Siêu lạm phát ở vn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Siêu lạm phát ở vn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã

CÁC GIAI ĐOẠN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Nghiên cứu cho biết, trong 27 năm từ 1996-2012, Việt Nam có 13 năm và 4 giai đoạn lạm phát
trên 2 con số, trong đó đáng kể nhất là từ 1986-1992 với mức lạm phát bình quân ba chứ số
225%/năm; 2007-2008 với 16,3% năm và 2010-1011 với 15%/năm.
Trong giai 2008-2012 tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là gần 5,9% năm, và lạm phát là
12,6%; còn Trung Quốc tương ứng là 9,3%/năm và 3,3%/năm.
Trong 20 năm (1991-2010), Việt Nam tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,4%, lạm
phát gần 11%; thì Trung Quốc tương ứng là 10,5% và 4,8%.
SIÊU LẠM PHÁT
Định nghĩa: Siêu lạm phát là tình trạng cao, có tác động phá hoại nền kinh tế nghiêm lạm phát
trọng. Thông thường, tốc độ tăng giá chung ở mức 3 chữ số hàng thì gọi là siêu lạm phát. Khi năm
có siêu lạm phát, mất giá nghiêm trọng, và về tiền tệ giảm đi đáng kể.tiền lượng cầu
Nguyên nhân chủ yếu: siêu lạm phát đã được gây ra bởi thâm hụt ngân sách chính phủ, nên
buộc chính phủ phải in thêm rất nhiều tiền. Sau khi phân tích 29 siêu lạm phát (theo định nghĩa của
Cagan) thì Bernholz đã kết luận rằng ít nhất 25 trong số đó đã xảy ra theo cách này. Bên cạnh đó,
một điều kiện cần thiết cho siêu lạm phát là sự tồn tại của các loại tiền tệ không chuyển đổi cố định
vào . Giả thuyết này được đề xuất bởi có một thực tế là có một số trường hợp ngoại lệ vàng bạc
về siêu lạm phát, chẳng hạn như siêu lạm phát của Pháp những năm 1789-1796, sau khi tiền
"assignat", một loại tiền giấy không chuyển đổi, được giới thiệu.
Hậu quả: Siêu lạm phát làm giảm sức mua của các tổ chức tiết kiệm tư nhân và công cộng; bóp
méo nền kinh tế thiên về việc tích trữ tài sản thực tế; làm cơ sở tiền tệ tháo chạy khỏi đất nước, cho
dù nội tệ hay ngoại tệ có mạnh đến đâu.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của siêu lạm phát là sự gia tăng thay thế tiền lạm phát
bằng cách ổn định làm ổn định tiền vàng và bạc trong thời gian trước đây, sau đó làm ổn định ngoại
tệ một cách tương đối (sau sự sụp đổ của tiêu chuẩn vàng bạc, theo ). Nếu lạm định luật Gresham
phát đủ cao, các quy định của chính phủ như hình phạt nặng, tiền phạt, thường kết hợp với kiểm
soát ngoại hối sẽ không thể ngăn chặn việc thay thế tiền lạm phát. Kết quả là, đồng tiền lạm phát sẽ
bị định giá thấp hơn so với tiền nước ngoài ổn định, trong điều kiện sức mua tương đương. Vì vậy,
người nước ngoài có thể sống và mua sản phẩm ở mức giá rẻ ở các nước bị lạm phát cao. Nó có
thể dẫn đến việc chính phủ của các nước - vốn thất bại trong việc cải cách tiền tệ trong một thời
gian - phải hợp pháp hóa các ngoại tệ mạnh (trước đây là vàng và bạc), và chúng có thể thay thế
hoàn toàn tiền lạm phát. Nếu không hợp pháp hóa ngoại tệ mạnh, thì doanh thu thuế của chính phủ,
bao gồm thuế lạm phát, sẽ tiếp cận xuống đến mức 0. Quá trình này có thể thấy được
[4]
vào . Khi đó, đồng của nước này, do bị mất giá nghiêm trọng, Zimbabwe cuối thập niên 2000 đôla
nên đã được thay thế bằng đồng và rand Nam Phi.đôla Mỹ
Hậu quả đối với tiền tệ: Tại các nước từng trải qua siêu lạm phát, các ngân hàng trung
ương thường in tiền có mệnh giá lớn hơn và lớn hơn thế nữa, khiến các tờ tiền mệnh giá nhỏ trở
nên vô giá trị. Điều này sẽ dẫn đến sự xuất hiện của các tờ tiền có mệnh giá 1 tỷ đơn vị tiền tệ hoặc
hơn.
Cuối năm 1923, Cộng hòa Weimar của đã phát hành 2 nghìn tỷ tiền giấy và tem bưu Đức
chính có mệnh giá 50 tỷ . Tờ tiền có giá trị cao nhất do ngân hàng Reichbank của chính phủmác
Weimar có mệnh giá 100 nghìn tỷ mác (10 , 100.000.000.000.000 hay 100 triệu triệu). Ở đỉnh
14
[5][6]
điểm của lạm phát, 1 đôla Mỹ đổi được tới 4 nghìn tỷ mác. Một công ty in ấn đã gửi hóa đơn trị
giá (và phải trả) 32.776.899.763.734.490.417,05 mác (3.28 × 1019, làm tròn thành 33 tỷ tỷ) cho
Reichbank.
[7]
Tờ tiền có mệnh giá cao nhất từng được lưu hành là vào năm 1946. Khi đó, Ngân hàng
Quốc gia đã lưu hành tờ tiền mệnh giá 100 tỷ tỷ pengo (10 ,
Hungary
20
100.000.000.000.000.000.000, 100 triệu triệu triệu) (xem ). (Thậm chí, còn có một tờ hình ảnh
tiền trị giá cao hơn 10 lần, tức là 10 , 1 nghìn tỷ tỷ pengo, đã được in nhưng không được phát
21
hành. Xem .) Các giấy bạc đã không cho thấy những con số đầy đủ: "trăm triệu b.- hình ảnh
pengo" (trăm triệu nghìn tỷ pengo) và "một ngàn triệu b.- pengo" đã được phát âm vì những con
số quá dài. Như vậy, tờ giấy bạc 100.000.000.000.000 đôla đã trở thành tờ giấy mà Zimbabwe
có mệnh giá hiển thị nhiều số 0 nhất trên thế giới.
Sau , tỉ lệ lạm phát hàng tháng ở Hungary chạm mức cao nhất trong lịch sử thế Thế chiến II
giới - 41.900.000.000.000.000% (4.19 × 10 % hoặc 41,9 triệu tỷ %) vào tháng 7 năm 1946. Với
16
tỉ lệ này, giá cả ở Hungary sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 15,3 giờ. Nếu so sánh, tỉ lệ lạm phát hàng
năm ở Zimbabwe là 89.7 nghìn tỷ tỷ % (số liệu tính đến ngày 14 tháng 11 năm 2008) , tức là giá
[8]
cả sẽ nhân đôi sau mỗi 24,7 giờ. Khi viết ra giấy, con số này là
89.700.000.000.000.000.000.000%.
Một cách để giúp người dân khỏi bị ám ảnh bởi những con số 0 là tuyên bố một đơn vị tiền tệ mới.
(Ví dụ, thay vì in tờ tiền 10 tỷ đôla, một ngân hàng trung ương sẽ cho đổi tiền theo tỉ lệ 1 tỉ đôla cũ
đổi 1 đôla mới. Như vậy, các tờ tiền mới sẽ được ghi là 10 đôla mới.) Một ví dụ thực tế là ở Thổ Nhĩ
Kỳ, khi nước này cho đổi tiền lira của mình theo tỉ lệ 1.000.000 lira cũ (TRL) đổi 1 lira mới (TRY) từ
ngày 1 tháng 1 năm 2005. Trong khi điều này không làm giảm giá trị thực tế của tiền tệ, nó còn
được định nghĩa là "định giá lại đồng tiền" và cũng thỉnh thoảng xảy ra ở các nước có lạm phát thấp
hơn. Khi xảy ra siêu lạm phát, lạm phát tiền tệ quá nhanh làm chứa đựng những con số quá lớn trên
các hóa đơn trước khi tiền tệ được định giá lại.
Một số tờ tiền được đóng dấu để chỉ ra những thay đổi liên quan đến mệnh giá, vì nó thường mất
rất nhiều thời gian để in những tờ tiền mới. Bởi vì, trong thời gian các tờ tiền mới được in, các tờ
tiền cũ sẽ trở nên lỗi thời.
Đồng tiền kim loại thường là nạn nhân của siêu lạm phát, do kinh phí để đúc tiền vượt quá giá trị lưu
thông của nó. Một số lượng lớn tiền đúc đã bị nấu chảy, thường là bất hợp pháp, sau đó đi xuất
khẩu cho các ngoại tệ mạnh.
Các chính phủ thường sẽ cố gắng che đậy tỉ lệ thực sự của lạm phát thông qua một loạt các kĩ thuật
khác nhau. Không có hành động nào trong số đó là nhằm giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của
lạm phát; và nếu bị phát hiện, nó sẽ có xu hướng làm suy yếu niềm tin của người dân vào đồng tiền,
dẫn đến tăng lạm phát. Kiểm soát giá cả nói chung sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hàng hóa và nhu cầu
rất cao đối với các mặt hàng bị kiểm soát, gây ra sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng. Sản phẩm
phục vụ cho người tiêu dùng có thể bị giảm hoặc biến mất khi các doanh nghiệp không còn thấy nó
đạt hiệu quả kinh tế để tiếp tục sản xuất và (hoặc) phân phối hàng hóa đó theo giá hợp pháp, làm
trầm trọng thêm tình trạng thiếu cung.
Ngoài ra còn có vấn đề với hệ thống tiền xử lý bằng máy tính. Tại Zimbabwe, trong siêu lạm phát
của đồng đô la nước này, nhiều máy rút tiền tự động và máy thanh toán thẻ phải vật lộn với các lỗi
tràn số học khi khách hàng yêu cầu hàng tỷ và hàng nghìn tỷ đô la trong cùng một thời gian.
[9]
Một số ví dụ:
Áo[sửa | ]sửa mã nguồn
Năm 1922, lạm phát ở chạm mức 1.426%. Trong 9 năm, từ năm 1914 đến tháng 1 năm 1923, Áo
chỉ số giá tiêu dùng tăng 11.836 lần; tờ tiền có mệnh giá cao nhất lúc bấy giờ là 500.000 krone Áo.
