Tài liệu Khoa học lãnh đạo | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Những tư tưởng “pháp trị” của Hàn Phi Tử. Nguyên nhân xuất hiện học thuyết Pháp trị. Nội dung của Pháp trị. Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi tử. Những ưu điểm , nhược điểm của học thuyết Pháp trị. Pháp trị - Học thuyết đề cao vai trò của luật pháp trong trị nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Khoa học lãnh đạo
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Mục lục : Mở đầu :
Chương I : Những tư tưởng “pháp trị” của Hàn Phi Tử
1. Nguyên nhân xuất hiện học thuyết Pháp trị
1.1 Do thực tiễn xã hội khủng hoảng đặt ra yêu cầu cho lí luận giải đáp.
1.2 Do sự bất lực của các học thuyết chính trị đương thời.
1.3 Sự ra đời của học thuyết Pháp trị đáp ứng những yêu cầu khách quan của lịch sử.
2. Nội dung của Pháp trị
2.1 Quan Niệm Về Bản Chất Con Người Trong Xã Hội
2.2 Quan niệm về người lãnh đạo
2.3 Quan niệm về quan hệ giữa người cai trị và kẻ bị trị
2.4 Quan niệm về những yếu tố chính trong quản lý xã hội
3. Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi tử
3.1. Vài nét về cuộc đời và tác phẩm của Hàn Phi Tử
3.2. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử
3.3. Tư tưởng pháp gia của Hàn Phi
4. Những ưu điểm , nhược điểm của học thuyết Pháp trị 4.1. Ưu điểm 4.2. Nhược điểm
CHƯƠNG 2 : Vận dụng các giá trị của học thuyết đức trị vào thực
hiện lãnh đạo , quản lí ở việt nam hiện nay
1. Pháp trị - Học thuyết đề cao vai trò của luật pháp trong trị nước
2. Trong quản lí xã hội hiện nay
3. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .
4. Các đặc trưng cơ bản của nhà nước Pháp quyền
5. Giải pháp cho “ pháp trị” trong quản lí nhà nước
6. Các nội dung cần thực hiện để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Kết Luận : Mở đầu
Trung Quốc cổ , trung đại là một trong hai trung tâm tư tưởng và văn hóa lớn của
thế giới cổ đại . Những tư tưởng triết học và văn hóa của Trung Quốc đã có ảnh
hưởng không nhỏ đối với nền văn hóa Việt Nam .Vì vậy nghiên cứu triết học Trung
Quốc cổ, trung đại là điều rất cần thiết để góp phần hiểu rõ hơn lịch sử tư tưởng
văn hóa phương Đông nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng .
Nói đến triết học Trung Quốc đó là sự phát triển của hệ thồng, triết học đồ sộ với
những trường phái chủ yếu có ảnh hưởng lâu dài trong lịch sử như Nho Gia, Đạo
gia , Pháp Gia, Âm Dương Gia . Triết học Trung Quốc ra đời và phát triển vào thời
kì Xuân Thu – Chiến Quốc từ thế kỉ VIII- thế kỉ III trước CN . Đó là thời kì tan rã
của chế độ phong kiến cát cứ chuyển sang chế độ phong kiến tập quyền, là một
thời kì với những biến động xã hội và những mâu thuẫn xã hội sâu sắc. Trong bối
cảnh đó một câu hỏi lớn đặt ra là làm thế nào xã hội chuyển từ thời loạn sang thời
trị . Vì vậy các nhà triết học cũng là các nhà chính trị đã bày tỏ quan điêm của
mình với những tư tưởng như “ Đức trị “, “ Vô vị trị “, “ Kiếm ái “ …. Những học
thuyết này đã được lịch sử Trung Quốc kiếm nghiệm song song chúng đều tỏ ra bất
lực vì không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc . Trong lúc đó học thuyết “ Pháp Trị ‘
của Hàn Phi Tử đã vươn lên trở thành đường lối chiến lược chính trị góp phần đưa
sự nghiệp thống nhất của nhà Tân đưa đến thằng lợi , thúc đẩy sự chuyển biến xã
hội Trung Quốc từ phong kiến sơ kì sang quân chủ chuyên chế đánh dấu một mốc
quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Không những thế những tư tưởng Pháp trị
của Hàn Phi Tử có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Việt Nam. Vậy nên việc nghiên
cứu và hiểu rõ học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử là một việc làm cần thiết . Nó
không chỉ giúp ích cho sự hiểu biết về học thuyết Pháp trị của Hàn phi Tử mà còn
còn giúp ích cho việc tìm hiểu trong việc tìm hiểu và góp phần sự kế thừa quan
điểm này ở Việt Nam như thế nào trong quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .
CHƯƠNG I. Những tư tưởng “pháp trị” của Hàn Phi Tử
1. Nguyên nhân xuất hiện học thuyết Pháp trị
Tất cả các học thuyết cũng như trường phái tư tưởng đều không thể tách rời
cuộc sống và luôn bị qui định bởi những điều kiện vật chất của xã hội. Sự ra đời
của học thuyết Pháp trị, có thể khái quát bởi một số nguyên nhân chủ yếu sau:
1.1 Do thực tiễn xã hội khủng hoảng đặt ra yêu cầu cho lí luận giải đáp.
Trải qua thực tiễn sản xuất lâu dài, người Trung Quốc cổ đại đã tích lũy được
nhiều kinh nghiệm phong phú ở nhiều lĩnh vực và khái quát thành những tri thức
khoa học ở trình độ tiên tiến. Những kinh nghiệm và tri thức khoa học đó đã được
vận dụng trong thực tiễn, góp phần quan trọng để thúc đẩy sản xuất đi lên. Đó là lí
do có thể giải thích vì sao trong điều kiện xã hội Trung Quốc cổ đại liên tục có
chiến tranh nhưng kinh tế vẫn không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu hết sức to lớn.
Khi mới thi hành chính sách phân phong, sự ràng buộc của nhà Chu đối với
các nước chư hầu, một mặt dựa vào quan hệ họ hàng, mặt khác dựa vào quan hệ
giữa tôn chủ và bồi thần, đã tạo ra một trật tự xã hội đẳng cấp ban đầu tương đối ổn
định. Nhờ đó mà nhà Chu và giai cấp thống trị đã tồn tại lâu dài trong lịch sử.
