hàng hóa và dịch vụ. Để biết chính xác cách xây dựng những số liệu thống kê này, chúng
ta hãy xem xét một nền kinh tế đơn giản trong đó người tiêu dùng chỉ mua hai hàng hóa: xúc xích và
bánh mì kẹp thịt. Bảng 1 cho thấy năm bước mà BLS tiến hành: June 1, 2021 14 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
1. Cố định giỏ hàng hóa. Xác định giá cả của hàng hóa nào là quan trọng nhất đối với người tiêu dùng
điển hình. Nếu người tiêu dùng điển hình mua nhiều xúc xích hơn bánh mì kẹp thịt, thì khi đó giá xúc xích
quan 98 hơn giá bánh mì kẹp thịt và vì thế, giá xúc xích nên có trong số 10 trong việc đo lường chi phí
sinh hoạt. BLS xác định các trong số này bằng cách khảo sát người tiêu dùng để tìm ra giỏ hàng hóa và
dịch vụ du bởi người tiêu dùng điển hình. Với ví dụ trong bảng, người tiêu dùng điển hình mua một giỏ
hàng gồm có 4 cây xúc xích và 2 chiếc bánh mì kẹp thịt
2. Xác định giá cả. Xác định giá cả của từng hàng hoá và dịch vụ trong giỏ hàng tại từng thời điểm. Bảng
này cho thấy giá của xúc xích và bánh mì kẹp thịt trong ba năm khác nhau.
1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): thước đo chi phí tổng quát của các hàng hóa được mua bởi một
người tiêu dùng điển hình.
3. Tính toán chi phí của giỏ hàng. Sử dụng số liệu về giá cả để tính toán chi phí của giỏ hàng hóa và dịch
vụ tại các thời điểm khác nhau. Bảng trên cho thấy cách tính toán này cho từng năm. Lưu ý rằng chỉ có
giá cả trong phép tính toán này là thay đổi. Bằng cách giữ nguyên giỏ hàng (4 cây xúc xích và 2 chiếc
bánh mì kẹp thịt), chúng ta tách ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả ra khỏi ảnh hưởng của bất kỳ sự thay
đổi số lượng nào mà có thể xảy ra cùng lúc.
4. Chọn năm gốc và tính toán chỉ số. Chỉ định một năm làm năm gốc hay năm cơ sở, mốc để dựa vào đó
để so sánh với các năm khác. (Việc lựa chọn năm gốc là tùy ý, bởi vì chỉ số này được sử dụng để đo
lường những thay đổi của chi phí sinh hoạt). Khi năm cơ sở đã được chọn, chỉ số này được tính như sau:
Chỉ số giá tiêu dùng = (Giá của giỏ hàng hóa và dịch vụ trong năm hiện tại/ Giá của giỏ hàng hóa và dịch vụ tại năm gốc)x100
Tức là, giá của giỏ hàng hóa và dịch vụ trong mỗi năm được chia cho giá của giỏ hàng trong năm gốc, và
sau đó tỷ lệ này được nhân với 100. Con số kết quả chính là chỉ số giá tiêu dùng.
Trong ví dụ ở bảng trên, năm 2010 là năm gốc. Trong năm này, giỏ xúc Xich và bánh mì kẹp thịt
có giá 8 USD. Do đó, giá của giỏ hàng trong tất cả các nam được chia cho 8 USD và nhân với 100. Chỉ
số giá tiêu dùng là 100 Long năm 2010. (Chỉ số luôn là 100 ở năm gốc). Chỉ số giá tiêu dùng là 1/5 Vào
năm 2011. Điều này có nghĩa rằng giá của giỏ hàng vào năm 2011 bằng 175% giá của cửa hàng đó
trong năm gốc. Nói cách khác, một giỏ hàng hóa có giá 100 USD ở năm gốc thì sẽ có giá 175 USD vào
năm 2011. Tương tự, chỉ số giá tiêu dùng là 250 vào năm 2012, cho biết rằng mức giá trong năm 2012
bằng 250% mức giá của năm gốc.
5. Tính toán tỷ lệ lạm phát. Sử dụng chỉ số giá tiêu dùng để tính toán tỷ lệ lạm phát, đó là phần trăm thay
đổi của chỉ số giá so với kỳ trước. Tức là lạm phát giữa hai năm liên tiếp được tính như sau:
Tỷ lệ lạm phát trong năm 2 =(CPI của năm 2 - CPI của năm 1)/( CPI của năm 1)x100
Như được thể hiện ở cuối Bảng 1, tỷ lệ lạm phát trong ví dụ của chúng ta là 75% vào năm 2011 và 43% vào năm 2012.