[10]
Quan sát các phản ứng của Áo trước siêu lạm phát, vốn được thúc đẩy bởi sự ích kỉ và thiếu khả
năng chính trị, bao gồm việc tích trữ thực phẩm và đầu cơ ngoại tệ, Owen S. Phillpotts, Bộ trưởng
thương mại Đại sứ quán Anh tại Viên (thủ đô của Áo) đã viết: "Áo cũng giống như những người đàn
ông trên một con tàu không thể điều khiển nó, và liên tục phát tín hiệu cầu cứu. Trong khi chờ đợi,
hầu hết trong số họ bắt đầu cắt bè, mảng ra khỏi mặt sàn. Con tàu vẫn chưa chìm bất chấp sự rò rỉ,
và những người - vốn đã có nhiều gỗ bằng cách này - có thể sử dụng chúng để nấu đồ ăn, trong khi
các thủy thủ cảm thấy lạnh và đói rét. Người dân ở Áo rất thiếu sự can đảm, nghị lực và lòng yêu
nước".
[11]
Thời gian: Tháng 10 năm 1921 đến tháng 9 năm 1922.
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 8 năm 1922, tỷ lệ lạm phát: 129%
[12]
Trung Quốc[sửa | ]sửa mã nguồn
Là nước đầu tiên sử dụng , tiền định danh Trung Quốc đã từng 2 lần trải qua giai đoạn siêu lạm phát.
Tiền giấy ở đây đã xuất hiện lần đầu tiên dưới thời và được đón nhận rất tích cực. nhà Đường
Chúng giữ nguyên được giá trị khi triều đại tiếp theo ( ) kiểm soát chặt chẽ việc phát hành nhà Tống
tiền giấy. Sự tiện lợi của chúng trong các mục đích thương mại đã dẫn đến nhu cầu mạnh mẽ đối
với tiền giấy. Khi khung phép trên lượng cung bị phá vỡ, thì siêu lạm phát đã xảy ra.
[13]
Nhà Nguyên đã in một lượng lớn tiền định danh để tài trợ cho các cuộc chiến tranh của họ, dẫn đến
siêu lạm phát.
Trong thế kỉ 20, Trung Quốc lại tiếp tục trải qua siêu lạm phát, cụ thể là vào những năm 1948 - 1949,
khi Trung Quốc đang có nội chiến. Năm 1947, tờ 50.000 là tờ tiền có mệnh giá cao nhất. Đến yuan
giữa năm 1948, mệnh giá này là 180 triệu yuan. Trong năm 1948, chính phủ đã thay thế tiền cũ
bằng đồng "yuan vàng", theo tỉ lệ 3 triệu yuan cũ đổi 1 yuan vàng. Thế nhưng, trong chưa đầy một
năm, mệnh giá cao nhất đã là 10 triệu yuan vàng. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, đồng
"yuan bạc" đã được giới thiệu với tỉ lệ 500 triệu yuan vàng đổi 1 yuan bạc. Trong giai đoạn siêu lạm
phát, tờ tiền có mệnh giá cao nhất là 6 tỷ yuan do Ngân hàng tỉnh phát hành. Sau khi Tân Cương
đồng Renminbi ( hay nhân dân tệ) được thiết lập bởi chính phủ cộng sản mới, siêu lạm phát RMB
chấm dứt; năm 1955 RMB được định giá lại theo tỉ lệ 10.000 RMB cũ đổi 1 RMB mới.
Siêu lạm phát ở Trung Quốc được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1:
o Thời gian: Tháng 7 năm 1943 đến tháng 8 năm 1945
o Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 6 năm 1945, tỷ lệ lạm phát: 302%
Giai đoạn 2:
o Thời gian: Tháng 10 năm 1947 đến giữa tháng 5 năm 1949
o Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 5 năm 1949, tỷ lệ lạm phát: 2.178%
[14]
Đức (Cộng hòa Weimar)[sửa | ]sửa mã nguồn
Bài chi tiết: Siêu lạm phát tại Cộng hòa Weimar
Đến tháng 11 năm 1922, giá trị của tiền vàng trong lưu thông tại ( ) đã giảm từĐức Cộng hòa Weimar
300 triệu (trước Thế chiến 1) xuống còn 20 triệu bảng. Ngân hàng Reichbank đã phản ứng bảng
điều này bằng cách in ấn tiền mác không kiểm soát, từ đó đẩy nhanh sự mất giá của đồng . mác
Lord D'Abernon đã từng viết: "Trong lịch sử, chưa có một nào có thể chạy theo cái đuôi củacon chó
con chó Reichbank với tốc độ của nó." Nhưng đỉnh điểm của lạm phát ở Đức là vào năm 1923.
[15][16]
Năm 1922, mệnh giá cao nhất là 50.000 mác. Đến năm 1923, mệnh giá này là 100 nghìn tỷ mác
(=10
14
). Thời điểm tháng 12 năm 1923, tỷ giá hối đoái là 4,2 nghìn tỷ mác (=4,2 × 10 ) đổi 1 đôla
12
Mỹ.
[17]
Trong năm 1923, tỷ lệ lạm phát tăng 3.25 × 10 % mỗi tháng (giá cả nhân đôi sau mỗi 2 ngày).
6
Từ 20 tháng 11 năm 1923, đồng mác được thay thế bởi đồng Rentenmark (RM, hay mác mới) theo
tỷ lệ 1 nghìn tỷ mác cũ đổi 1 mác mới. Như vậy, tỷ giá mới sẽ là 4.2 RM đổi 1 USD, giống như tỷ giá
của đồng mác cũ năm 1914.
[17]
Tương tự như ở Trung Quốc, siêu lạm phát ở Đức cũng được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1:
o Thời gian: Tháng 1 năm 1920
o Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 1 năm 1920, tỷ lệ lạm phát: 56.9%
Giai đoạn 2:
o Thời gian: Tháng 8 năm 1922 đến tháng 12 năm 1923
o Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 11 năm 1923, tỷ lệ lạm phát: 29.525%
[12]
Hy Lạp[sửa | ]sửa mã nguồn
Sau khi bị Đức chiếm đóng vào tháng 4 năm 1941, đã có sự gia tăng đột ngột về giá cả ở . Hy Lạp
Điều này xảy ra là do yếu tố tâm lý liên quan đến tình trạng thiếu cung và tích trữ hàng hóa. Trong
thời gian bị Đức và chiếm đóng, sản xuất công nghiệp của Hy Lạp (nông nghiệp, khoáng sản,...) Ý
đã được sử dụng để duy trì lực lượng chiếm đóng và luôn đảm bảo sự tiếp tế cho lực lượng Afrika
Korps (Quân đoàn châu Phi của Đức).
Khi giá trị xuất khẩu bằng đồng giảm, nhu cầu tiền tệ mới đã tác động đến tỷ giá của nó. drachma
Giá các mặt hàng tăng vọt do tình trạng thiếu cung (do phong tỏa hải quân và tích trữ hàng hóa).
Các khoản nợ đầu tư cũng đã được xử lý bằng đồng drachma (đảm bảo) của Ngân hàng Hy Lạp
(tiền giấy được in ấn riêng để trả nợ). Khi giá tăng, Đức và Ý đòi Ngân hàng Hy Lạp phải bán
drachma cho họ để bù đắp cho sự tăng giá này. Vì vậy, nền kinh tế Hy Lạp đình trệ, khiến người dân
mất lòng tin vào tiền tệ. Tỉ lệ lạm phát từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 11 năm 1944 là 2,5 × 10 %,
10
số tiền lưu thông trên toàn quốc là 6,28 × 10 drachma và một đồng vàng trị giá khoảng 43 nghìn tỷ
18
drachma.
Năm 1946, nước Anh đề xuất kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao gồm việc tăng doanh thu từ bán
hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc biệt, cải thiện phương pháp thu thuế và thành lập một
Ủy ban tiền tệ để chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Đến đầu năm 1947, giá cả được bình ổn,
niềm tin của người dân được phục hồi và thu nhập được nâng cao. Khi đó, Hy Lạp chính thức thoát
khỏi siêu lạm phát.
[18]
Thời gian: Tháng 6 năm 1941 đến tháng 1 năm 1946
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 12 năm 1944, tỷ lệ lạm phát: 3 × 10 %
10
Hungary[sửa | ]sửa mã nguồn
Hiệp ước Trianon và bất ổn chính trị những năm 1919 - 1924 đã dẫn đến lạm phát phi mã
. Năm 1921, trong một nỗ lực để ngăn chặn lạm phát, quốc hội Hungary đã thông qua Hungary
cuộc cải cách Hegedüs, trong đó đánh thuế 20% đối với tiền gửi ngân hàng. Hành động này đã làm
kết tủa mọi ngờ vực của các ngân hàng công cộng, nhất là những người làm nông nghiệp, dẫn đến
hệ quả là làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Cuối cùng, chính phủ Hungary phải in tiền không
[19]
kiểm soát, dẫn đến lạm phát chạm mốc 98% mỗi tháng.
Khi bùng nổ, nền kinh tế của Hungary đang rất yếu kém, nước này còn mạnh tay áp Thế chiến II
dụng những chính sách cho khu vực kinh tế tư nhân, gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách bao cấp
nghiêm trọng. Để đáp ứng nhu cầu của ngân sách, tình trạng in tiền diễn ra ồ ạt.
Năm 1944, mệnh giá cao nhất ở nước này là 1.000 pengő. Đến cuối 1945, mệnh giá này là 10 triệu
pengő. Tờ tiền có mệnh giá cao nhất là 100 tỷ tỷ (10 ) pengő được in vào khoảng giữa năm 1946.
20
Tình hình trầm trọng đến nỗi chính phủ Hungary phải sử dụng một đơn vị tiền tệ đặc biệt
(adópengő) được thiết kế cho trả thuế và bưu chính. Loại tiền này được điều chỉnh hằng ngày qua
[20]
đài phát thanh. Ngày 1 tháng 1 năm 1946, một adópengő có giá trị tương đương một pengő. Đến
cuối tháng 7, một adópengő đổi được 2 nghìn tỷ tỷ (hoặc 2 × 10 ) pengő. Đồng pengő đã bị thay
21
thế sau đó trong một lần tái định giá tiền (400 tỷ tỷ tỷ pengő đổi 1 forint), khi đó tổng giá trị của tất cả
các tờ tiền Hungary đang được lưu thông ở nước này có giá trị chỉ bằng đôla Mỹ. Đỉnh điểm
1
/
1.000
[21]
của lạm phát tại Hungary là khi nó chạm mức 1.3 × 10 % (giá sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 15 giờ).
16
[22]
Thời gian: Tháng 8 năm 1945 đến tháng 7 năm 1946
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 7 năm 1946, tỷ lệ lạm phát: 4,19 tỷ tỷ phần trăm.