Nhưng đến thời Xuân Thu, mối quan hệ họ hàng đã trở nên xa xôi và nhà Chu với
tư cách là lãnh chúa lớn không còn đủ thế lực để bắt những người được kế thừa đất
phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Ở các nước chư hầu, tình hình cũng tương
tự: ngoài thái ấp là bổng lộc và ruộng đất được ban thưởng ra, các đại phu còn
tranh giành đất đai của nhau, thậm chí còn xâm chiếm đất đai của nhà vua và biến
dần thành ruộng đất tư của họ. Ở thời kì này, hiện tượng mua bán ruộng đất đã xuất
hiện, là kết quả tất yếu của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, đồng thời là việc
mua bán ruộng đất lại thúc đẩy chế độ ruộng đất tư phát triển nhanh chóng. Quan
hệ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất được hình thành và phát triển như một xu thế
không thể đảo ngược. Sang thời Chiến Quốc, chế độ ruộng tư càng phát triển
mạnh. Năm 359 TCN, nước Tần thực hiện cải cách của Thương Ưởng, tuyên bố bỏ
chế độ tỉnh điền, cho dân được mua bán ruộng đất. Quá trình tan rã của các chế
độ phân phong và tỉnh điền diễn ra song song với quá trình xác lập chế độ chiếm
hữu tư nhân về ruộng đất để phát triển thành quan hệ sở hữu thống trị. Từ chỗ là
cái tích cực ban đầu, chế độ ruộng đất của nhà Chu đã trở thành lạc hậu, cản trở sự
phát triển của lực lượng sản xuất và sự ra đời của quan hệ sản xuất mới tiến bộ là sự thay thế khách quan.
Chế độ phân phong, chế độ tỉnh điền, trật tự tông pháp bị phá bỏ là hệ quả tất
yếu của những mâu thuẫn đó. Đồng thời những mâu thuẫn kinh tế được biểu hiện
thành mâu thuẫn xã hội, giữa một bên là các tập đoàn thống tri với một bên là tầng
lớp địa chủ mới nổi và quí tộc chủ nô đang suy tàn, là nguyên nhân của tình trạng
cát cứ, tiếm ngôi, tranh giành bá chủ và khủng hoảng xã hội triền miên. Đó là thời
kì bá đạo lấn át vương
đạo và bạo lực, chiến tranh được xem là phương thức giải
quyết quan hệ giữa các nước. Xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ trải qua những biến
động lục sử lớn lao do những nguyên nhân nội tại và thực chất của biến động ấy là
bước chuyển từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn và phong kiến sơ kì sang hình thái xã
hội phong kiến tập quyền.
Chính trong bối cảnh thời đại biến động toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra
những vấn đề triết học, kích thích lòng người, khiến các bậc tài sĩ đượng thời quan
tâm lí giải, để tìm ra phương pháp giải quyết cứu người, cứu đời, làm nảy sinh một
loại các đại biểu và các trường phái tư tưởng nổi tiếng, đại diện cho lợi ích của các
tầng lớp, giai cấp xã hội khác nhau, vừa đấu tranh hết sức quyết liệt: Lão gia kêu
gọi vô vi, Nho gia chủ trương lễ trị, Mạc gia đề xuất kiêm ái, Pháp gia theo đường lối pháp trị…
1.2 Do sự bất lực của các học thuyết chính trị đương thời.
Lão Tử cho rằng xã hội loạn lạc là do con người vi phạm quy luật tự nhiên,
nên ông chủ trương vô vi nhi trị, khuyên mọi người từ bỏ mọi thành quả văn minh
và chạy trống vào tự nhiên, thoát li thực tế. Trang Tử, học trò của ông, lại muốn đi
về một nẻo xa hơn, bi quan yếm thế gần như thoát tục, chỉ còn mong “được làm
con rùa để lết cái đuôi trong bùn”. Khổng Tử cho rằng xã hội loạn là do lễ chế nhà
Chu buông lỏng nên chủ trương khôi phục lễ. Làm quan ở nước Lỗ trong vài
tháng, còn lại suốt cuộc đời ông chu du hơn mười nước để truyền bá chủ trương
của mình nhưng chẳng có ai nghe. Hơn 50 tuổi, ông về quê dạy học và đến cuối
đời cũng phải kêu lên: “Đạo của ta sắp mất rồi chăng?”. Gần 200 năm sau, trong
khi chiến tranh loạn lạc bên ngoài xã hội vẫn diễn ra gay gắt, Mạnh Tử tiếp tục tư
tưởng của thầy mình. Nhiệt tình, say mê với lí tưởng, ông cũng không tiếc sức
khuyên răn các bậc cầm quyền đi theo con đường vương đạo, lấy đức trị dân. Khi
sang nước Lương, được Lương Huệ Vương đón tiếp và hỏi: “Thầy chẳng quản
đường xa đến đây, chắc sẽ dạy cho quả nhân được điều gì có lợi?” Mạnh Tử đáp
rằng: “Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi; chỉ nên bàn về nhân nghĩa mà thôi”. Nước
Đằng nhỏ bé bị Tề, Sở ở hai bên lăm le thôn tính, gặp được Mạnh Tử sang truyền
bá vương đạo, Đằng Văn Công mừng rỡ hỏi thầy có cao kế gì cứu nước Đằng
trong lúc nguy nan, Mạnh Tử chỉ biết khuyên họ Đằng hãy lấy đức thu phục lòng
dân để vua tôi đồng lòng chống giặc, còn trường hợp không chống nổi địch thì
đành … bỏ đi nơi khác!
