Tâm lý học sáng tạo - Tâm lý | Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Sáng tạo có thể được coi là quá trình tiến tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơsở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị. Cần phân biệt hai loại định nghĩa sáng tạo: định nghĩa mang tính thaotácvàđịnhnghĩamangtínhquan điểm (PhạmThành Nghị)
Môn: Tâm lý
Trường: Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47171770 1 lOMoAR cPSD| 47171770
CÁC CHỈ BÁO THUỘC TÍNH CỦA SÁNG TẠO
1. Định nghĩa sáng tạo
Sáng tạo có thể được coi là quá trình tiến tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơ
sở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị. Cần phân biệt hai loại định nghĩa sáng tạo: định nghĩa mang tính thao
tác và định nghĩa mang tính quan điểm (Phạm Thành Nghị)
Định nghĩa mang tính thao tác dựa chủ yếu vào tiêu chuẩn chủ quan và như vậy chưa đủ cơ sở để sử dụng
khung lý thuyết về sáng tạo, việc hình thành các lý thuyết sáng tạo chủ yếu vào các thừa nhận chung về tiêu
chuẩn và các đặc tính của các tiêu chuẩn đó.
Khung lý thuyết của sáng tạo có thể bao hàm hai thành tố cơ bản: “Một sản phẩm hay câu trả lời được gọi là
sáng tạo (a) chúng phải mới và phù hợp, hữu dụng, đúng hay có giá trị cho nhiệm vụ, công việc của con người
và (b) nhiệm vụ phải có tính trực giác chứ không mang tính logic”.
2. Tính nhạy cảm vấn đề
Phản ánh ở sự phong phú về cảm xúc, tình cảm của nhân cách, có những rung cảm, đồng cảm với người khác, với đồng loại.
Tính nhạy cảm còn chịu tác động của các yếu tố môi trường xã hội như văn hóa, tôn giáo, dân tộc.
Chỉ báo về tính nhạy cảm có vấn đề có thể là số lượng vấn đề, tình huống, bất ổn được phát hiện hay nghi ngờ. 3. Tính mềm dẻo
Là năng lực thay đổi dễ dàng, nhanh chóng trật tự của tri thức, thay đổi quan niệm, góc nhìn, định nghĩa lại sự
vật, hiện tượng, thay đổi phương pháp tư duy, phát hiện, tạo ra những mối liên hệ mới, đa dạng của sự vật hiện tượng.
Tính mềm dẻo của tư duy thể hiện sự thay đổi thái độ, nhiều khi đã là cố hữu trong hoạt động trí tuệ của con
người, dễ dàng chuyển từ hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác, điều chỉnh suy nghĩ khi gặp lại vấn đề tương tự.
Tính mềm dẻo thể hiện ở tính đa dạng trong phương án giải quyết vấn đề theo nhiều cách tiếp cận, xem xét sự
vật theo nhiều góc độ, cách nhìn nhận.
Chỉ báo để đánh giá tính mềm dẻo của tư duy là số lượng các nhóm câu trả lời, các thuộc tính, giải pháp
được phát hiện, tạo dựng.
4. Tính chi tiết đến hoàn thiện
Là sự thể hiện chi tiết, hoàn thiện của các ý tưởng, tình huống, giải pháp.
Chỉ báo để đánh giá mức độ chi tiết, hoàn thiện là số lượng các ý tưởng chit iết, cụ thể được ghi nhận.
5. Tính thuần thục
Là khả năng sử dụng các thao tác tư duy, kiến thức, thông tin một cách dễ dàng.
Chỉ báo để dánh giá tính thuần thục của tư duy là số lượng các ý tưởng, các giải pháp được đưa ra hay các
thuộc tính được phát hiện. 6. Tính độc đáo lOMoAR cPSD| 47171770 2
Là khả năng phát hiện những nét độc đáo, những mối liên hệ mới hay những giải pháp mới, hiếlạ trên cơ sở
những mối liên tưởng và những kết hợp mới với những kiến thức, kinh nghiệm đã có hay những giải pháp đã được xác định.
Nhận ra vấn đề mới, những bất cập, những cơ hội mới trong điều kiện quen thuộc, phát hiện ra những chức
năng mới của đồ vật là nền tảng cho tính độc đáo của tư duy.
Chỉ báo quan trọng để đánh giá tính độc đáo thể hiện sự hiếm lạ của những câu trả lời, giải pháp, tính chất được đưa ra.
Các thuộc tính của sáng tạo không tách rời nhau mà chúng có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau,
trong đó tính độc đáo được coi là quan trọng nhất trong biểu đạt sáng tạo. Tuy nhiên, tính mềm dẻo, tính thuần
thục và nhạy cảm vấn đề là cơ sở để có thể đạt được tính độc đáo và sự hoàn thiện.
CÁC BÀI TẬP ĐO THUỘC TÍNH CỦA SÁNG TẠO
1. Bài tập đo tính nhạy cảm vấn đề
Bài tập nằm trong môn Tiếng việt, luyện từ và câu dành cho học sinh lớp 4.