Triều Tiên[sửa | ]sửa mã nguồn
Triều Tiên đã từng trải qua thời kì siêu lạm phát từ tháng 12 năm 2009 đến giữa tháng 1 năm 2011.
Căn cứ vào giá gạo, siêu lạm phát ở Triều Tiên đã đạt đỉnh vào giữa tháng 1 năm 2010, nhưng theo
tỷ giá trên thị trường chợ đen và các tính toán trên cơ sở sức mua tương đương, tháng cao điểm
của lạm phát ở nước này là vào đầu tháng 3 năm 2010. Tuy nhiên, số liệu này là không chính thức
và do đó phải được xử lý với một mức độ cẩn trọng.
[23]
Philippines[sửa | ]sửa mã nguồn
Khi chiếm đóng vào thời điểm Thế chiến II đang diễn ra, chính phủ đã ban Philippines Nhật Bản
hành và cho lưu thông tiền định danh. Chính phủ của Cộng hòa Philippines do Nhật tài trợ — do
Jose P. Laurel đứng đầu — ban hành chính sách cấm sở hữu các loại tiền tệ khác, nhất là "tiền du
kích". Loại tiền định danh này còn được gọi là "peso " vì nó tương tự như chơi bằng Mickey Mouse
tiền bạc. Những người sống sót trong chiến tranh thường kể lại câu chuyện họ phải mang vali hoặc
túi bayong (túi truyền thống của Philippines, làm bằng dừa hay dải lá buri dệt) tràn ra các hóa đơn
do Nhật phát hành.
Trong thời gian đầu, 75 peso có thể mua được 1 quả trứng vịt. Năm 1944, một hộp diêm được
[24]
bán với giá 100 peso. Năm 1942, mệnh giá lớn nhất được cho phép là 10 peso. Sau đó, vì lạm
[25]
phát, chính phủ Nhật Bản đã in các tờ tiền mệnh giá 100, 500 và 1.000 peso.
Thời gian: Tháng 1 đến tháng 12 năm 1944
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 1 năm 1944, tỷ lệ lạm phát: 60%
[26]
Đế quốc Anh - Malaya[sửa | ]sửa mã nguồn
Malaya Singapore đã bị Nhật Bản chiếm đóng và thống trị từ năm 1942 đến năm 1945. Người
Nhật phát hành một loại tiền đặc biệt, gọi là "tiền chuối" (xuất hiện tứ một mô típ của cây chuối trong
tờ giấy bạc 10 đôla) như là một tiền tệ chính thức để thay thế tiền đôla eo biển do người Anh đưa
vào lưu hành. Trong thời gian đó, các chi phí thiết yếu tăng mạnh. Khi chiếm đóng thành công, các
nhà chức trách Nhật Bản đã in thêm tiền để tài trợ cho các hoạt động chiến tranh của họ, dẫn đến
siêu lạm phát và sự mất giá tiền tệ.
Giá trị của 100 đôla eo biển ở thuộc địa của Nhật Bản
Tháng 2 đến tháng 10 năm 1942: 100 đôla
1 tháng 8 năm 1945: 10.500 đôla
12 tháng 8 năm 1945: 95.000 đôla
Sau 13 tháng 8 năm 1945: Đồng đôla trở nên vô giá trị.
[27]
Liên Xô[sửa | ]sửa mã nguồn
Siêu lạm phát ở kéo dài khoảng 7 năm, bùng nổ từ những ngày đầu của cuộc Liên Xô cách mạng
Bolshevik trong tháng 11 năm 1917, diễn ra trong suốt thời kỳ chiến tranh sau đó. Thời kì siêu lạm
phát của Liên Xô đã được đánh dấu bằng 3 lần đổi tiền mà trong đó đồng rúp mới thay thế rúp cũ
theo tỷ lệ 10.000 đổi 1 (1 tháng 1 năm 1922), 100 đổi 1 (1 tháng 1 năm 1923) và 50.000 đổi 1 (ngày
7 tháng 3 năm 1924). Giữa năm 1921 và năm 1922, lạm phát ở Liên Xô là 213%.
Để khống chế lạm phát, chính phủ tái lập các với sự ra đời của tiền "chervonets" tiêu chuẩn vàng
như là một phần của . Cuộc khủng hoảng lạm phát kết thúc vào tháng 3 năm chính sách kinh tế mới
1924 với sự ra đời của "đồng rúp vàng" như là một tiền tệ tiêu chuẩn của quốc gia
Nam Tư[sửa | ]sửa mã nguồn
Nam Tư cũng đã từng 2 lần rơi vào cảnh siêu lạm phát những năm 1989 - 1994. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của Nam Tư là cuộc xung đột ở . Chính phủ Nam Tư Bosnia
do đứng đầu đã hậu thuẫn các lực lượng ly khai dân tộc , khiến Slobodan Milošević Serbia Liên hiệp
quốc phải ra lệnh . Lệnh trừng phạt của LHQ đã khiến nền kinh tế nước này suy trừng phạt kinh tế
yếu, với tỷ lệ lạm phát hàng tháng tăng lên 1.000.000% vào tháng 12 năm 1993 (giá tăng gấp đôi
sau mỗi 2,3 ngày).
[28]
Mệnh giá cao nhất vào năm 1988 là 50.000 dinar. Năm 1989 mệnh giá này là 2 triệu dinar. Trong
cuộc đổi tiền năm 1990, 10 ngàn dinar cũ (thế hệ 1) sẽ đổi được 1 dinar mới (thế hệ 2). Năm 1992,
Nam Tư tiếp tục cho đổi tiền: 10 dinar cũ (thế hệ 2) đổi 1 dinar mới (thế hệ 3). Tờ tiền có mệnh giá
cao nhất ở nước này (năm 1992) là 50.000 dinar (thế hệ 3). Năm 1993 mệnh giá này là 10 tỷ dinar.
Sau đó, Nam Tư cho đổi tiền lần thứ 3 theo tỉ lệ 1.000.000 dinar cũ (thế hệ 3) đổi 1 dinar mới (thế hệ
4). Nhưng trước khi năm 1993 kết thúc, chính phủ phải in những tờ tiền có mệnh giá 500 tỷ dinar.
Năm 1994, Nam Tư cho đổi tiền lần thứ 4 theo tỉ lệ 1 tỷ dinar cũ (thế hệ 4) đổi 1 dinar mới (thế hệ 5).
Một tháng sau, nước này cho đổi tiền lần cuối cùng theo tỉ lệ 13 triệu dinar (thế hệ 5) đổi 1 novi dinar
(dinar thế hệ 6). (Thời điểm đổi tiền, 1 novi dinar có giá trị tương đương 1 đồng của Đức.) Như mác
vậy, 1 dinar thế hệ 6 tương đương với khoảng 1.3 × 10 dinar thế hệ 1.
27
Lạm phát ở Nam Tư chạm mức 5 × 10 % (lạm phát tích lũy) trong thời gian từ 1 tháng 10 năm 1993
15
đến 24 tháng 1 năm 1994. Siêu lạm phát ở Nam Tư được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1:
o Thời gian: Tháng 9 đến tháng 12 năm 1989
o Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 12 năm 1989, tỷ lệ lạm phát: 59.7%
Giai đoạn 2:
o Thời gian: Tháng 4 năm 1992 đến tháng 1 năm 1994
o Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 1 năm 1994, tỷ lệ lạm phát: 313.000.000%
[29]
Zimbabwe[sửa | ]sửa mã nguồn
Bài chi tiết: Siêu lạm phát ở Zimbabwe
Tờ tiền 100 nghìn tỷ đôla Zimbabwe thế hệ 3 (10 đôla), có
14
giá trị bằng 10 (hoặc 1 tỷ tỷ tỷ) đôla Zimbabwe thế hệ 1.
27
Siêu lạm phát ở là một trong số ít các trường hợp dẫn đến việc từ bỏ đồng nội tệ. Thời Zimbabwe
điểm Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, một đồng (ZWD, thế hệ 1) đổi đô la Zimbabwe
được khoảng 1,25 đôla Mỹ. Tuy nhiên, lạm phát tràn lan và sự sụp đổ của kinh tế Zimbabwe đã làm
giảm giá trị đồng tiền. Lạm phát đã ổn định trước khi Tổng thống thi hành chính Robert Mugabe
sách cải cách ruộng đất vào năm 2000: Nông dân da trắng bị tịch thu toàn bộ đất đai và phân phối
lại cho nông dân da màu. Chính điều này đã dẫn đến sản xuất thực phẩm bị phá vỡ, doanh thu từ
xuất khẩu thực phẩm giảm mạnh và giảm nguồn vốn từ nước ngoài vào. Kết quả là chính phủ
[30][31]
của ông Mugabe và Ngân hàng Dự trữ Gideon Gono phải in rất nhiều tờ tiền có mệnh giá cao hơn.
Siêu lạm phát đã bắt đầu từ sớm trong thế kỉ 21, đạt 624% vào năm 2004. Nó đã giảm xuống còn 3
chữ số nhỏ trước khi tăng trở lại lên 1.730% vào năm 2006. Ngày 1 tháng 8 năm 2006, Ngân hàng
Dự trữ Zimbabwe cho đổi tiền theo tỷ lệ 1.000 ZWD đổi 1 đôla thế hệ 2 (ZWN), nhưng lạm phát năm
tính đến tháng 6 năm 2007 đã lên đến 11.000% (so với dự báo 9.000%) trước đó. Trong năm 2008,
Ngân hàng Dự trữ Zimbabwe đã dần dần phát hành những tờ tiền có mệnh giá lớn hơn:
5 tháng 5: Giấy bạc hoặc "séc vô danh" mệnh giá 100 triệu ZWN và 250 triệu ZWN.
[32]
15 tháng 5: Những tờ séc vô danh mới được đưa vào lưu thông, mệnh giá 500 triệu ZWN
tương đương 2,5 đôla Mỹ.
[33]
20 tháng 5: Tờ tiền mới ("séc nông nghiệp") được lưu hành, mệnh giá 5 tỷ, 25 tỷ và 50 tỷ.
21 tháng 7: Séc nông nghiệp mệnh giá 100 tỷ ZWN.
Lạm phát ở Zimbabwe vào thời điểm 16 tháng 7 đã tăng lên 2,2 triệu % và một số nhà phân tích
[34]
cho rằng lạm phát đã vượt qua mức 9 triệu %. Thời điểm ngày 22 tháng 7 năm 2008, 688 tỷ ZWN
[35]
mới đổi được 1 đôla Mỹ, hoặc 688 nghìn tỷ ZWD.