Là người đề xuất chủ trương Kiêm ái, kêu gọi xây dựng xã hội trên cơ sở tình
thương không phân biệt giai cấp, Mạc Tử cùng hàng ngàn đệ tử bôn ba truyền đạo
khắp nơi, song cuối cùng cũng chẳng được ai trọng dụng. Khổng Tử, Mạnh Tử,
Mạc Tử đều là những nhà tư tưởng lớn, nhiệt tình lo toan cứu đời, không quản thời
gian và nhiệt huyết để truyền bá chủ trương nhưng không một nhà cầm quyền nào
nghe theo; học thuyết tư tưởng của họ đều được ra đời tương đối sớm nhưng không
có một học thuyết nào trở thành hệ tư tưởng thống trị. Khổng Tử đứng trên lập
trường của giai cấp quí tộc cấp tiến; lập trường của Lão Tử là của giai cấp quí tộc
cũ đã suy tàn, Mạc Tử đại diện cho tầng lớp lao động bình dân … đều là những
giai cấp đã lỗi thời hoặc không giữ vai trò lịch sử tiên phong. Lịch sử đã tiến về
phía trước nhưng các ông lại muốn quay về quá khứ; trong khi mọi người cho rằng
sức mạnh là chân lí thì các vị lại kêu gọi đạo đức và tình thương (là những điều mà
ở thời điểm đó người ta đang muốn phế bỏ), cho nên học thuyết của các ông đều
mang tính không tưởng và không đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Sự bế tắc của
lí luận là một nguyên nhân kéo dài khủng hoảng xã hội của thời kì Xuân Thu – Chiến Quốc.
1.3 Sự ra đời của học thuyết Pháp trị đáp ứng những yêu cầu khách quan của lịch sử.
Trong bối cảnh lịch sử giao thời, những giá trị đạo đức cũ bị băng hoại, những
chuẩn mực mới chưa hình thành, xã hội ngày một rối ren. Thống nhất Trung Quốc,
chấm dứt chiến tranh trở thành yêu cầu bức thiết của xã hội. Vào lúc tưởng chừng
bế tắc đó, học thuyết Pháp trị đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử, đề xuất chủ trương
chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu. Các nhà Pháp trị cho rằng, đặc điểm
của thời đại lúc đó là tranh đua sức mạch, do đó không thể trông chờ vào đạo đức
và tình thương để tái lập trận tự xã hội mà phải dùng công cụ bạo lực để chấm dứt
sự hoành hành của bạo lực. Chủ trương của Pháp gia đã đứng trên mảnh đất của
hiện thực để giải quyết hiện thực.
Pháp trị là đại diện cho tiếng nói của tầng lớp địa chủ mới sinh ra trong quá
trình chuyển biến kinh tế - xã hội, từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, đem lại
sự phát triển mạnh mẽ cho kinh tế. Tầng lớp quí tộc mới nảy sinh trên nền tảng tư
hữu ruộng đất, có sức mạnh cả về kinh tế lẫn tri thức và mang một phong cách tư
duy mới: thực tế, thực tiễn. Là tiếng nói của giai cấp đại diện cho xu thế đi lên của
lịch sử, nên Pháp trị đã nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng để nhà Tần thực
hiện thành công sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.
2. Nội dung cơ bản của Pháp trị
Theo Hàn Phi để dựng nước và giữ nước bậc làm vua phải biết sử dụng thứ công
cụ vạn năng là pháp luật.
2.1 Quan Niệm Về Bản Chất Con Người Trong Xã Hội
- Giáo dục, thuyết phục không thể là phương tiện thay đổi tính ác của
con người thành tính thiện được, mà phải lấy cái ác để chế ngự cái ác.
- Ông đứng trên quan điểm vị lợi của con người để giải thích về mọi
quan hệ xã hội, kể cả quan hệ huyết thống.
- Ông cũng giải thích lòng vị kỷ, vụ lợi của con người lấy cơ sở là
những chuẩn mực giá trị mà xã hội coi trọng, đó chính là hệ thống chuẩn mực
giá trị liên quan tới quyền lợi vật chất, địa vị xã hội như tiền bạc, nhà cửa ruộng
vườn, chức tước, quan lại.
2.2 Quan niệm về người lãnh đạo
- Lãnh đạo là phải nắm vững nghệ thuật sử dụng và duy trì quyền lực
- Nhà lãnh đạo trị vì đất nước cũng phải biết cách dùng người, dụng
nhân như dụng mộc, tập hợp quanh mình bầy tôi giỏi để có thể trị quốc an dân.
- Một trong những bài học quan trọng nhất đối với nhà lãnh đạo là
phải hiểu được lòng dân
2.3 Quan niệm về quan hệ giữa người cai trị và kẻ bị trị
- Người cai trị có thể thực hiện ý muốn của mình đối với kẻ bị trị bất chấp sự chống đối
- Hàn Phi coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo;
- Đánh giá năng lực người quản lý, Hàn Phi nêu 3 mức:
Bậc vua thấp kém dùng hết khả năng mình;
Bậc vua trung bình dùng hết sức của người, của nhân dân;
Bậc vua cao hơn dùng hết trí của người, lúc đó vua như là thần;
- Hạn chế trong tư tưởng của Hàn Phi chính là mô hình quản lý pháp
trị cứng nhắc theo một trật tự quyền lực từ cao nhất đến thấp nhất trong bậc thang quyền lực
2.4 Quan niệm về những yếu tố chính trong quản lý xã hội a.Pháp
- Pháp là phép tắc, pháp luật có ba điểm chính yếu: 1) pháp luật do
người cầm quyền cao nhất (Vua) đặt ra; 2) nội dung chính yếu của pháp lệnh
là thưởng và phạt; 3) nguyên tắc của pháp là kịp thời, dễ hiểu, dễ thi hành;
công bằng và bênh vực kẻ yếu; được thực thi như nhau đối với tất cả mọi
người, mọi tầng lớp dưới vua.
- Trong quan điểm của Hàn Phi Tử pháp còn có nghĩa là lệnh “ cấm”, là
những gì kẻ thống trị đòi hỏi một chiều ở nhân dân, kẻ bị trị không có quyền
ngược lại. Ai làm đúng thì được thưởng, trái lệnh đó sẽ bị phạt bị trừng trị.
Thưởng và phạt là hai cái cán giúp cho thống trị kiểm soát, nô dịch nhân dân.
Để thực thi pháp có hiệu quả, trở thành một công cụ hữu hiệu thì kẻ thi
hành phải công bằng vô tư. Hàn Phi khẳng định “Phàm người rơi lệ, không
đành lòng gia hình cho kẻ khác là nhân: nhưng buộc không thể không gia
hình cho kẻ khác là Pháp”.
-Theo Hàn Phi, nội dung chính yếu của Pháp là thưởng và phạt:
+)Con người có tâm lý ham thưởng sợ phạt nên áp dụng thưởng phạt là
phương pháp cai trị hữu hiệu nhất.