Mặc dù ví dụ này đơn giản hóa thế giới thực bằng cách chỉ tính đến 2 tháng hàng hóa, nhưng nó cho
thấy cách thức mà BLS tính toán chỉ số tiêu dùng và tỷ số giá lạm phát. BLS thu thập và xử lý số liệu về
giá cả của hàng hóa và dịch vụ hàng tháng và bằng cách đi theo năm bước nói trên, xác định chi phí sinh
hoạt của người tiêu dùng điển hình đang tăng lên nhanh như thế nào. Khi BLS công bố chỉ số giá tiêu
dùng hàng tháng, bạn thường có thể nghe về con số này trênn bản tin truyền hình buổi tối hoặc thấy nó
trên các tờ báo ngày hôm sau. June 1, 2021 15 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
Bên cạnh chỉ số giá tiêu dùng cho tổng thể nền kinh tế số chỉ số giá khác. BLS còn tính toán một
số chỉ số giá khác. Cơ quan quan này báo cáo chỉ số cho các khu vực cụ thể trong nước (ví dụ như
Boston, New York và Los Angeles) và cho một số loại hàng hóa và dịch vụ cụ thể (như thực phẩm sản
xuất (PPI), dùng để đo lường chi phí của một giỏ hàng hóa và dịch vụ được dùng mua bởi các doanh
nghiệp chứ không phải người tiêu dùng. Vì các doanh nghiệp rốt cuộc sẽ chuyển các chi phí cho người
tiêu dùng dưới dạng giá tiêu dùng cao hơn, cho nên những thay đổi của chỉ số giá sản xuất thường được
xem là hữu ích trong việc dự đoán sự thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng.
Các vấn đề trong đo lường chi phí sinh hoạt
Mục đích của chỉ số giá tiêu dùng là đo lường những thay đổi trong chi phí sinh. Nói cách khác, chỉ số giá
tiêu dùng cố gắng xác định mức thu nhập cần phải tăng lên bao nhiêu để duy trì cùng một mức sống. Tuy
nhiên, chỉ số giá tiêu dùng không phải là một thước đo hoàn hảo về chi phí sinh hoạt. Ba vấn đề nảy sinh
với chỉ số này được thừa nhận rộng rãi nhưng lại khó giải quyết.
Vấn đề đầu tiên được gọi là thiên vị thay thế. Khi giá cả thay đổi từ năm này sang năm khác,
chúng không thay đổi theo cùng tỷ lệ với nhau: giá của một số mặt hàng này tăng giá nhiều hơn những
mặt hàng khác. Người tiêu dùng phản ứng với những thay đổi giá cả khác nhau bằng cách mua ít đi
hàng hóa có giá tăng một lượng tương đối lớn và mua nhiều hàng hóa có giá tăng ít hoặc thậm chí có
thể đã giảm. Có nghĩa là người tiêu dùng thay thế bằng các loại hàng hóa đã trở nên tương đối ít tốn
kém hơn. Nếu một chỉ số giá được tính toán dựa trên giả định một giỏ hàng hoá cố định, thì cách này bỏ
qua khả năng thay thế của người tiêu dùng, và do đó nó phóng đại sự gia tăng chi phí sinh hoạt qua các năm.
Chúng ta xem xét một ví dụ đơn giản. Hãy hình dung rằng trong năm gốc, táo rẻ hơn lê, nên
người tiêu dùng mua táo nhiều hơn lê. Khi BLS xây dựng giỏ hàng hóa, họ sẽ tính đến táo nhiều hơn lệ.
Giả sử rằng trong năm tiếp theo thì lê rẻ hơn táo. Người tiêu dùng tự nhiên sẽ phản ứng với những thay
đổi giá cả bằng cách mua nhiều lê và ít táo hơn. Tuy nhiên, khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng, BLS sử
dụng giỏ hàng cố định mà về bản chất là giả định rằng người tiêu dùng tiếp tục mua những quả táo đắt
đỏ bây giờ với số lượng giống như trước. Vì lý do này, chỉ SỐ sẽ đo lường sự gia tăng lớn hơn nhiều
trong chi phí sinh hoạt so với sự gia tăng mà người tiêu dùng thực tế trải qua.