[36]
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, đồng đôla Zimbawe được định giá lại theo tỷ lệ 10 ZWN đổi 1 đôla thế
10
hệ 3 (ZWR). Ngày 19 tháng 8, con số lạm phát chính thức được công bố: lạm phát vào tháng 6 là
[37]
11.250.000%.
[38]
Thời điểm tháng 7 năm 2008, lạm phát năm của Zimbabwe là 231.000.000% (giá sẽ
tăng gấp đôi sau mỗi 17,3 ngày). Đến tháng 10 năm 2008, Zimbabwe bắt đầu sa lầy vào vũng bùn
mang tên "siêu lạm phát" với mức lương không thể đuổi kịp trước sự tăng tốc của lạm phát.
Trong nền kinh tế này, hoạt động của nhiều bệnh viện và trường học bị gián đoạn vì nhiều bác sĩ, y
tá và giáo viên không có khả năng trả tiền vé xe buýt để làm việc. Thủ đô của Zimbabwe, , Harare
gần như không có nước sinh hoạt. Trong lúc đang cần ngoại tệ để duy trì hoạt động của chính phủ,
thống đốc ngân hàng trung ương Zimbabwe, Gideon Gono đã cho người mang các vali chứa đôla
Zimbabwe chạy trên đường phố để tìm kiếm chỗ mua bán đôla Mỹ và rand Nam Phi.
[39]
Từ sau tháng 7 năm 2008 trở đi, chưa có báo cáo chính thức nào về lạm phát của Zimbabwe được
đưa ra. Giáo sư Steve H. Hanke, để giải quyết vấn đề, đã tính toán tỉ lệ lạm phát ở nước này trong
giai đoạn sau tháng 7 năm 2008 và xưất bản các Chỉ số Siêu lạm phát của Hanke cho Zimbabwe.
[40]
Các tính toán của Hanke (gọi tắt là HHIZ) đã chỉ ra rằng lạm phát năm đã đạt đỉnh ở mức 89.7
nghìn tỷ tỷ % (89.700.000.000.000.000.000.000%) vào giữa tháng 11 năm 2008. Tỉ lệ lạm phát
tháng cao điểm là 79,6 tỷ %, tương đương với tỉ lệ lạm phát ngày 98% và tỉ lệ hằng năm là khoảng 7
× 10 %. Với tỉ lệ này, giá cả sẽ nhân đôi sau mỗi 24,7 giờ. (Lưu ý rằng phần lớn các con số tính
108
toán ở trên chỉ được xét chủ yếu trên lý thuyết, khi siêu lạm phát đã không duy trì ở tốc độ đó trong
cả năm.)
[41]
Vào thời cao điểm tháng 11 năm 2008, tỷ lệ lạm phát ở Zimbabwe đã tiếp cận (nhưng không phá
được) kỷ lục thế giới ở Hungary năm 1946. (Tháng 7 năm đó, tỷ lệ lạm phát ở Hungary là 4,19 tỷ tỷ
phần trăm.) Ngày 2 tháng 2 năm 2009, đồng đôla đã được định giá lại lần thứ tư với tỷ lệ 10 đôla
[41]
12
thế hệ 3 (ZWR) đổi 1 đôla thế hệ 4 (ZWL), chỉ 3 tuần sau khi tờ tiền 100 nghìn tỷ đôla được đưa vào
lưu thông (ngày 16 tháng 1), nhưng siêu lạm phát đã suy yếu dần vì tỉ lệ lạm phát chính thức bằng
[42]
đôla Mỹ được công bố và các giao dịch nước ngoài được hợp pháp hóa, và đến ngày 12 tháng 4,
[41]
đôla Zimbabwe chính thức bị loại bỏ khỏi lưu thông.
Thời gian: Tháng 3 năm 2007 đến giữa tháng 11 năm 2008
Tháng có lạm phát cao nhất: giữa tháng 11 năm 2008, tỷ lệ lạm phát: 79,6 tỷ %.
[43]
Venezuela[sửa | ]sửa mã nguồn
Siêu lạm phát ở Venezuela là siêu lạm phát mới nhất xảy ra trên thế giới. Là một trong những nước
có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, 90% thu nhập tài chính của Venezuela đều dựa vào xuất khẩu
dầu. Chính quyền của tổng thống Maduro cho rằng, các thế lực ngoại bang do Mỹ cầm đầu đã cấu
kết với các phe nổi loạn trong nước để phát động “chiến tranh kinh tế”. Trong khi đó, những người
phản đối thì cho rằng ông Maduro thi hành chính sách bất cập, khiến vật giá leo thang, thực phẩm
và thuốc men ngày càng thiếu hụt.
Tháng 1/2018, đồng nội tệ (bolivar) của nước này bị mất giá trị lên đến 98% so với cùng kỳ năm
2017. Thời đó, lương tháng tối thiểu của nước này là dưới 4 đôla Mỹ. Theo IMF (Quỹ Tiền tệ Thế
giới), tỉ lệ lạm phát tại nước này có thể lên đến hơn 1.000.000% (giá sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 2,3
ngày). Lạm phát ở nước này cao đến mức người dân phải tới các chợ đen ở ngoại ô thủ đô
Caracas để mua các nhu yếu phẩm khó tìm như xà phòng, dầu gội đầu, bột ngô hay gạo. Kinh tế sa
sút cùng với tình trạng thiếu thốn lương thực khiến cân nặng trung bình của người dân Venezuela
giảm xuống trung bình 11 kg trong năm 2017. Thời điểm đó, 90% dân số nước này sống trong
nghèo khổ. Ngoài ra, vì lạm phát quá cao nên người dân thường cân tiền thay vì đếm tiền như
trước.
Cuối tháng 8 năm 2018, theo các thị trường chợ đen tại Venezuela, 6,6 triệu bolivar có thể đổi được
1 đô la Mỹ.
Sau đó, những biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng được Tổng thống Nicolas Maduro công bố
ngày 17/8/2018 và có hiệu lực vào ngày 20/8.
Các nỗ lực cải cách kinh tế bao gồm tăng lương tối thiểu lên 60 lần, giảm giá trị đồng tiền xuống
95%, xóa 5 số 0 trên đồng nội tệ bolivar, phát hành tờ tiền mới có tên Bolivar Soberano.
Thời gian: Năm 2014 đến cuối tháng 8 năm 2018
Tháng có lạm phát cao nhất: tháng 8 năm 2018, tỷ lệ lạm phát: 1.000.000%
[47]
Một số ví dụ về lạm phát cao[sửa | ]sửa mã nguồn
Một số quốc gia từng có tỷ lệ lạm phát cao, nhưng tốc độ chưa đạt đến định nghĩa về siêu lạm phát
của Gregory N. Mankiw: tỷ lệ lạm phát mỗi tháng trên 50% thì được gọi là siêu lạm phát.
Iraq[sửa | ]sửa mã nguồn
Giữa năm 1987 và 1995, đồng dinar của đã mất giá nghìn lần, từ tỷ giá chính thức 0,306 dinar Iraq
đổi 1 đôla Mỹ (hoặc 3,26 đôla Mỹ đổi 1 dinar, mặc dù tỷ lệ trên chợ đen được cho là thấp hơn đáng
kể) xuống còn 3.000 dinar đổi 1 đôla Mỹ do chính phủ in ấn tiền mặt quá mức. Nó tương đương với
một tỷ lệ lạm phát trung bình năm lên tới 306% trong giai đoạn này.
[44]
Mexico[sửa | ]sửa mã nguồn
Mặc dù giá dầu đã có giai đoạn tăng "nóng" vào cuối những năm 1970 ( chuyên sản xuất và México
xuất khẩu dầu mỏ), Mexico vẫn vỡ nợ (nợ nước ngoài) vào năm 1982. Hậu quả là dòng vốn liên tục
tháo chạy khỏi Mexico và nước này phải gánh chịu siêu lạm phát cùng sự mất giá của đồng . peso
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Mexico đã ra mắt đồng tiền mới, đồng nuevo peso ("peso mới" hay
MXN), bỏ đi 3 chữ số 0 trong tờ tiền peso cũ, một tỷ lệ lạm phát lên tới 100.000% trong nhiều năm
diễn ra khủng hoảng. (Tỷ lệ đổi tiền là 1.000 peso cũ đổi 1 peso mới.)
Ai Cập (thuộc La Mã)[sửa | ]sửa mã nguồn
Tại (lúc bấy giờ đang chịu sự thống trị của ), nơi mà một số tài liệu và giá cả Ai Cập Đế chế La Mã
vẫn còn được lưu giữ lại cho đến ngày nay, giá của 1 kg lúa mì là 200 drachmae vào năm 276, và
tăng lên đến hơn 2.000.000 drachmae vào năm 334, một tỷ lệ lạm phát lên đến 1.000.000% trong
thời gian 58 năm.
[45]
Mặc dù giá cả tăng hơn 10.000 lần trong thời gian trên, nhưng do thời gian kéo dài tới 58 năm, nên
tỉ lệ lạm phát bình quân hằng năm chỉ có 17,2% mỗi năm.
Romania[sửa | ]sửa mã nguồn
Romania đã từng có giai đoạn lạm phát phi mã vào cuối những năm 1990. Mệnh giá cao nhất ở
nước này vào năm 1990 là 100 lei và năm 1998 là 100.000 lei. Năm 2000 mệnh giá này là nửa triệu
lei. Năm 2005 con số này là 1 triệu lei. Lạm phát ở Romania năm 2005 là 9%. Vào tháng 7 năm
[46]
2005 đồng lei cũ đã bị thay thế bởi đồng leu mới theo tỉ lệ 10.000 lei cũ đổi 1 leu mới. Tháng 7 năm
2005 mệnh giá cao nhất ở Romania là 500 leu (= 5.000.000 lei cũ).
Việt Nam[sửa | ]sửa mã nguồn
Thời kỳ 1954 - 1975, ở miền Nam Việt Nam từng diễn ra một số đợt lạm phát rất cao do cung tiền
tăng quá nhanh (Mỹ đổ tiền viện trợ quá nhiều cho chính phủ Sài Gòn). Từ cuối năm 1973 đến cuối
năm 1974, khủng hoảng kinh tế do Mỹ cắt giảm viện trợ đã khiến lạm phát trong riêng năm này ở
miền Nam Việt Nam đã đạt tới trên 200%.