+) Nếu vua chúa để mắt nhìn, để tai nghe và dùng đầu óc để suy tư thì dễ bị
thần thuộc và a dua, lừa bịp. Một khi đã áp dụng luật lệ thưởng phạt thì sẽ tránh
được những điều tệ hại đó bởi điều thưởng phạt là phán xét theo sự kiện khách
quan, việc gì đáng thưởng điều gì đáng phạt, đều được định sẵn bằng luật lệ minh
bạch, khỏi bị ảnh hưởng bởi tình cảm chủ quan.
+) Thưởng phạt là lợi khí sắc bén để vua chúa kiểm soát được thần thuộc.
- Trong đó Pháp là Pháp luật và phải gắn liền với thế và thuật. Pháp được ví
như cái dây, cái thước hay trật tự trong những tiêu chuẩn để đo lường hành vi con người. b.Thuật
Được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến
người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế
nào. Nhiệm vụ chính của thuật cai trị là phân biệt quan lại trung thành, tận tâm và
những quan lại ma giáo, thử năng lực của họ kiểm tra công trạng và những sai lầm
của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế.
Theo Hàn Phi “Thuật” có hai khía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật: là
phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại. Tâm thuật tức mưu mô để chế
ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.
Tâm thuật: có rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào
ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như ra lệnh
và ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác; Nói
ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ
bề tôi mình không cảm hóa được.
Kỹ thuật cũng được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng
người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn là: kẻ thân thích của vua
và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược điểm của vua
để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp gia chủ trương, vua phải:
Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; Không cho họ biết mưu tính của
mình; Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng phải
hỏi mình trước; Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng pháp
luật trong việc thưởng phạt họ; Xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ
không… Tìm kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì
xét xem ai là kẻ có lợi.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật dùng
người theo Pháp gia là thuyết Hình danh và Chính Danh, Thực Danh. Thuyết này
là Pháp gia kế thừa từ Khổng Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế,
không bàn về tri thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ
thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ở đây danh
là lời nói và hình là việc thực hiện. Chẳng hạn như một người hứa đến thăm ta, lời
hứa đó là "Danh" và hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người đó
đến thăm thực thì chứng tỏ danh và hình (hay danh và thực) hợp nhau gọi là chính
danh, ngược lại danh và thực nếu không hợp nhau, tức là chỉ có danh mà không có
hình hay không có thực nghĩa là không chính danh, từ đó sẽ căn cứ thưởng phạt
một cách nghiêm minh. Nếu pháp luật là danh thì sự việc là hình, sự việc hợp pháp
luật thì danh và thực hợp nhau. Nếu quan vị là danh thì chức vụ là hình, chức vụ
không hợp với quan vị thì danh và hình không hợp nhau. Thuật phải nắm được cái
cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi.Vua nắm
lấy danh còn bề tôi làm ra hình. Hàn Phi cho quy tắc hình và danh hợp nhau là
quan trọng nhất trong việc trị quan lại, nếu không theo thì sao có thể phân biệt
được kẻ hay người dở, người giỏi kẻ gian, khó thưởng phạt đúng được, như vậy
nước khó mà trị được.
Ngoài ba yếu tố trên, Hàn Phi còn coi trọng việc xây dựng quân đội hùng
mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Ông cũng rất chú trọng phát triển
nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng Pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc
lúc bấy giờ đòi hỏi các tư tưởng Pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới, hoàn
thiện và thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên
dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao
nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học
thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa
nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc sau
những năm dài chiến tranh khốc liệt. c.Thế
-Là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Thế tức là quyền thế, địa vị, thế
lực, quyền uy của người đứng đầu. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng
minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế".
Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: -
Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; -
Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. -
Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện
hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng
phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó dựa theo
nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng hậu, phạt
thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua phải
nắm hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc
hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy...
"Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của
đất nước, của vận nước. Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên
cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm
sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”.
3. Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi Tử
3.1. Vài nét về cuộc đời và tác phẩm của Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử (280 – 233 tr.CN) được coi là nhà tư tưởng số một của phái Pháp
gia thời Xuân thu – Chiến quốc. Ông là công tử con vua nước Hàn nhưng không
được kế vị ngôi báu vì không phải là con trưởng. Bản thân Hàn Phi Tử nổi tiêng là
người thông minh ham học và học rất giỏi, có năng khiêu đặc biệt về văn học. Do
ông có tật nói ngọng nên việc diễn đạt vấn đề thường bị hạn chế, trong khi tài năng
ăn nói lúc bây giờ trở thành vũ khí đặc biệt của kẻ sĩ nên ông dành hết tâm trí vào
cách viết để thuyết phục người đọc thông qua các tác phẩm của mình.
Xuất thân từ tầng lớp danh gia vọng tộc nên ngay từ nhỏ Hàn Phi Tử đã nhận
thức rõ mối quan hệ giữa nhà vua và bề tôi, mặt được và hạn chế của cách cai trị
lúc bây giờ. Chính vì vậy, điều ông canh cánh suốt cuộc đời là làm sao đưa ra được
cách trị nước tốt nhất để chân hưng nước Hàn.
Đến tuổi trưởng thành, Hàn Phi Tử theo học Tuân Khanh (tức Tuân Tử), là học
giả lớn và nổi tiếng bậc nhất lúc bây giờ. Ông kế thừa quan niệm nhận thức của
thầy Tuân Khanh, coi bản tính con người là ác, căm ghét mê tín, quỷ thần coi trọng
giáo dục, đề cao vua đời Hạ – Thương – Chu mà xem nhẹ vua Nghiêu – Thuấn vấn
là mẫu mực của Khổng Tử và các đại diện học phái Nho gia đương thời. Cùng học
vói Hàn Phi, có một người khá nổi tiếng sau này là Lý Tư. Cả hai cùng đi theo chủ
trương của Tuân Tử là dùng lễ để cai trị đất nước. Do lễ và pháp rất gần nhau nên
về sau Hàn Phi Tử đã nghiêng hẳn sang tư tưởng pháp trị. Xét về khía cạnh này,
ông triệt để hơn hẳn thầy dạy của mình.
Từ trường học của Tuân Tử ở nước Tể trở về, thấy nước Hàn ngày một suy
yếu, ông đã nhiều lẩn dâng thư cho vua Hàn mong muốn được thực hiện cuộc cải
cách toàn diện nước này, nhưng không được chấp thuận. Mong muốn từ nhỏ đã trở
nên vô vọng, ông quyết tâm xây dựng một học thuyết có tính hệ thống để cho đời
sau sử dụng với nội dung chủ yếu là phục vụ cai trị, quản lý đất nước.