Vấn đề thứ hai với chỉ số giá tiêu dùng là sự giới thiệu hàng hoá mới. Khi một hàng hóa mới được giới
thiệu, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, và điều này đến lượt lại làm giảm chi phí để duy trì mức
phúc lợi kinh tế như trước. Để này đến lượt lại làm giảm chi phí để duy trì mức phúc lợi kinh tế như trước. Để
1. Chỉ số giá sản xuất: thước đo chi phí của giỏ hàng hóa và dịch vụ được mua bởi các doanh nghiệp.
hiểu lý do tại sao, hãy xem xét một tình huống giả thuyết: Giả sử bạn có thể lựa chọn giữa một phiếu quà
tặng trị giá 100 USD ở một loại cửa hàng cung cấp nhiều loại hàng hóa và một phiếu quà tặng trị giá 100
USD ở một cửa hàng hóa nhỏ bán cùng mức giá nhưng lại có ít loại hàng hóa hơn. Bạn thích mua ở cửa hàng nào hơn?
Hầu hết mọi người sẽ chọn cửa hàng có hàng hóa đa dạng hơn. Về bản chất, sự gia tăng trong tập hợp
các lựa chọn làm cho mỗi đô la có giá trị hơn. Điều này cũng đúng đối với sự phát triển của nền kinh tế
theo thời gian: Khi các hàng hóa mới được giới thiệu, người tiêu dùng có thêm lựa chọn, và mỗi đô la có
giá trị hơn. Tuy nhiên, do chỉ số giá tiêu dùng dựa trên một giỏ hàng và dịch vụ cố định, cho nên nó
không phản ánh sự gia tăng trong giá trị của mỗi đô la mà phát sinh từ sự giới thiệu các hàng hóa mới.
Một lần nữa, chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Khi đầu thu video-casstte (VCR) xuất hiện vào cuối
những năm 1970, người tiêu dùng đã có thể xem những bộ phim yêu thích của họ tại nhà. Mặc dù không
phải là một sự thay thế hoàn hảo cho một phim được công chiếu trên màn ảnh rộng, nhưng một bộ phim June 1, 2021 16 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
cũ trong căn phòng thoải mái của gia đình lại là một lựa chọn mới làm tăng tập hợp cơ hội của người
tiêu dùng. Đối với bất kỳ một số tiền nào cho trước sự ra đời của VCR làm cho cuộc sống con người tốt
hơn; ngược lại, việc đạt được mức phúc lợi kinh tế giống như trước đòi hỏi một số tiền nhỏ hơn. Một chỉ
số chi phí sinh hoạt hoàn hảo sẽ phản ánh sự ra đời của VCR cùng với sự giảm xuống của chi phí hoạt.
Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng đã không giảm để phản ứng lại với sự giới thiệu VCR. Cuối cùng thì BLS
đã sửa lại giỏ hàng hóa để bao gồm VCR, và sau đó chỉ số này đã phản ánh những thay đổi của giá cả
VCR. Nhưng sự giảm xuống cho chi phí sinh hoạt gắn liền với sự xuất hiện ban đầu của VCR thì đã
không bao giờ được thể hiện trong chỉ số này.
Vấn đề thứ ba với chỉ số giá tiêu dùng là sự thay đổi về mặt chất lượng mà không đo lường
được. Nếu chất lượng của một hàng hóa giảm xuống từ năm này sang năm kế tiếp trong khi giá của nó
vẫn giữ nguyên, thì giá trị của một đô la giảm xuống, bởi vì bạn đang nhận được một hàng hóa kém chất
lượng hơn từ cùng một số tiền. Tương tự, nếu chất lượng tăng từ năm này sang năm kế tiếp, thì giá trị
của một đô la tăng lên. BLS cố gắng hết sức để tính đến sự thay đổi chất lượng. Khi chất lượng của một
hàng hóa trong giỏ hàng thay đổi, ví dụ, khi một mẫu xe hơi có mã lực cao hơn hoặc tiết kiệm nhiên liệu
hơn từ năm này sang năm kế tiếp, thi Cục điều chỉnh giá của hàng hóa để tính đến sự thay đổi chất
lượng. Và bạn có họ đang cố gắng tính toán giá của một giỏ hàng hóa có chất lượng không do P kể
những nỗ lực này, sự thay đổi chất lượng vẫn là một vấn đề bởi vì rất khó để đo lường chất lượng.
