Chùa Dâu
Chùa Dâu một trong những ngôi chùa cổ nht Việt Nam, nơi khi
nguồn của đạo Phật. Đây một trong những điểm du lịch tâm linh êu
biểu của tỉnh Bắc Ninh, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài
ớc đến hành hương, m hiểu về giá trị lịch sử.
Chùa Dâu một ngôi chùa nằm phường Thanh Khương, thị xã
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Nội khoảng 30 km. Đây trung
tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi
với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên ng tự,
Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm
nhất Việt Nam mặc các dấu ch vật chất không còn, nó đã được y
dựng lại. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây
cũng là một di ch quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt
4. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu.
Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (“ thn
y"), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (, "thần mưa"), chùa Tướng thờ Pháp
Lôi ( "thần sấm"), chùa Dàn thờ Pháp Điện ( "thần chớp") và chùa
Tthờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ
Phật còn thờ Tứ Pháp.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho
ợng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá
trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả
Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể
ớc cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì
Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là
trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của n ngưỡng này
ở cả vùng Dâu lẫn cả c.
* Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Đ
đầu ên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi
từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền Việt Nam.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là
ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt
Nam, được Nhà nước xếp hạng di ch lịch sử ngày 28 tháng 4 năm
1962.[1]
Chùa Dâu gắn liền với sự ch Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở
làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km. Chùa được xây dựng lại vào
năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ ếp theo. Vua Trn
Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu
thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.[1] Hiện nay, ở
tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và
thời nhà Lê.
*Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây
dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình
chnhật bao quanh ba ngôi nhà chính: ền đường, thiêu hương và
thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị
Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng
các vị Diêm Vương, Tam châu Thái t, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để
ợng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho
ợng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đt phần hậu
điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những
pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nthần Pháp
Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian
giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên
ởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai
bên là tượng Kim ĐồngNgọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong
đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của T
Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên
ợng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng
Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượngy
đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
ợng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên
đại thế kỷ 14. Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp
xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có
màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp,
nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững
chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ
"Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có
4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và
một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở
bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên
trái có tượng một con cừu đái 1,33 m, cao 0,8 m. Tượngy là
dấu vết duy nhất còn sót lại từ thi nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến
hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng ti chùa Phúc Nghiêm -
chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
*Lễ hội: được diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là lễ
hội gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong lễ hội còn có nhiều nghi
thức và các trò chơi dân gian.

Preview text:

Chùa Dâu
Chùa Dâu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nơi khởi
nguồn của đạo Phật. Đây là một trong những điểm du lịch tâm linh tiêu
biểu của tỉnh Bắc Ninh, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài
nước đến hành hương, tìm hiểu về giá trị lịch sử.
Chùa Dâu là một ngôi chùa nằm ở phường Thanh Khương, thị xã
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung
tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi
với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự,
Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm
nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây
dựng lại. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây
cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt
4. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu.
Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (“ thần
mây"), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (, "thần mưa"), chùa Tướng thờ Pháp
Lôi ( "thần sấm"), chùa Dàn thờ Pháp Điện ( "thần chớp") và chùa
Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho
tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá
trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả
Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể
rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì
Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là
trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này
ở cả vùng Dâu lẫn cả nước. * Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ
đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi
từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là
ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt
Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28 tháng 4 năm 1962.[1]
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở
làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km. Chùa được xây dựng lại vào
năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần
Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu
thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.[1] Hiện nay, ở
tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê. *Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây
dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình
chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và
thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị
Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng
các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để
tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho
tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu
điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những
pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp
Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian
giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên
tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai
bên là tượng Kim Đồngvà Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong
đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên
tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng
Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này
đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên
đại thế kỷ 14. Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp
xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có
màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp,
nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững
chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ
"Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có
4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và
một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở
bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên
trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là
dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:. Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến
hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm -
chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
*Lễ hội: được diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là lễ
hội gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong lễ hội còn có nhiều nghi
thức và các trò chơi dân gian.