Năm 224 tr.CN, nước Tần cho quân đội tiến đánh và chiếm được 13 thành của
nước Hàn, Hàn Phi lại nhiều lần dâng sớ lên vua Hàn để trình bày kế sách cứu
nước của mình nhưng vua Hàn không nghe lời tâu trình ông. Tuy nhiên, tập Đại
thành của ông đã đến tay vua Tần. Tần Thủy Hoàng đọc hai thiên Cô phẫn và Ngũ
đổ trong tác phẩm của Hàn Phi đã thán phục vô cùng, nghĩ đó là tác phẩm của bậc
tiền nhân, hận nỗi không gặp được tác giả. Lý Tư – tể tướng của nước Tần khi đó,
liền nói với Tần Thủy Hoàng rằng đó là bạn học của mình viết, ông đã thốt lên: “Ta
được làm bạn với con người này thì có chết cũng không uổng“.
Cùng thời điểm này, Hàn Phi Tử sang Tần làm nhiệm vụ cứu nước Hàn, cũng
là thực hiện lý tưởng của mình. Hàn Phi dâng vua Tần bài Tần Hàn, ra sức thuyết
phục nước Tần đừng đánh nước Hàn. Lý Tư cho rằng, Hàn Phi chỉ mưu cầu làm lợi
cho nước Hàn mà làm hại cho nước Tần, cùng với lòng ghen tài, đố kỵ, Lý Tư đã
thừa dịp nói xấu Hàn Phi để Tần Thủy Hoàng giam ông vào ngục. Trong ngục, Hàn
Phi viết bài Sơ kiến Tần, vua Tần xem xong vô cùng tâm đắc. Lý Tư sợ rằng vua
Tần thực sự muốn tin dùng Hàn Phi sẽ ảnh hưởng tới tiền đồ của mình, bèn cho
người ép ông phải uống thuốc độc tự sát. Một nhà tư tưởng có chí lớn chưa được
đem ra thi thố đã phải nuốt hận mà ra đi. Mười hai năm sau khi ông qua đời, Tần
Thủy Hoàng đã vận dụng học thuyết của Hàn Phi để thống nhất Trung Quốc. Tư
tưởng của Hàn Phi phù hợp với thời điểm lịch sử đó, phản ánh đúng xu thế phát
triển của xã hội, có tác dụng làm chuyển biến xã hội lên một tầm cao mới, đã được
nước Tần đón nhận và thực hiện.
Về tác phẩm, theo Tư Mã Thiên, sách của Hàn Phi gồm trên một vạn chữ.
Khoảng 300 năm sau khi Hàn Phi mất, Lưu Hướng thu thập các tác phẩm của ông
sắp thành 20 quyển gồm 55 thiên, trình bày những tư tưởng và đường lối cai trị đất nước của Hàn Phi Tử.
3.2 Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử
Lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất: Xuân thu và
Chiến quốc. Thời Xuân thu (770-403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, đây
chính là thời kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551-479 TCN).
Thời Chiến quốc (403-221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương, tới khi nhà
Tần diệt nhà Tề thống nhất đất nước, đó là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử (280- 233 TCN).
So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn định hơn về chính
trị, nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân Thu, công cụ sản xuất và
khí giới chủ yếu là bằng đồng. Sắt bắt đầu được dùng cuối thời kỳ này và trở nên
thông dụng vào thời Chiến Quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng đất đai nông
nghiệp, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ đạo đức suy đồi, người ta chỉ tìm
mọi cách để tranh lợi. Quan lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ lạc; chiến tranh
kéo dài liên miên khiến cho đời sống của nhân dân càng thêm đói khổ cùng cực.
Trước tình cảnh xã hội như vậy, tầng lớp quý tộc và tầng lớp trí thức có sự chia rẽ về tư tưởng.
3.3. Tư tưởng pháp gia của Hàn Phi
Thời Chiến Quốc chính là thời kỳ lịch sử phát triển rực rỡ về tư tưởng “trăm
hoa đua nở”, “bách gia chư tử”.
Ở thời kỳ này có 3 dòng tư tưởng lớn nhất cùng tồn tại đó là :
- Phái thứ nhất có Nho gia và Mặc Tử, Khổng Tử muốn khôi phục nhà Chu. Mặc
Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy quá, không cứu được, lại mong có vị
minh quân thay Chu thống nhất Trung Hoa bằng chính sách Đức trị có sửa đổi ít nhiều.
- Phái thứ hai, phái Đạo gia muốn giảm thiểu, thậm chí giải tán chính quyền, sống
tự nhiên như thuở sơ khai, từ bỏ xã hội phong kiến để trở về xã hội cộng sản nguyên thuỷ.
- Thứ ba, phái pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến phân tán và lập
ra chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo” của Khổng Mạnh
bằng chính sách “Bá đạo”.
Tư tưởng của Hàn Phi Tử: là dùng pháp trị nhưng lại trọng dân. Trước khi
đặt ra luật lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua; quy
tắc lập pháp phải lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải
công bố luật cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi nhiều, phải
“chí công vô tư”,”vua tôi, sang hèn đều phải theo pháp luật”, thưởng phạt phải
nghiêm minh, “danh chính, pháp hoàn bị thì bậc minh quân chẳng có việc gì phải
làm nữa, vô vi mà được trị”.
Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn thì gì thì cấp cho cái đó, không
muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra quan điểm: bản chất con
người là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp
luật để uốn nắn tính xấu của con người; theo các ông quản lý xã hội là vị Pháp chứ không vị Đức.