Cuối năm 1985, sai lầm về tổng điều chỉnh đã khiến rơi vào tình trạng giá - lương - tiền Việt Nam
lạm phát phi mã. Siêu lạm phát xuất hiện liên tục từ năm 1985 đến 1988, với tỉ lệ lạm phát từ 300%
đến 800% mỗi năm. Năm 1986, tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% khiến kinh tế rối loạn. Siêu lạm phát
vẫn tiếp diễn trong 2 năm sau đó (năm 1987: 323,1%; năm 1988: 393%). Đến năm 1989, lạm phát
mới xuống dưới 100% và Việt Nam mới thoát khỏi lạm phát.
| 1/9

Preview text:

CÁC GIAI ĐOẠN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Nghiên cứu cho biết, trong 27 năm từ 1996-2012, Việt Nam có 13 năm và 4 giai đoạn lạm phát
trên 2 con số, trong đó đáng kể nhất là từ 1986-1992 với mức lạm phát bình quân ba chứ số
225%/năm; 2007-2008 với 16,3% năm và 2010-1011 với 15%/năm.
Trong giai 2008-2012 tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là gần 5,9% năm, và lạm phát là
12,6%; còn Trung Quốc tương ứng là 9,3%/năm và 3,3%/năm.
Trong 20 năm (1991-2010), Việt Nam tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,4%, lạm
phát gần 11%; thì Trung Quốc tương ứng là 10,5% và 4,8%. SIÊU LẠM PHÁT
Định nghĩa: Siêu lạm phát là tình trạng lạm phát cao, có tác động phá hoại nền kinh tế nghiêm
trọng. Thông thường, tốc độ tăng giá chung ở mức 3 chữ số hàng
thì gọi là siêu lạm phát. Khi năm
có siêu lạm phát, tiền mất giá nghiêm trọng, và lượng cầu về tiền tệ giảm đi đáng kể.
Nguyên nhân chủ yếu: siêu lạm phát đã được gây ra bởi thâm hụt ngân sách chính phủ, nên
buộc chính phủ phải in thêm rất nhiều tiền. Sau khi phân tích 29 siêu lạm phát (theo định nghĩa của
Cagan) thì Bernholz đã kết luận rằng ít nhất 25 trong số đó đã xảy ra theo cách này. Bên cạnh đó,
một điều kiện cần thiết cho siêu lạm phát là sự tồn tại của các loại tiền tệ không chuyển đổi cố định
vào vàng và bạc. Giả thuyết này được đề xuất bởi có một thực tế là có một số trường hợp ngoại lệ
về siêu lạm phát, chẳng hạn như siêu lạm phát của Pháp những năm 1789-1796, sau khi tiền
"assignat", một loại tiền giấy không chuyển đổi, được giới thiệu.
Hậu quả: Siêu lạm phát làm giảm sức mua của các tổ chức tiết kiệm tư nhân và công cộng; bóp
méo nền kinh tế thiên về việc tích trữ tài sản thực tế; làm cơ sở tiền tệ tháo chạy khỏi đất nước, cho
dù nội tệ hay ngoại tệ có mạnh đến đâu.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của siêu lạm phát là sự gia tăng thay thế tiền lạm phát
bằng cách ổn định làm ổn định tiền vàng và bạc trong thời gian trước đây, sau đó làm ổn định ngoại
tệ một cách tương đối (sau sự sụp đổ của tiêu chuẩn vàng bạc, theo định luật Gresham). Nếu lạm
phát đủ cao, các quy định của chính phủ như hình phạt nặng, tiền phạt, thường kết hợp với kiểm
soát ngoại hối sẽ không thể ngăn chặn việc thay thế tiền lạm phát. Kết quả là, đồng tiền lạm phát sẽ
bị định giá thấp hơn so với tiền nước ngoài ổn định, trong điều kiện sức mua tương đương. Vì vậy,
người nước ngoài có thể sống và mua sản phẩm ở mức giá rẻ ở các nước bị lạm phát cao. Nó có
thể dẫn đến việc chính phủ của các nước - vốn thất bại trong việc cải cách tiền tệ trong một thời
gian - phải hợp pháp hóa các ngoại tệ mạnh (trước đây là vàng và bạc), và chúng có thể thay thế
hoàn toàn tiền lạm phát. Nếu không hợp pháp hóa ngoại tệ mạnh, thì doanh thu thuế của chính phủ,
bao gồm thuế lạm phát, sẽ tiếp cận xuống đến mức 0.[4] Quá trình này có thể thấy được
ở Zimbabwe vào cuối thập niên 2000. Khi đó, đồng đôla của nước này, do bị mất giá nghiêm trọng,
nên đã được thay thế bằng đồng đôla Mỹ và rand Nam Phi.
Hậu quả đối với tiền tệ: Tại các nước từng trải qua siêu lạm phát, các ngân hàng trung
ương thường in tiền có mệnh giá lớn hơn và lớn hơn thế nữa, khiến các tờ tiền mệnh giá nhỏ trở
nên vô giá trị. Điều này sẽ dẫn đến sự xuất hiện của các tờ tiền có mệnh giá 1 tỷ đơn vị tiền tệ hoặc hơn. 
Cuối năm 1923, Cộng hòa Weimar của Đức đã phát hành 2 nghìn tỷ tiền giấy và tem bưu
chính có mệnh giá 50 tỷ mác. Tờ tiền có giá trị cao nhất do ngân hàng Reichbank của chính phủ
Weimar có mệnh giá 100 nghìn tỷ mác (1014, 100.000.000.000.000 hay 100 triệu triệu).[5][6] Ở đỉnh
điểm của lạm phát, 1 đôla Mỹ đổi được tới 4 nghìn tỷ mác. Một công ty in ấn đã gửi hóa đơn trị
giá (và phải trả) 32.776.899.763.734.490.417,05 mác (3.28 × 1019, làm tròn thành 33 tỷ tỷ) cho Reichbank.[7] 
Tờ tiền có mệnh giá cao nhất từng được lưu hành là vào năm 1946. Khi đó, Ngân hàng
Quốc gia Hungary đã lưu hành tờ tiền mệnh giá 100 tỷ tỷ pengo (1020,
100.000.000.000.000.000.000, 100 triệu triệu triệu) (xem hình ảnh). (Thậm chí, còn có một tờ
tiền trị giá cao hơn 10 lần, tức là 1021, 1 nghìn tỷ tỷ pengo, đã được in nhưng không được phát
hành. Xem hình ảnh.) Các giấy bạc đã không cho thấy những con số đầy đủ: "trăm triệu b.-
pengo" (trăm triệu nghìn tỷ pengo) và "một ngàn triệu b.- pengo" đã được phát âm vì những con
số quá dài. Như vậy, tờ giấy bạc 100.000.000.000.000 đôla Zimbabwe đã trở thành tờ giấy mà
có mệnh giá hiển thị nhiều số 0 nhất trên thế giới. 
Sau Thế chiến II, tỉ lệ lạm phát hàng tháng ở Hungary chạm mức cao nhất trong lịch sử thế
giới - 41.900.000.000.000.000% (4.19 × 1016% hoặc 41,9 triệu tỷ %) vào tháng 7 năm 1946. Với
tỉ lệ này, giá cả ở Hungary sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 15,3 giờ. Nếu so sánh, tỉ lệ lạm phát hàng
năm ở Zimbabwe là 89.7 nghìn tỷ tỷ % (số liệu tính đến ngày 14 tháng 11 năm 2008)[8], tức là giá
cả sẽ nhân đôi sau mỗi 24,7 giờ. Khi viết ra giấy, con số này là
89.700.000.000.000.000.000.000%.
Một cách để giúp người dân khỏi bị ám ảnh bởi những con số 0 là tuyên bố một đơn vị tiền tệ mới.
(Ví dụ, thay vì in tờ tiền 10 tỷ đôla, một ngân hàng trung ương sẽ cho đổi tiền theo tỉ lệ 1 tỉ đôla cũ
đổi 1 đôla mới. Như vậy, các tờ tiền mới sẽ được ghi là 10 đôla mới.) Một ví dụ thực tế là ở Thổ Nhĩ
Kỳ, khi nước này cho đổi tiền lira của mình theo tỉ lệ 1.000.000 lira cũ (TRL) đổi 1 lira mới (TRY) từ
ngày 1 tháng 1 năm 2005. Trong khi điều này không làm giảm giá trị thực tế của tiền tệ, nó còn
được định nghĩa là "định giá lại đồng tiền" và cũng thỉnh thoảng xảy ra ở các nước có lạm phát thấp
hơn. Khi xảy ra siêu lạm phát, lạm phát tiền tệ quá nhanh làm chứa đựng những con số quá lớn trên
các hóa đơn trước khi tiền tệ được định giá lại.
Một số tờ tiền được đóng dấu để chỉ ra những thay đổi liên quan đến mệnh giá, vì nó thường mất
rất nhiều thời gian để in những tờ tiền mới. Bởi vì, trong thời gian các tờ tiền mới được in, các tờ
tiền cũ sẽ trở nên lỗi thời.
Đồng tiền kim loại thường là nạn nhân của siêu lạm phát, do kinh phí để đúc tiền vượt quá giá trị lưu
thông của nó. Một số lượng lớn tiền đúc đã bị nấu chảy, thường là bất hợp pháp, sau đó đi xuất
khẩu cho các ngoại tệ mạnh.
Các chính phủ thường sẽ cố gắng che đậy tỉ lệ thực sự của lạm phát thông qua một loạt các kĩ thuật
khác nhau. Không có hành động nào trong số đó là nhằm giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của
lạm phát; và nếu bị phát hiện, nó sẽ có xu hướng làm suy yếu niềm tin của người dân vào đồng tiền,
dẫn đến tăng lạm phát. Kiểm soát giá cả nói chung sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hàng hóa và nhu cầu
rất cao đối với các mặt hàng bị kiểm soát, gây ra sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng. Sản phẩm
phục vụ cho người tiêu dùng có thể bị giảm hoặc biến mất khi các doanh nghiệp không còn thấy nó
đạt hiệu quả kinh tế để tiếp tục sản xuất và (hoặc) phân phối hàng hóa đó theo giá hợp pháp, làm
trầm trọng thêm tình trạng thiếu cung.