Vấn đề còn nhiều tranh luận giữa các nhà kinh tế về mức độ nghiêm trọng của các vấn đề đo lường và
cách thức khắc phục các vấn đề đó. Một số nghiên cứu được viết trong những năm 1990 đã kết luận
rằng chỉ số giá tiêu phóng đại lạm phát khoảng 1 điểm % mỗi năm. Đáp lại sự chỉ trích này, BLS đã thực
hiện một số thay đổi có tính kỹ thuật để cải thiện tính chính xác của chỉ số CPI, và nhiều nhà kinh tế tin
rằng sự chênh lệch hiện nay chỉ còn khoảng một nửa so với trước đây. Vấn đề này là quan trọng bởi vì
nhiều chương trình của chính phủ sử dụng chỉ số giá tiêu dùng để điều chỉnh những thay đổi của mức
giá chung. Ví dụ, người nhận bảo hiểm an sinh xã hội được hưởng sự gia tăng hàng năm về lợi ích nếu
như lợi ích này gắn liền với chỉ số giá tiêu dùng. Một số nhà kinh tế đã đề nghị sửa chữa các vấn đề đo
lường bằng cách giảm bớt mức độ gia tăng lợi ích tự động.
Chỉ số giảm phát GDP so với chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Trong chương trước, chúng ta đã tìm hiểu một thước đo khác về mức giá chung của nền kinh - chỉ số
giảm phát GDP. Chỉ số giảm phát GDP là tỷ lệ của GDP danh nghĩa trên GDP thực. Bởi vì GDP danh
nghĩa là sản lượng hiện hành được tính theo giá hiện hành và GDP thực là sản lượng hiện hành được
tính theo giá của năm gốc, cho nên chỉ số giảm phát GDP phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá năm gốc.
Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách theo dõi cả chỉ số giảm phát GDP và chỉ số giá tiêu
dùng để đánh giá xem giá cả đang tăng nhanh như thế nào. Thông thường, hai chỉ số thống kê này kể
cùng một câu chuyện. Tuy nhiên, có hai khác biệt quan trọng khiến cho chúng khác nhau.
Sự khác biệt đầu tiên là chỉ số giảm phát GDP phản ánh giá của tất cả các hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất trong nước, trong khi chỉ số giá tiêu dùng phản ánh giá của tất cả các hàng hóa và dịch vụ
được người tiêu dùng mua. Ví dụ, giả sử rằng giá của một chiếc máy bay do Boeing sản xuất và bán cho
Lực lượng Không quân tăng lên. Mặc dù chiếc máy bay này là một phần của GDP, nhưng nó không phải
là một phần trong giỏ hàng hóa và dịch vụ được mua bởi một người tiêu dùng điển hình. Vì vậy, sự tăng
giá này chỉ xuất hiện trong chỉ số giảm phát GDP nhưng không xuất hiện trong chỉ số giá tiêu dùng.
Một ví dụ khác, giả sử rằng Volvo tăng giá xe ô tô của họ. Vì Volvo được sản xuất tại Thụy Điển,
cho nên chiếc xe này không phải là một phần của GDP Hoa Kỳ. Nhưng người tiêu dùng Hoa Kỳ mua
Volvo, vì vậy chiếc xe này là một phần trong giỏ hàng của người tiêu dùng điển hình. Do đó, sự tăng giá
của một hàng hóa tiêu dùng được nhập khẩu, chẳng hạn như một chiếc Volvo, xuất hiện trong chỉ số giá
tiêu dùng nhưng không xuất hiện trong chỉ số giảm phát GDP. June 1, 2021 17 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
Sự khác biệt đầu tiên giữa chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giảm phát GDP là đặc biệt quan trọng
khi giá dầu thay đổi. Mặc dù Hoa Kỳ cũng sản xuất dầu, nhưng Phần lớn lượng dầu mà chúng ta sử
dụng thì được nhập khẩu. Kết quả là, dầu và các sản phẩm từ dầu như xăng và dầu sưởi ấm chiếm một
phần lớn hơn nhiều trong chi tiêu của người tiêu dùng so với phần trong GDP. Khi giá dầu tăng chi Số
giá tiêu dùng tăng nhiều hơn so với chỉ số giảm phát GDP.