Hơn hai nghìn năm sau, tư tưởng vị lợi của Hàn Phi được tái hiện trong tư
tưởng “con người kinh tế” - cơ sở triết học của học thuyết quản lý theo khoa học
của Taylor và bản chất con người là lời nhác và ham lợi của “Thuyết X”,
được Mc. Gregor đưa ra. Thực dụng hơn, cực đoan hơn trong tư tưởng quản lý so
với thời Taylor. Hàn Phi đã mở rộng cái bản chất vị lợi đến mọi mối quan hệ gia
đình và xã hội. Chẳng hạn trong mối quan hệ cha - con, chữ “Hiếu” của Nho gia đã
bị thay thế bằng sự tính toán lợi hại tàn nhẫn. Chúng ta có thể cho rằng, Hàn Phi
là một người duy lý, duy lợi theo chủ nghĩa thực dụng. Song cũng phải thừa nhanạ
rằng ông có một trí tuệ rất sâu sắc. Và chính ông đã vì sự tồn vong của đất nước
mình mà phải chịu chết thảm, tuy rằng ông biết trước đó là số phận chung của các
pháp gia có tài và có tâm, nhiệt thành yêu nước. Kỳ lạ hơn, Hàn Phi đã vượt rất xa
thời đại mình khi ông nêu ra tư tưởng đấu tranh sinh tồn và giải thích nguyên
nhân của sự nghèo khổ là do dân số tăng lên quá nhanh, vượt xa sự gia tăng của
sản xuất (xem thiên ngũ đố). Hàn Phi nhắc các vị vua phải cứng rắn, nghiêm
khắc trong việc trị nước, đồng thời ông cũng mong muốn họ thực hiện chí công vô
tư, từ bỏ tư lợi, tà tâm cứ theo phép công mà làm thì nước sẽ thịnh: “Không
nước nào luôn mạnh, không nước nào luôn yếu. Người thi hành pháp luật (tức vua)
mà cương cường thì nước mạnh, người thi hành pháp luật mà nhu nhược thì nước
yếu... Cho nên ở vào thời kỳ này, nhà cầm quyền nào biết từ bỏ lợi, tà tâm mà theo
phép công thì binh sẽ mạnh, địch sẽ yếu”. Mặc dù dân trí thấp, người dân chỉ biết
cái lợi trước mắt..., nhưng Hàn Phi vẫn đề cao chính sách dùng người, tài năng của
nhà cai trị thể hiện ở việc dùng sức, dùng trí của người khác. Đây là một tư
tưởng rất sâu sắc về quản lý mà Hàn Phi đã nêu ra. Hàn Phi phát triển học thuyết
của mình trên cơ sở kế thừa của các pháp gia trước ông, nhưng phải đến Hàn Phi
thì nó mới trở nên sâu sắc, phổ biến với nhiều nội dung mới. Hàn Phi dùng chữ
“pháp” theo nghĩa phép tắc, còn pháp gia nới tới “pháp” là chỉ pháp luật. Hàn Phi
ví pháp luật với dây mực, cái quy, cái củ... tức là những đồ dùng làm tiêu chuẩn để
phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp không tách rời khỏi Thế và Thuật mà cùng
tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp phải kịp thời. Hàn Phi viết: “Thời thay
mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến
thì nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công” điều khiển hành
vi của mọi người. Trong các phạm trù cơ bản của pháp học thi pháp là quan trọng
nhất, sau mới đến Thế và Thuận. Hàn Phi đã kế thừa tư tưởng “vô vi” của Nho và
Đạo, biến nó thành thuật cai trị của vua chúa.
Trong cai trị - quản lý thì “tiên phú, hậu giáo”- trước hết là làm cho dân giàu
sau đó thì giáo dục họ. Trong giáo dục thì “tiên học lễ - hậu học văn”. Nho gia
chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học thuyết-phương pháp
Đức trị (Nhân trị). Ngược lại, Pháp gia đã đưa ra một học thuyết và phương pháp
cai trị mới - Pháp trị “Pháp bất vị thân”, pháp phải hợp thời, pháp luật phải soạn
sao cho dân dễ biết, dễ thi hành; pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ thiểu số;
thưởng phải trọng hậu, phạt phải nặng... Đó là tư tưởng về chính trị quản lý xã hội
còn có ý nghĩa đối với hiện nay.
Vậy, thành công lớn nhất của giai đoạn này, mặc dù còn bị hạn chế dưới giác
độ tư tưởng quản lý đã tạo lập nhiều quan điểm quản lý quan trọng thuộc phạm vi
quản lý vĩ mô, đã vạch ra được lôgích của quá trình quản lý xã hội bao gồm các
mức từ thấp đến cao: “Chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, đã đưa ra
được trình tự tiến hành các hoạt động quản lý: “trị đạo, trị học, trị thể, trị tài, trị
phong, trị thuật” mà ngày hôm nay trong quản lý nói chung, và quản lý kinh tế
nói riêng vẫn còn có thể khai thác và sử dụng tốt
4. Những ưu điểm , nhược điểm của học thuyết Pháp trị 4.1. Ưu điểm
Trong học thuyết Pháp Trị có rất nhiều các điểm tiến bộ mà đến ngày nay
vẫn còn giá trị trong việc xây dựng cũng như quản lý nhà nước pháp quyền XHCN.
- Nhà nước tập trung vào tay một người => Bảo đảm quyền lực thống
nhất không bị phân tán. Các hoạt động chính sách được thực hiện xuyên suốt,
không có sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái.
- Coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo, ông cho rằng “nhu cầu quan
trọng nhất của một quân vương là quyền lực” nên dễ dàng thực hiện, bắt buộc tuân theo.
- Chứng minh được hiệu lực tối ưu của pháp luật, tạo tiền đề hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tạo chuẩn mực mới điều chỉnh hành vi con người, các mối quan hệ trong xã hội.
- Coi trọng năng lực nhà lãnh đạo, khuyến khích và trọng dụng được
nhân tài => phát huy được hiệu quả trong quản lý. 4.2 Nhược điểm
- Bỏ qua giá trị nhân văn của con người và độc tôn pháp luật.
- Trị nước xuất pháp từ một phía duy ý chí, độc quyền,áp đặt và lạm dụng
quyền lực không đảm bảo quyền lợi của người dân dấn đến dân không ủng hộ => chuyên chế.
- Quá đề cao pháp luật, pháp luật mà học thuyết pháp trị đề cao là thứ
pháp luật hà khắc, tàn bạo khác xa với pháp luật ngày nay; con người phải vì
pháp luật, chứ pháp luật không vì con người; mặt khác pháp luật dù ở vị trí
thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người (nhà vua), gây nên sự
sợ hãi trong lòng người dân. Chiến tranh là nhân tố quan trọng trong cai trị.