Ngoài ra còn có vấn đề với hệ thống tiền xử lý bằng máy tính. Tại Zimbabwe, trong siêu lạm phát
của đồng đô la nước này, nhiều máy rút tiền tự động và máy thanh toán thẻ phải vật lộn với các lỗi
tràn số học khi khách hàng yêu cầu hàng tỷ và hàng nghìn tỷ đô la trong cùng một thời gian.[9] Một số ví dụ:
Áo[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1922, lạm phát ở Áo chạm mức 1.426%. Trong 9 năm, từ năm 1914 đến tháng 1 năm 1923,
chỉ số giá tiêu dùng tăng 11.836 lần; tờ tiền có mệnh giá cao nhất lúc bấy giờ là 500.000 krone Áo.[10]
Quan sát các phản ứng của Áo trước siêu lạm phát, vốn được thúc đẩy bởi sự ích kỉ và thiếu khả
năng chính trị, bao gồm việc tích trữ thực phẩm và đầu cơ ngoại tệ, Owen S. Phillpotts, Bộ trưởng
thương mại Đại sứ quán Anh tại Viên (thủ đô của Áo) đã viết: "Áo cũng giống như những người đàn
ông trên một con tàu không thể điều khiển nó, và liên tục phát tín hiệu cầu cứu. Trong khi chờ đợi,
hầu hết trong số họ bắt đầu cắt bè, mảng ra khỏi mặt sàn. Con tàu vẫn chưa chìm bất chấp sự rò rỉ,
và những người - vốn đã có nhiều gỗ bằng cách này - có thể sử dụng chúng để nấu đồ ăn, trong khi
các thủy thủ cảm thấy lạnh và đói rét. Người dân ở Áo rất thiếu sự can đảm, nghị lực và lòng yêu nước".[11] 
Thời gian: Tháng 10 năm 1921 đến tháng 9 năm 1922. 
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 8 năm 1922, tỷ lệ lạm phát: 129%[12]
Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Là nước đầu tiên sử dụng tiền định danh, Trung Quốc đã từng 2 lần trải qua giai đoạn siêu lạm phát.
Tiền giấy ở đây đã xuất hiện lần đầu tiên dưới thời nhà Đường và được đón nhận rất tích cực.
Chúng giữ nguyên được giá trị khi triều đại tiếp theo (nhà Tống) kiểm soát chặt chẽ việc phát hành
tiền giấy. Sự tiện lợi của chúng trong các mục đích thương mại đã dẫn đến nhu cầu mạnh mẽ đối
với tiền giấy. Khi khung phép trên lượng cung bị phá vỡ, thì siêu lạm phát đã xảy ra.[13]
Nhà Nguyên đã in một lượng lớn tiền định danh để tài trợ cho các cuộc chiến tranh của họ, dẫn đến siêu lạm phát.
Trong thế kỉ 20, Trung Quốc lại tiếp tục trải qua siêu lạm phát, cụ thể là vào những năm 1948 - 1949,
khi Trung Quốc đang có nội chiến. Năm 1947, tờ 50.000 yuan là tờ tiền có mệnh giá cao nhất. Đến
giữa năm 1948, mệnh giá này là 180 triệu yuan. Trong năm 1948, chính phủ đã thay thế tiền cũ
bằng đồng "yuan vàng", theo tỉ lệ 3 triệu yuan cũ đổi 1 yuan vàng. Thế nhưng, trong chưa đầy một
năm, mệnh giá cao nhất đã là 10 triệu yuan vàng. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, đồng
"yuan bạc" đã được giới thiệu với tỉ lệ 500 triệu yuan vàng đổi 1 yuan bạc. Trong giai đoạn siêu lạm
phát, tờ tiền có mệnh giá cao nhất là 6 tỷ yuan do Ngân hàng tỉnh Tân Cương phát hành. Sau khi
đồng Renminbi (RMB hay nhân dân tệ) được thiết lập bởi chính phủ cộng sản mới, siêu lạm phát
chấm dứt; năm 1955 RMB được định giá lại theo tỉ lệ 10.000 RMB cũ đổi 1 RMB mới.
Siêu lạm phát ở Trung Quốc được chia làm 2 giai đoạn:  Giai đoạn 1: o
Thời gian: Tháng 7 năm 1943 đến tháng 8 năm 1945 o
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 6 năm 1945, tỷ lệ lạm phát: 302%  Giai đoạn 2: o
Thời gian: Tháng 10 năm 1947 đến giữa tháng 5 năm 1949 o
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 5 năm 1949, tỷ lệ lạm phát: 2.178%[14]
Đức (Cộng hòa Weimar)[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Siêu lạm phát tại Cộng hòa Weimar
Đến tháng 11 năm 1922, giá trị của tiền vàng trong lưu thông tại Đức (Cộng hòa Weimar) đã giảm từ
300 triệu bảng (trước Thế chiến 1) xuống còn 20 triệu bảng. Ngân hàng Reichbank đã phản ứng
điều này bằng cách in ấn tiền mác không kiểm soát, từ đó đẩy nhanh sự mất giá của đồng mác.
Lord D'Abernon đã từng viết: "Trong lịch sử, chưa có một con chó nào có thể chạy theo cái đuôi của
con chó Reichbank với tốc độ của nó."[15][16] Nhưng đỉnh điểm của lạm phát ở Đức là vào năm 1923.
Năm 1922, mệnh giá cao nhất là 50.000 mác. Đến năm 1923, mệnh giá này là 100 nghìn tỷ mác
(=1014). Thời điểm tháng 12 năm 1923, tỷ giá hối đoái là 4,2 nghìn tỷ mác (=4,2 × 1012) đổi 1 đôla
Mỹ.[17] Trong năm 1923, tỷ lệ lạm phát tăng 3.25 × 106% mỗi tháng (giá cả nhân đôi sau mỗi 2 ngày).
Từ 20 tháng 11 năm 1923, đồng mác được thay thế bởi đồng Rentenmark (RM, hay mác mới) theo
tỷ lệ 1 nghìn tỷ mác cũ đổi 1 mác mới. Như vậy, tỷ giá mới sẽ là 4.2 RM đổi 1 USD, giống như tỷ giá
của đồng mác cũ năm 1914.[17]
Tương tự như ở Trung Quốc, siêu lạm phát ở Đức cũng được chia làm 2 giai đoạn:  Giai đoạn 1: o
Thời gian: Tháng 1 năm 1920 o
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 1 năm 1920, tỷ lệ lạm phát: 56.9%  Giai đoạn 2: o
Thời gian: Tháng 8 năm 1922 đến tháng 12 năm 1923 o
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 11 năm 1923, tỷ lệ lạm phát: 29.525% [12]
Hy Lạp[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi bị Đức chiếm đóng vào tháng 4 năm 1941, đã có sự gia tăng đột ngột về giá cả ở Hy Lạp.
Điều này xảy ra là do yếu tố tâm lý liên quan đến tình trạng thiếu cung và tích trữ hàng hóa. Trong
thời gian bị Đức và Ý chiếm đóng, sản xuất công nghiệp của Hy Lạp (nông nghiệp, khoáng sản,...)
đã được sử dụng để duy trì lực lượng chiếm đóng và luôn đảm bảo sự tiếp tế cho lực lượng Afrika
Korps (Quân đoàn châu Phi của Đức).
Khi giá trị xuất khẩu bằng đồng drachma giảm, nhu cầu tiền tệ mới đã tác động đến tỷ giá của nó.
Giá các mặt hàng tăng vọt do tình trạng thiếu cung (do phong tỏa hải quân và tích trữ hàng hóa).
Các khoản nợ đầu tư cũng đã được xử lý bằng đồng drachma (đảm bảo) của Ngân hàng Hy Lạp
(tiền giấy được in ấn riêng để trả nợ). Khi giá tăng, Đức và Ý đòi Ngân hàng Hy Lạp phải bán
drachma cho họ để bù đắp cho sự tăng giá này. Vì vậy, nền kinh tế Hy Lạp đình trệ, khiến người dân
mất lòng tin vào tiền tệ. Tỉ lệ lạm phát từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 11 năm 1944 là 2,5 × 1010%,
số tiền lưu thông trên toàn quốc là 6,28 × 1018 drachma và một đồng vàng trị giá khoảng 43 nghìn tỷ drachma.
Năm 1946, nước Anh đề xuất kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao gồm việc tăng doanh thu từ bán
hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc biệt, cải thiện phương pháp thu thuế và thành lập một
Ủy ban tiền tệ để chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Đến đầu năm 1947, giá cả được bình ổn,
niềm tin của người dân được phục hồi và thu nhập được nâng cao. Khi đó, Hy Lạp chính thức thoát khỏi siêu lạm phát.[18] 
Thời gian: Tháng 6 năm 1941 đến tháng 1 năm 1946 
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 12 năm 1944, tỷ lệ lạm phát: 3 × 1010%
Hungary[sửa | sửa mã nguồn]
Hiệp ước Trianon và bất ổn chính trị những năm 1919 - 1924 đã dẫn đến lạm phát phi mã
ở Hungary. Năm 1921, trong một nỗ lực để ngăn chặn lạm phát, quốc hội Hungary đã thông qua
cuộc cải cách Hegedüs, trong đó đánh thuế 20% đối với tiền gửi ngân hàng. Hành động này đã làm
kết tủa mọi ngờ vực của các ngân hàng công cộng, nhất là những người làm nông nghiệp, dẫn đến
hệ quả là làm giảm lượng tiền trong lưu thông.[19] Cuối cùng, chính phủ Hungary phải in tiền không
kiểm soát, dẫn đến lạm phát chạm mốc 98% mỗi tháng.
Khi Thế chiến II bùng nổ, nền kinh tế của Hungary đang rất yếu kém, nước này còn mạnh tay áp
dụng những chính sách bao cấp cho khu vực kinh tế tư nhân, gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách
nghiêm trọng. Để đáp ứng nhu cầu của ngân sách, tình trạng in tiền diễn ra ồ ạt.
Năm 1944, mệnh giá cao nhất ở nước này là 1.000 pengő. Đến cuối 1945, mệnh giá này là 10 triệu
pengő. Tờ tiền có mệnh giá cao nhất là 100 tỷ tỷ (1020) pengő được in vào khoảng giữa năm 1946.
Tình hình trầm trọng đến nỗi chính phủ Hungary phải sử dụng một đơn vị tiền tệ đặc biệt
(adópengő) được thiết kế cho trả thuế và bưu chính.[20] Loại tiền này được điều chỉnh hằng ngày qua
đài phát thanh. Ngày 1 tháng 1 năm 1946, một adópengő có giá trị tương đương một pengő. Đến
cuối tháng 7, một adópengő đổi được 2 nghìn tỷ tỷ (hoặc 2 × 1021) pengő. Đồng pengő đã bị thay
thế sau đó trong một lần tái định giá tiền (400 tỷ tỷ tỷ pengő đổi 1 forint), khi đó tổng giá trị của tất cả
các tờ tiền Hungary đang được lưu thông ở nước này có giá trị chỉ bằng 1/ [21] 1.000 đôla Mỹ. Đỉnh điểm
của lạm phát tại Hungary là khi nó chạm mức 1.3 × 1016% (giá sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 15 giờ).[22] 
Thời gian: Tháng 8 năm 1945 đến tháng 7 năm 1946 
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 7 năm 1946, tỷ lệ lạm phát: 4,19 tỷ tỷ phần trăm.
Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Triều Tiên đã từng trải qua thời kì siêu lạm phát từ tháng 12 năm 2009 đến giữa tháng 1 năm 2011.
Căn cứ vào giá gạo, siêu lạm phát ở Triều Tiên đã đạt đỉnh vào giữa tháng 1 năm 2010, nhưng theo
tỷ giá trên thị trường chợ đen và các tính toán trên cơ sở sức mua tương đương, tháng cao điểm
của lạm phát ở nước này là vào đầu tháng 3 năm 2010. Tuy nhiên, số liệu này là không chính thức
và do đó phải được xử lý với một mức độ cẩn trọng.[23]
Philippines[sửa | sửa mã nguồn]
Khi chiếm đóng Philippines vào thời điểm Thế chiến II đang diễn ra, chính phủ Nhật Bản đã ban
hành và cho lưu thông tiền định danh. Chính phủ của Cộng hòa Philippines do Nhật tài trợ — do
Jose P. Laurel đứng đầu — ban hành chính sách cấm sở hữu các loại tiền tệ khác, nhất là "tiền du
kích". Loại tiền định danh này còn được gọi là "peso Mickey Mouse" vì nó tương tự như chơi bằng
tiền bạc. Những người sống sót trong chiến tranh thường kể lại câu chuyện họ phải mang vali hoặc
túi bayong (túi truyền thống của Philippines, làm bằng dừa hay dải lá buri dệt) tràn ra các hóa đơn do Nhật phát hành.
Trong thời gian đầu, 75 peso có thể mua được 1 quả trứng vịt.[24] Năm 1944, một hộp diêm được
bán với giá 100 peso.[25] Năm 1942, mệnh giá lớn nhất được cho phép là 10 peso. Sau đó, vì lạm
phát, chính phủ Nhật Bản đã in các tờ tiền mệnh giá 100, 500 và 1.000 peso. 
Thời gian: Tháng 1 đến tháng 12 năm 1944 
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 1 năm 1944, tỷ lệ lạm phát: 60% [26]
Đế quốc Anh - Malaya[sửa | sửa mã nguồn]
Malaya và Singapore đã bị Nhật Bản chiếm đóng và thống trị từ năm 1942 đến năm 1945. Người
Nhật phát hành một loại tiền đặc biệt, gọi là "tiền chuối" (xuất hiện tứ một mô típ của cây chuối trong
tờ giấy bạc 10 đôla) như là một tiền tệ chính thức để thay thế tiền đôla eo biển do người Anh đưa
vào lưu hành. Trong thời gian đó, các chi phí thiết yếu tăng mạnh. Khi chiếm đóng thành công, các
nhà chức trách Nhật Bản đã in thêm tiền để tài trợ cho các hoạt động chiến tranh của họ, dẫn đến
siêu lạm phát và sự mất giá tiền tệ.
Giá trị của 100 đôla eo biển ở thuộc địa của Nhật Bản
Tháng 2 đến tháng 10 năm 1942: 100 đôla 
1 tháng 8 năm 1945: 10.500 đôla 
12 tháng 8 năm 1945: 95.000 đôla 
Sau 13 tháng 8 năm 1945: Đồng đôla trở nên vô giá trị.[27]
Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]
Siêu lạm phát ở Liên Xô kéo dài khoảng 7 năm, bùng nổ từ những ngày đầu của cuộc cách mạng
Bolshevik trong tháng 11 năm 1917, diễn ra trong suốt thời kỳ chiến tranh sau đó. Thời kì siêu lạm
phát của Liên Xô đã được đánh dấu bằng 3 lần đổi tiền mà trong đó đồng rúp mới thay thế rúp cũ
theo tỷ lệ 10.000 đổi 1 (1 tháng 1 năm 1922), 100 đổi 1 (1 tháng 1 năm 1923) và 50.000 đổi 1 (ngày
7 tháng 3 năm 1924). Giữa năm 1921 và năm 1922, lạm phát ở Liên Xô là 213%.
Để khống chế lạm phát, chính phủ tái lập các tiêu chuẩn vàng với sự ra đời của tiền "chervonets"
như là một phần của chính sách kinh tế mới. Cuộc khủng hoảng lạm phát kết thúc vào tháng 3 năm
1924 với sự ra đời của "đồng rúp vàng" như là một tiền tệ tiêu chuẩn của quốc gia
Nam Tư[sửa | sửa mã nguồn]
Nam Tư cũng đã từng 2 lần rơi vào cảnh siêu lạm phát những năm 1989 - 1994. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của Nam Tư là cuộc xung đột ở Bosnia. Chính phủ Nam Tư
do Slobodan Milošević đứng đầu đã hậu thuẫn các lực lượng ly khai dân tộc Serbia, khiến Liên hiệp
quốc phải ra lệnh trừng phạt kinh tế. Lệnh trừng phạt của LHQ đã khiến nền kinh tế nước này suy
yếu, với tỷ lệ lạm phát hàng tháng tăng lên 1.000.000% vào tháng 12 năm 1993 (giá tăng gấp đôi sau mỗi 2,3 ngày).[28]
Mệnh giá cao nhất vào năm 1988 là 50.000 dinar. Năm 1989 mệnh giá này là 2 triệu dinar. Trong
cuộc đổi tiền năm 1990, 10 ngàn dinar cũ (thế hệ 1) sẽ đổi được 1 dinar mới (thế hệ 2). Năm 1992,
Nam Tư tiếp tục cho đổi tiền: 10 dinar cũ (thế hệ 2) đổi 1 dinar mới (thế hệ 3). Tờ tiền có mệnh giá
cao nhất ở nước này (năm 1992) là 50.000 dinar (thế hệ 3). Năm 1993 mệnh giá này là 10 tỷ dinar.
Sau đó, Nam Tư cho đổi tiền lần thứ 3 theo tỉ lệ 1.000.000 dinar cũ (thế hệ 3) đổi 1 dinar mới (thế hệ
4). Nhưng trước khi năm 1993 kết thúc, chính phủ phải in những tờ tiền có mệnh giá 500 tỷ dinar.
Năm 1994, Nam Tư cho đổi tiền lần thứ 4 theo tỉ lệ 1 tỷ dinar cũ (thế hệ 4) đổi 1 dinar mới (thế hệ 5).
Một tháng sau, nước này cho đổi tiền lần cuối cùng theo tỉ lệ 13 triệu dinar (thế hệ 5) đổi 1 novi dinar
(dinar thế hệ 6). (Thời điểm đổi tiền, 1 novi dinar có giá trị tương đương 1 đồng mác của Đức.) Như
vậy, 1 dinar thế hệ 6 tương đương với khoảng 1.3 × 1027 dinar thế hệ 1.
Lạm phát ở Nam Tư chạm mức 5 × 1015% (lạm phát tích lũy) trong thời gian từ 1 tháng 10 năm 1993
đến 24 tháng 1 năm 1994. Siêu lạm phát ở Nam Tư được chia làm 2 giai đoạn:  Giai đoạn 1: o
Thời gian: Tháng 9 đến tháng 12 năm 1989 o
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 12 năm 1989, tỷ lệ lạm phát: 59.7%  Giai đoạn 2: o
Thời gian: Tháng 4 năm 1992 đến tháng 1 năm 1994 o
Tháng có lạm phát cao nhất: Tháng 1 năm 1994, tỷ lệ lạm phát: 313.000.000% [29]
Zimbabwe[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Siêu lạm phát ở Zimbabwe
Tờ tiền 100 nghìn tỷ đôla Zimbabwe thế hệ 3 (10 đôla), có 14
giá trị bằng 10 (hoặc 1 tỷ tỷ tỷ) đôla Zimbabwe thế hệ 1. 27
Siêu lạm phát ở Zimbabwe là một trong số ít các trường hợp dẫn đến việc từ bỏ đồng nội tệ. Thời
điểm Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, một đồng đô la Zimbabwe (ZWD, thế hệ 1) đổi
được khoảng 1,25 đôla Mỹ. Tuy nhiên, lạm phát tràn lan và sự sụp đổ của kinh tế Zimbabwe đã làm
giảm giá trị đồng tiền. Lạm phát đã ổn định trước khi Tổng thống Robert Mugabe thi hành chính
sách cải cách ruộng đất vào năm 2000: Nông dân da trắng bị tịch thu toàn bộ đất đai và phân phối
lại cho nông dân da màu. Chính điều này đã dẫn đến sản xuất thực phẩm bị phá vỡ, doanh thu từ
xuất khẩu thực phẩm giảm mạnh và giảm nguồn vốn từ nước ngoài vào.[30][31] Kết quả là chính phủ
của ông Mugabe và Ngân hàng Dự trữ Gideon Gono phải in rất nhiều tờ tiền có mệnh giá cao hơn.
Siêu lạm phát đã bắt đầu từ sớm trong thế kỉ 21, đạt 624% vào năm 2004. Nó đã giảm xuống còn 3
chữ số nhỏ trước khi tăng trở lại lên 1.730% vào năm 2006. Ngày 1 tháng 8 năm 2006, Ngân hàng
Dự trữ Zimbabwe cho đổi tiền theo tỷ lệ 1.000 ZWD đổi 1 đôla thế hệ 2 (ZWN), nhưng lạm phát năm
tính đến tháng 6 năm 2007 đã lên đến 11.000% (so với dự báo 9.000%) trước đó. Trong năm 2008,
Ngân hàng Dự trữ Zimbabwe đã dần dần phát hành những tờ tiền có mệnh giá lớn hơn: 
5 tháng 5: Giấy bạc hoặc "séc vô danh" mệnh giá 100 triệu ZWN và 250 triệu ZWN.[32] 
15 tháng 5: Những tờ séc vô danh mới được đưa vào lưu thông, mệnh giá 500 triệu ZWN
tương đương 2,5 đôla Mỹ.[33] 
20 tháng 5: Tờ tiền mới ("séc nông nghiệp") được lưu hành, mệnh giá 5 tỷ, 25 tỷ và 50 tỷ. 
21 tháng 7: Séc nông nghiệp mệnh giá 100 tỷ ZWN.
Lạm phát ở Zimbabwe vào thời điểm 16 tháng 7 đã tăng lên 2,2 triệu % [34] và một số nhà phân tích
cho rằng lạm phát đã vượt qua mức 9 triệu %.[35] Thời điểm ngày 22 tháng 7 năm 2008, 688 tỷ ZWN
mới đổi được 1 đôla Mỹ, hoặc 688 nghìn tỷ ZWD.[36]
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, đồng đôla Zimbawe được định giá lại theo tỷ lệ 1010 ZWN đổi 1 đôla thế
hệ 3 (ZWR).[37] Ngày 19 tháng 8, con số lạm phát chính thức được công bố: lạm phát vào tháng 6 là
11.250.000%.[38] Thời điểm tháng 7 năm 2008, lạm phát năm của Zimbabwe là 231.000.000% (giá sẽ
tăng gấp đôi sau mỗi 17,3 ngày). Đến tháng 10 năm 2008, Zimbabwe bắt đầu sa lầy vào vũng bùn
mang tên "siêu lạm phát" với mức lương không thể đuổi kịp trước sự tăng tốc của lạm phát.