Sự khác biệt thứ hai khó phát hiện hơn giữa chỉ số giảm phát GDP và chỉ số giá quan tâm đến
việc lấy trọng số cho các giá cả khác nhau để tính ra một mức giá chung duy nhất. Chỉ số giá tiêu dùng
so sánh giá của một giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định với giá của giỏ hàng đó trong năm gốc. Chỉ thỉnh
thoảng thi Cục Thống kê Lao động mới thay đổi giỏ hàng hóa. Trái lại, chỉ số giảm phát GDP so sánh giá
của các hàng hóa và dịch vụ hiện đang được sản xuất với giá của cùng các hàng hoá và dịch vụ đó trong
năm gốc. Vì thế, nhóm hàng hóa và dịch vụ được sử dụng để tính toán chỉ số giảm phát GDP tự động
thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này thì không quan trọng khi tất cả các giá cả đang thay đổi tương
ứng Nhưng nếu giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác nhau thay đổi theo những mức khác nhau, thì
cách mà chúng ta gán trọng số cho các giá cả khác nhau đã tác động đến tỷ lệ lạm phát tổng thể.
Hình 2 cho thấy tỷ lệ lạm phát được đo lường bằng cả chỉ số giảm phát GDP và chỉ số giá tiêu
dùng cho từng năm kể từ năm 1965. Bạn có thể thấy rằng đôi khi hai thước đo này khác nhau. Khi chúng
khác nhau, lý do đằng sau có thể giải thích sự khác nhau giữa hai con số này chính là hai sự khác biệt
mà chúng ta đã thảo luận. Ví dụ, vào năm 1979 và năm 1980, lạm phát tính theo CPI tăng vọt hơn lạm
phát tính theo chỉ số giảm phát GDP chủ yếu là do giá dầu tăng hơn gấp đôi trong hai năm này. Tuy
nhiên, sự khác nhau giữa hai thước đo này là ngoại lệ hơn là quy tắc. Trong những năm 1970, cả chỉ số
giảm phát GDP và chỉ số giá tiêu dùng đều cho thấy tỷ lệ lạm phát cao. Vào cuối những năm 1980, 1990
và thập niên đầu của những năm 2000, cả hai thước đo đều cho thấy tỷ lệ lạm phát thấp.
ĐIỀU CHỈNH CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ DO ẢNH HƯỞNG CỦA LAM PHI HAT
Mục đích của việc đo lường mức giá chung trong nền kinh tế là cho phép chúng ta so sánh số tiền tại
những thời điểm khác nhau. Bây giờ chúng ta đã biết cách toán chỉ số giá, hãy xem làm thế nào chúng ta
có thể sử dụng một chỉ số như vậy để so sánh số tiền trong quá khứ với số tiền trong hiện tại.
Chuyển đổi số đô la từ những thời điểm khác nhau
Trước hết chúng ta quay trở lại vấn đề tiền lương của Babe Ruth. Mức lương của anh ta là 90 000 USD
vào năm 1931 thì cao hay thấp so với mức lương của các cầu thủ hiện nay?
Để trả lời các câu hỏi này, chúng ta cần phải biết mức giá vào năm 1931 và mức giá hiện nay . Một phần
của sự gia tăng tiền lương là bù đắp cho các cầu thủ bóng chày vì giá cả ngày hôm nay thì cao hơn. Để
so sánh mức lương của Ruth với mức lương của các cầu thủ hiện nay, chúng ta cần phải chuyển đổi
mức lương của Ruth tính theo đô la của năm 1931 thành đô la của ngày hôm nay.
Công thức chuyển đổi số đô la trong năm T thành số đô la của ngày hôm nay là:
Số đô la ngày hôm nay = (Mức giá ngày hôm nay/ Mức giá trong năm T)x Số đô la trong năm T
Một chỉ số giá như chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá và vì thế xác định mức độ điều chỉnh lạm phát.