- Pháp gia chỉ chú trọng đến hành chính, pháp luật và làm thế nào để
quốc gia phú cường chứ không trú trọng giáo dục dân, bất chấp nguyện vọng
của dân, bảo vệ giai cấp giàu và quý tộc “quan hệ giữa người quản lý và kẻ bị
quản lý là quan hệ một chiều trong đó có sự mâu thuẫn với nhau”
- Quan niệm về bản chất con người trong xã hội là quan điểm thực dụng,
bản tính con người là ác, chỉ nhìn thấy con người ở góc độ vụ lợi, cho đến nhà
nước , chỉ quy về chủ nghĩa thực dụng, không thấy được lý tưởng cao đẹp và
sắn sang quên mình cho lý tưởng ấy của những con người có tâm có đức.
- Tuyệt đối hóa pháp luật ở những khía cạnh biểu hiện cụ thể của nó, mà
không thấy được còn có những công cụ khác kết hợp để trị nước, ví dụ như kết hợp cả đức trị.
- Lý thuyết của học thuyết không thể thực hiện được nguyên nghĩa của
nó, khi mà xã hội còn tổ chức theo kiểu quân chủ chuyên chế, hình phạt
không áp dụng đối với vua và thiên tử, vì vậy cũng không thể tìm ra được cơ
chế bắt buộc nhà vua phải đề phòng cái họa từ trước.
- Quyền lực là tất cả, vua chúa phải nắm lấy quyền lực, chớ có chia sẻ
cho người ta, khi bề trên chia mất một quyền thì kẻ dưới sẽ lạm dụng
CHƯƠNG 2 : VẬN DỤNG CÁC GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT
ĐỨC TRỊ VÀO THỰC HIỆN LÃNH ĐẠO , QUẢN LÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Pháp trị - Học thuyết đề cao vai trò của luật pháp trong trị nước
Học thuyết Pháp trị do Quản Trọng, Thương Ưởng và Thân Bất Bại là người
khởi xướng. Tuy nhiên, công lớn phải kể đến là Hàn Phi Tử, ông là người đã đưa
phái Pháp gia trở thành một trong bốn trường phái lớn của hệ thống tư tưởng Trung
Quốc cổ đại (Nho, Pháp, Mặc, Đạo).
Trong đường lối chính trị của mình, Hàn Phi Tử phê phán mạnh mẽ lý thuyết
chính trị (Đức trị) của Nho gia, coi cách cai trị dựa trên nhân đức của nhà cầm
quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”) theo lý tưởng chính trị
của vua Nghiêu, vua Thuấn mà Nho gia đề xuất là trái với thực tế và nếu áp dụng
quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước. Hàn Phi Tử quan niệm, nhà vua cũng chỉ là
người bình thường như bao người khác, việc cai trị đất nước không chỉ dựa vào
nhân đức của người cầm quyền mà phải dựa vào pháp luật, coi pháp luật là yếu tố
then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh. Cái làm cho đất nước yên bình
hay loạn lạc không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào.
Trên cơ sở phê phán học thuyết Đức trị, Hàn Phi Tử quan niệm: “Bậc thánh
nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn,
cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để
chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh
không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa
lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và
tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước
nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi
hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật
yếu thì nước yếu”[2], Hàn Phi Tử đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp”
(dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a
quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất
phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Chính việc thi hành
pháp luật một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định là
tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc.
Để thực hành pháp trị hiệu quả, Hàn Phi Tử cho rằng phải xây dựng pháp
luật đúng đắn dựa trên các nguyên tắc: (1) Tính tư lợi, tức luật pháp đặt ra thì cái
lợi của nó phải lớn hơn cái hại. (2) Hợp với thời thế, tức là việc xây dựng pháp luật
phải phù hợp thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp
theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh
loạn...” [3]. (3) Ổn định, thống nhất, có nghĩa là mặc dù pháp luật phải thay đổi
cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được
tùy tiện thay đổi. (4) Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm. (5) Đơn giản mà đầy
đủ. (6) Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi Tử là: (1) Tăng cường giáo
dục pháp chế ( “dĩ pháp vi giáo”). (2) Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp
luật, từ thứ dân đến bản thân nhà vua cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật:
“Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công
lao”[4]. (3) Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, coi thưởng phạt là vũ khí
sắc bén để vua chúa kiểm soát được thần thuộc, không được tùy ý thưởng cho
người không có công, vô cớ sát hại người vô tội. (4) Dùng sức mạnh đạo đức để hỗ
trợ việc thực hiện pháp luật.
Hàn Phi Tử chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” và
“thế” để cai trị. Dùng “Thuật” để biết rõ kẻ ngay người gian, để điều khiển bề tôi,
đó chính là thủ đoạn của người làm vua để điều khiển các quan lại, phải giữ gìn
pháp luật và tuân theo mệnh lệnh. Còn “Thế” là uy thế, quyền lực mà người làm
vua triệt để sử dụng để trị nước. Điều này có thể thấy, Hàn Phi Tử đặt địa vị, quyền
lực lên trên tài đức. Ông cho rằng tài đức chỉ cần ở mức trung bình nhưng phải có
quyền lực, có chức vụ mới có thể quản lý được, chỉ khi nào nắm quyền thống trị
trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng.
Như vậy, với tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật và chủ trương xây dựng
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để trị nước, Hàn Phi Tử đã cho thấy những tư
tưởng tiến bộ vượt bậc của mình trong đường lối chính trị. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm vượt bậc, học thuyết Pháp trị còn mang tính cứng nhắc khi đồng
nhất việc cai trị dựa trên luật pháp với việc cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm
khắc, đồng thời ông cho rằng vua phải tuân theo pháp luật, song trên thực tế, vua là
người vượt lên trên pháp luật, vì mọi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều
nằm trong tay nhà vua. Điều này cho thấy, học thuyết Pháp trị thực chất cũng là
đường lối chính trị cốt yếu tăng cường sức mạnh của tập quyền quân chủ nhằm
củng cố vị trí thống trị của nhà cầm quyền trong xã hội phong kiến.
2. Trong quản lỹ xã hội hiện nay
- Nhà quản lý và việc áp dụng “Thuật”trong phương thức quản lý tổ chức
và quản lý xã hội, phải là người có trí tuệ cao, có năng lực đạt được mục tiêu
đề ra, sẵn sàng chịu trách nhiệm cá nhân; không nên ảo tưởng, không thành
kiến mà tỏ ra thực tế hơn.Phải đặt lợi ích của người dân, lợi ích chung của tập
thể lên hàng đầu, luôn lắng nghe ý kiến của người dân đồng thời phải phân
biệt được cái đúng và cái sai.