Trong nền kinh tế này, hoạt động của nhiều bệnh viện và trường học bị gián đoạn vì nhiều bác sĩ, y
tá và giáo viên không có khả năng trả tiền vé xe buýt để làm việc. Thủ đô của Zimbabwe, Harare,
gần như không có nước sinh hoạt. Trong lúc đang cần ngoại tệ để duy trì hoạt động của chính phủ,
thống đốc ngân hàng trung ương Zimbabwe, Gideon Gono đã cho người mang các vali chứa đôla
Zimbabwe chạy trên đường phố để tìm kiếm chỗ mua bán đôla Mỹ và rand Nam Phi.[39]
Từ sau tháng 7 năm 2008 trở đi, chưa có báo cáo chính thức nào về lạm phát của Zimbabwe được
đưa ra. Giáo sư Steve H. Hanke, để giải quyết vấn đề, đã tính toán tỉ lệ lạm phát ở nước này trong
giai đoạn sau tháng 7 năm 2008 và xưất bản các Chỉ số Siêu lạm phát của Hanke cho Zimbabwe.
[40] Các tính toán của Hanke (gọi tắt là HHIZ) đã chỉ ra rằng lạm phát năm đã đạt đỉnh ở mức 89.7
nghìn tỷ tỷ % (89.700.000.000.000.000.000.000%) vào giữa tháng 11 năm 2008. Tỉ lệ lạm phát
tháng cao điểm là 79,6 tỷ %, tương đương với tỉ lệ lạm phát ngày 98% và tỉ lệ hằng năm là khoảng 7
× 10108 %. Với tỉ lệ này, giá cả sẽ nhân đôi sau mỗi 24,7 giờ. (Lưu ý rằng phần lớn các con số tính
toán ở trên chỉ được xét chủ yếu trên lý thuyết, khi siêu lạm phát đã không duy trì ở tốc độ đó trong cả năm.) [41]
Vào thời cao điểm tháng 11 năm 2008, tỷ lệ lạm phát ở Zimbabwe đã tiếp cận (nhưng không phá
được) kỷ lục thế giới ở Hungary năm 1946. (Tháng 7 năm đó, tỷ lệ lạm phát ở Hungary là 4,19 tỷ tỷ
phần trăm.)[41] Ngày 2 tháng 2 năm 2009, đồng đôla đã được định giá lại lần thứ tư với tỷ lệ 1012 đôla
thế hệ 3 (ZWR) đổi 1 đôla thế hệ 4 (ZWL), chỉ 3 tuần sau khi tờ tiền 100 nghìn tỷ đôla được đưa vào
lưu thông (ngày 16 tháng 1),[42] nhưng siêu lạm phát đã suy yếu dần vì tỉ lệ lạm phát chính thức bằng
đôla Mỹ được công bố và các giao dịch nước ngoài được hợp pháp hóa,[41] và đến ngày 12 tháng 4,
đôla Zimbabwe chính thức bị loại bỏ khỏi lưu thông. 
Thời gian: Tháng 3 năm 2007 đến giữa tháng 11 năm 2008 
Tháng có lạm phát cao nhất: giữa tháng 11 năm 2008, tỷ lệ lạm phát: 79,6 tỷ %.[43]
Venezuela[sửa | sửa mã nguồn]
Siêu lạm phát ở Venezuela là siêu lạm phát mới nhất xảy ra trên thế giới. Là một trong những nước
có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, 90% thu nhập tài chính của Venezuela đều dựa vào xuất khẩu
dầu. Chính quyền của tổng thống Maduro cho rằng, các thế lực ngoại bang do Mỹ cầm đầu đã cấu
kết với các phe nổi loạn trong nước để phát động “chiến tranh kinh tế”. Trong khi đó, những người
phản đối thì cho rằng ông Maduro thi hành chính sách bất cập, khiến vật giá leo thang, thực phẩm
và thuốc men ngày càng thiếu hụt.
Tháng 1/2018, đồng nội tệ (bolivar) của nước này bị mất giá trị lên đến 98% so với cùng kỳ năm
2017. Thời đó, lương tháng tối thiểu của nước này là dưới 4 đôla Mỹ. Theo IMF (Quỹ Tiền tệ Thế
giới), tỉ lệ lạm phát tại nước này có thể lên đến hơn 1.000.000% (giá sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 2,3
ngày). Lạm phát ở nước này cao đến mức người dân phải tới các chợ đen ở ngoại ô thủ đô
Caracas để mua các nhu yếu phẩm khó tìm như xà phòng, dầu gội đầu, bột ngô hay gạo. Kinh tế sa
sút cùng với tình trạng thiếu thốn lương thực khiến cân nặng trung bình của người dân Venezuela
giảm xuống trung bình 11 kg trong năm 2017. Thời điểm đó, 90% dân số nước này sống trong
nghèo khổ. Ngoài ra, vì lạm phát quá cao nên người dân thường cân tiền thay vì đếm tiền như trước.
Cuối tháng 8 năm 2018, theo các thị trường chợ đen tại Venezuela, 6,6 triệu bolivar có thể đổi được 1 đô la Mỹ.
Sau đó, những biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng được Tổng thống Nicolas Maduro công bố
ngày 17/8/2018 và có hiệu lực vào ngày 20/8.
Các nỗ lực cải cách kinh tế bao gồm tăng lương tối thiểu lên 60 lần, giảm giá trị đồng tiền xuống
95%, xóa 5 số 0 trên đồng nội tệ bolivar, phát hành tờ tiền mới có tên Bolivar Soberano. 
Thời gian: Năm 2014 đến cuối tháng 8 năm 2018 
Tháng có lạm phát cao nhất: tháng 8 năm 2018, tỷ lệ lạm phát: 1.000.000%[47]
Một số ví dụ về lạm phát cao[sửa | sửa mã nguồn]
Một số quốc gia từng có tỷ lệ lạm phát cao, nhưng tốc độ chưa đạt đến định nghĩa về siêu lạm phát
của Gregory N. Mankiw: tỷ lệ lạm phát mỗi tháng trên 50% thì được gọi là siêu lạm phát.
Iraq[sửa | sửa mã nguồn]
Giữa năm 1987 và 1995, đồng dinar của Iraq đã mất giá nghìn lần, từ tỷ giá chính thức 0,306 dinar
đổi 1 đôla Mỹ (hoặc 3,26 đôla Mỹ đổi 1 dinar, mặc dù tỷ lệ trên chợ đen được cho là thấp hơn đáng
kể) xuống còn 3.000 dinar đổi 1 đôla Mỹ do chính phủ in ấn tiền mặt quá mức. Nó tương đương với
một tỷ lệ lạm phát trung bình năm lên tới 306% trong giai đoạn này.[44]
Mexico[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù giá dầu đã có giai đoạn tăng "nóng" vào cuối những năm 1970 (México chuyên sản xuất và
xuất khẩu dầu mỏ), Mexico vẫn vỡ nợ (nợ nước ngoài) vào năm 1982. Hậu quả là dòng vốn liên tục
tháo chạy khỏi Mexico và nước này phải gánh chịu siêu lạm phát cùng sự mất giá của đồng peso.
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Mexico đã ra mắt đồng tiền mới, đồng nuevo peso ("peso mới" hay
MXN), bỏ đi 3 chữ số 0 trong tờ tiền peso cũ, một tỷ lệ lạm phát lên tới 100.000% trong nhiều năm
diễn ra khủng hoảng. (Tỷ lệ đổi tiền là 1.000 peso cũ đổi 1 peso mới.)
Ai Cập (thuộc La Mã)[sửa | sửa mã nguồn]
Tại Ai Cập (lúc bấy giờ đang chịu sự thống trị của Đế chế La Mã), nơi mà một số tài liệu và giá cả
vẫn còn được lưu giữ lại cho đến ngày nay, giá của 1 kg lúa mì là 200 drachmae vào năm 276, và
tăng lên đến hơn 2.000.000 drachmae vào năm 334, một tỷ lệ lạm phát lên đến 1.000.000% trong thời gian 58 năm.[45]
Mặc dù giá cả tăng hơn 10.000 lần trong thời gian trên, nhưng do thời gian kéo dài tới 58 năm, nên
tỉ lệ lạm phát bình quân hằng năm chỉ có 17,2% mỗi năm.
Romania[sửa | sửa mã nguồn]
Romania đã từng có giai đoạn lạm phát phi mã vào cuối những năm 1990. Mệnh giá cao nhất ở
nước này vào năm 1990 là 100 lei và năm 1998 là 100.000 lei. Năm 2000 mệnh giá này là nửa triệu
lei. Năm 2005 con số này là 1 triệu lei. Lạm phát ở Romania năm 2005 là 9%.[46] Vào tháng 7 năm
2005 đồng lei cũ đã bị thay thế bởi đồng leu mới theo tỉ lệ 10.000 lei cũ đổi 1 leu mới. Tháng 7 năm
2005 mệnh giá cao nhất ở Romania là 500 leu (= 5.000.000 lei cũ).
Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Thời kỳ 1954 - 1975, ở miền Nam Việt Nam từng diễn ra một số đợt lạm phát rất cao do cung tiền
tăng quá nhanh (Mỹ đổ tiền viện trợ quá nhiều cho chính phủ Sài Gòn). Từ cuối năm 1973 đến cuối
năm 1974, khủng hoảng kinh tế do Mỹ cắt giảm viện trợ đã khiến lạm phát trong riêng năm này ở
miền Nam Việt Nam đã đạt tới trên 200%.
Cuối năm 1985, sai lầm về tổng điều chỉnh giá - lương - tiền đã khiến Việt Nam rơi vào tình trạng
lạm phát phi mã. Siêu lạm phát xuất hiện liên tục từ năm 1985 đến 1988, với tỉ lệ lạm phát từ 300%
đến 800% mỗi năm. Năm 1986, tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% khiến kinh tế rối loạn. Siêu lạm phát
vẫn tiếp diễn trong 2 năm sau đó (năm 1987: 323,1%; năm 1988: 393%). Đến năm 1989, lạm phát
mới xuống dưới 100% và Việt Nam mới thoát khỏi lạm phát.