Chúng ta hãy áp dụng công thức này cho mức lương của Ruth. Số liệu thống kê của chính phủ
cho thấy chỉ số giá tiêu dùng là 15,2 vào năm 1931 và 214,5 vào năm 2009. Do đó, mức giá chung đã June 1, 2021 18 KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
tăng lên 14,1 lần (bằng 214,5/15,2). Chúng ta có thể sử dụng những con số này để tính mức lương của
Ruth theo số đô la của năm 2009 như sau:
Mức lương theo số đôla năm 2009 = Mức lương theo số đôla năm 1931 x (Mức giá năm 2009 /Mức giá
năm 1931) = 80.000USDx 414,2 =1.128.947USD = 80.000USDX 15,2
Chúng ta thấy rằng mức lương của Babe Ruth vào năm 1931 là tương đương với mức lương
hơn 1 triệu USD hiện nay. Đó là một mức thu nhập tốt, nhưng nó ít hơn một phần tư mức lương trung
bình của Yankee ngày hôm nay và chỉ bằng 3% mức lương mà Yankees trả cho A-Rod. Nhiều yếu tố
khác nhau, bao gồm tăng trưởng kinh tế và thu nhập cổ phiếu tăng lên mà các siêu sao kiếm được, đã
làm tăng đáng kể mức sống của những vận động viên nổi tiếng nhất.
Chúng ta cũng hãy xem xét mức lương 75.000 USD của Tổng thống Hoover vào năm 1931. Để
chuyển con số này thành số đô la của năm 2009, chúng ta lại nhân với tỷ lệ mức giá trong hai năm.
Chúng ta thấy rằng mức lương của Hoover là tương đương với 75.000 USD X (214,5/15,2), bằng
1.058.388 USD vào năm 2009. Mức lương này thì cao hơn hẳn mức lương 400.000 USD của Tổng
thống Darack Obama. Xem ra Tổng thống Hoover rốt cuộc đã có một năm khá tốt. Chỉ số hóa
Như chúng ta vừa thấy, các chỉ số giá được sử dụng để điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát khi so sánh
các con số đô la từ những thời điểm khác nhau. Loại điều chỉnh này xuất hiện ở nhiều nơi trong nền kinh
tế. Khi một số tiền được tự động điều chỉnh theo luật pháp hay theo hợp đồng trước những thay đổi trong
mức giá, thì số tiền đó đã được chỉ số hóa' theo lạm phát.
Ví dụ, nhiều hợp đồng dài hạn giữa các công ty và công đoàn bao gồm cả việc chỉ số hoá một
phần hoặc toàn bộ tiền lương theo chỉ số giá tiêu dùng. Một điều khoản như vậy được gọi là trợ cấp chi
phí sinh hoạt, hay COLA (cost of living al owance). Một COLA tự động tăng lương khi chỉ số giá tiêu dùng tăng lên.
Chỉ số hoá cũng là một đặc điểm của nhiều luật. Ví dụ, các lợi ích an sinh xã hội được điều chỉnh
hàng năm để bù đắp cho người cao tuổi khi giá cả tăng lên. Khung thuế thu nhập liên bang ở mức thu
nhập mà tại đó thuế suất thay đổi - cũng được chỉ số hóa theo lạm phát. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp
mà hệ thống thuế không được chỉ số hóa theo lạm phát, ngay cả khi đó là việc nên làm. Chúng ta sẽ thảo
luận vấn đề này đầy đủ hơn khi bàn về chi phí của lạm phát trong phần sau của cuốn sách này.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực
Việc điều chỉnh các biến số kinh tế trước tác động của lạm phát là đặc biệt quan trọng, và có phần nào
đó rắc rối, khi chúng ta xem xét số liệu về lãi suất. Khái niệm về mỗi mức lãi suất nhất thiết phải bao gồm
cả việc so sánh số tiền tại những thời điểm khác nhau. Khi bạn gửi tiền tiết kiệm vào một tài khoản ngân
hàng, bạn đưa tiền cho ngân hàng lúc này, và ngân hàng sẽ trả lại cả gốc và lãi cho bạn trong tương lai.
Tương tự, khi bạn vay tiền từ ngân hàng, bạn nhận tiền lúc này, nhưng bạn sẽ phải trả khoản vay cùng
với tiền lãi trong tương lal.
1. Chỉ số hóa: Sự điều chỉnh tự động theo luật pháp hay hợp đồng cho một số tiền trước tác động của lạm phát.
Trong cả hai trường hợp, để hiểu đầy đủ giao dịch giữa bạn và ngân hàng, điều cốt yếu là bạn phải hiểu
được giá trị đồng tiền trong tương lai khác với giá trị đồng tiền trong hiện tại. Điều đó có nghĩa là bạn
phải điều chỉnh tác động của lạm phát. June 1, 2021 19