- Công bằng xã hội và dân chủ hóa pháp luật “Thưởng – Phạt” trong công
việc và chế độ đãi ngộ hiền tài.
- Có khả năng đóng vai trò là một cố vấn và tư vấn sáng suốt.Học tập và
vận dụng có chọn lọc linh hoạt sáng tạo những phương thức quản lý tổ chức
và kinh nghiệm quản lý của thế hệ đi trước.
- Nhà quản lý phải biết cách tìm kiếm cơ hội: Tìm kiếm và thực hiện các
cơ hội mới, động não và xác định những giải pháp sáng tạo cho những vấn
đề, suy nghĩ theo các cách khác nhau để tìm ra cách giải quyết, chủ động nắm
bắt các cơ hội để thu lượm thông tin, nhân sự có kinh nghiệm, các trang thiết
bị, thiết kế sản phẩm và dịch vụ, thị trường và tài chính, . . .
3. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .
- Vấn đề thực thi pháp luật và trách nhiệm của những nhà làm luật
- Hệ thống pháp luật đồng bộ và mục tiêu : “Lấy cong người làm trung
tâm” .Phải có hệ thống pháp luật nghiêm minh đồng thời phải áp dụng được vào
thực tiễn cuộc sống.Trong đối ngoại phải có chiến lược mền dẻo, đảm bảo quyền
và lợi ích của đất nước.
- Môi trường chính trị -xã hội và môi trường pháp lý- mối quan hệ biện
chứng không thể tách rời.
- Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện
nay, chúng ta nên tham khảo, tiếp thu những hạt nhân tiến bộ của học thuyết này,
như: đề cao pháp luật; pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội; Pháp luật phải
được thi hành triệt để, nghiêm minh. Những ai vi phạm pháp luật mà Nhà nước
đưa ra đều bị trừng phạt và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Quan niệm pháp quyền được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Tựu
trung, có ba quan điểm chính:
+ Một, hình thức luận: Không cần biết đến nội dung, chỉ cần mọi
luật lệ đều phải rõ ràng, bình đẳng, cố định và phổ quát.
+ Hai, bản chất luận: Mọi luật lệ đều nhằm bảo vệ một số hoặc toàn
bộ quyền của con người.
+ Ba, chức năng luận: một xã hội được xem là có tính pháp quyền cao
nếu nhân viên chính phủ có ít khả năng tự tung tự tác; ngược lại, sự tự
tung tự tác càng cao thì tính pháp quyền càng yếu và ít.
=> Học thuyết pháp trị do phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng
được yêu cầu của lịch sử. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì một yêu
cầu quan trọng là phải xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, tạo môi
trường pháp lý ổn định cho phát triển kinh tế- xã hội. Trên thực tế cũng xuất hiện
tình trạng chồng chéo, khủng hoảng thiếu hay thừa về luật trong một số lĩnh vực.
Pháp luật của chúng ta lại thiếu tính ổn định và sự cụ thể chặt chẽ; ý thức pháp
luật của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp dẫn đến việc coi thường trong
chấp hành hoặc áp dụng pháp luật tuỳ tiện... là những nguyên nhân của kỷ cương
phép nước không nghiêm. Những hạt nhân tiến bộ của Học thuyết pháp trị chắc
chắn sẽ cho chúng ta nhiều suy nghĩ trong công tác xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước và hệ thống pháp luật hiện nay.
*)Những nguy hại có thể mang lại khi áp dụng học thuyết pháp trị:
+Một là:Pháp trị dễ sai lầm ,vì quan niệm con người và sự vật một cách chủ
quan ,giáo điều ,đưa đến tổ chức xã hội xa rời thực tại.
+Hai là:Pháp trị dễ thống nhất mục tiêu và phương diện của quốc gia trong
ngắn hạn ,nhưng với thời gian nó lại hay đưa đến bất hợp tác, đới kháng ,thậm
chí đụng độ đẫm máu ,tiêu hao lực lượng.
+Ba là:Khi sai lầm rât khó sửa sai ,do ở nguyên tắc “Pháp bất nghị”
4.Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật,
trong đó pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân. Tính tối cao của pháp luật
thể hiện trên hai phương diện:
Thứ nhất: Đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, trong đó đề cao vai trò của
Hiến pháp và các đạo luật.
Thứ hai: Tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức
xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của
nhà nước và xã hội. Nhà nước trong thiết chế của nhà nước pháp quyền là nhà
nước tuân thủ pháp luật, mặc dù nhà nước là người ban hành ra pháp luật đó.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự
do, dân chủ của công dân. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên
bố các quyền tự do của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các
quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà
pháp luật không cấm trong khuôn khổ pháp luật, không xâm phạm đến tự do của
người khác, pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo trách nhiệm lẫn nhau giữa
nhà nước và công dân. Quyền của công dân là trách nhiệm của nhà nước và
ngược lại quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu
trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình còn công dân phải thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những hành vi vi
phạm pháp luật của mình.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước thích hợp và có cơ chế hữu hiệu giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý vi
phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, chống chuyên quyền, lạm quyền.
Sự phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền cho thấy những đặc trưng của
nhà nước pháp quyền thể hiện những tư tưởng, quan niệm tiến bộ trong quá trình
tìm tòi hình thức tổ chức, hoạt động của quyền lực công cộng trong một “xã hội
công dân” thay thế “xã hội thần dân”
5. Giải pháp cho “ pháp trị” trong quản lí nhà nước
* Phát huy tối đa các ưu điểm của học thuyết trong vận dụng vào quản lí nhà
nước về xã hội trong tình hình hiện nay.
- Vận dụng học thuyết vào quản lí có chọn lọc, linh hoạt sáng tạo, phù
hợp với điều kiện của từng quốc gia.
- Phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu trong việc bảo vệ hệ thống chính
trị và lợi ích nhân dân. Tiếp tục phát huy thực hiện công bằng xã hội, tạo đà cho
sự phát triển của đất nước.
* Khắc phục những thách thức của thời đại trong việc áp dụng thuyết vào quản