Mục tiêu của bài tập này là phát triển sự nhạy cảm với vấn đề, liên quan đến khả năng hiểu các và tìm ra điểm
bất thường của câu bằng cách giải thích điểm sai và đề ra cách sửa lỗi cho phù hợp. Thời gian: 10 phút
Nội dung: Nhận ra lỗi sai ngữ pháp và sửa lại mỗi câu sau đây:
a. Trên khuôn mặt bầu bĩnh, hồng hào, sáng sủa.
b. Để chi đội 5A trở nên vững mạnh, dẫn đầu toàn liên đội.
c. Qua bài thơ bộc lộ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Ví dụ: Cách 1: Thêm từ
a. Trên khuôn mặt bầu bĩnh, hồng hào, sáng sủa mồ hôi tuôn ra như mưa.
b. Để chi đội 5 A trở nên vững mạnh, dẫn đầu toàn liên đội tập thể lớp 5A cần phải đoàn kết phấn đấu nhiều hơn.
c. Qua bài thơ Tre Viết Nam, nhà thở đã bộc lộ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Cách 2: Bớt từ
a. Khuôn mặt bầu bĩnh, hồng hào, sáng sủa.
b. Chi đội 5 A trở nên vững mạnh, dẫn đầu toàn liên đội.
c. Bài thơ đã bộc lộ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng
2. Bài tập đo tính mềm dẻo
Bài tập “Hỏi nhanh đáp gọn”, nằm trong môn Kỹ năng sống dành cho học sinh lớp 4.
Mục tiêu của bài tập này là phát triển tính mềm dẻo bằng cách đưa ra vấn đề cho học sinh bằng cách đặt câu hỏi
liên quan đến bài học “Phòng tránh hỏa hoạn”.
Nội dung bài tập: Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh “Hãy nêu các vật dụng có chất liệu bằng giấy dễ gây hỏa hoạn” Thời gian: 10 phút
Ví dụ: Nếu học sinh chỉ trả lời là tập, sách, báo… thì chưa thể hiện sự linh hoạt, nhưng nếu học sinh trả lời là
búp bê, quần áo, bông hoa làm bằng giấy thì thể hiện sự linh hoạt.
3. Bài tập đo tính chi tiết đến hoàn thiện lOMoAR cPSD| 47171770 3
Bài tập “Hãy làm nên câu chuyện”, nằm trong môn Tiếng việt, kể chuyện dành cho học sinh lớp 4.
Nội dung bài tập: Yêu cầu học sinh tạo ra câu chuyện bằng cách sử dụng ba bức tranh khác nhau. Tính chi tiết
đến hoàn thiện thông qua bài tập này bằng cách nhân quả của các bức tranh đã cho và cụ thể hóa chúng. Thời gian: 10 phút
Bức tranh 1: Hình một cậu bé bán vé số
Bức tranh 2: Hình một chiếc xe hơi
Bức tranh 3: Hình một căn biệt thự
4. Bài tập đo tính thuần thục
Bài tập nằm trong môn Tiếng việt, luyện từ và câu dành cho học sinh lớp 4.
Mục tiêu của bài tập này là phát triển tính thuần thục của học sinh bằng cách nghĩ về càng nhiều câu để đặt với
thành ngữ đã cho sẵn trong một thời gian giới hạn. Thời gian: 10 phút
Nội dung bài tập: Đặt câu với thành ngữ sau (lưu ý không giới hạn câu) “Kề vai sát cánh” Ví dụ:
- Trong mọi công việc chung, chúng tôi luôn kề vai sát cánh với nhau.
- Các chú bộ đội luôn kề vai sát cánh bên nhau để chiến đấu quân thù.
- Mọi người trên khắp đất nước Việt Nam kề vai sát cánh bên nhau chiến đấu quân thù. …
5. Bài tập đo tính độc đáo
Bài tập nằm trong môn Tiếng việt, luyện từ và câu dành cho học sinh lớp 4
Chương trình này nhằm phát triển tính độc đáo của bạn thông qua hoạt động để tạo ra sự độc đáo và mới lạ Thời gian: 10 phút
Nội dung bài tập: Tìm từ ngữ chỉ đặc điểm, dấu hiệu của con người điền vào chỗ trống cho thích hợp nhằm diễn
tả sự vật bằng cách nhân hóa trong bài tập sau: “Vầng trăng” Ví dụ: - Vầng trăng hiền dịu.
- Vầng trăng đang cười với em.
- Vầng trăng tròn có gương mặt bầu bĩnh. …
VAI TRÒ CỦA 5 THÀNH TỐ TRONG SÁNG TẠO
1. Kiến thức đã biết
Bài nghiên cứu “Sáng tạo: Nền tảng kiến thức và trẻ em” (Creativity: the knowledge base and
children) của tác giả John F. Feldhusen cho rằng tư duy sáng tạo phụ thuộc vào cơ sở kiến thức. Việc quan sát
chặt chẽ quá trình tư duy sáng tạo của trẻ minh họa rõ ràng vai trò quan trọng của nền tảng kiến thức. Quá trình lOMoAR cPSD| 47171770 4
này lần đầu tiên được Thurstone (1936) xác định là trí thông minh và sau đó được gọi là chức năng sáng tạo
trong cấu trúc trí tuệ của Guilford (1967). Torrance tiếp tục xác định cấu trúc của sự sáng tạo với bốn quy trình
cơ bản: tính hiệu quả, tính khả thi, tính độc đáo và sự trau chuốt. Tuy nhiên, tính độc đáo có thể được coi là bản
chất của sự sáng tạo hoặc sản phẩm cuối cùng của nó.
Các hoạt động nhận thức của sự sáng tạo trong giai đoạn đầu vào hoặc giai đoạn học tập có thể đơn giản được
coi là học các thông tin khai báo và phát triển cơ sở kiến thức. Quá trình truy xuất là tri thức, trong đó các phần
tử của cơ sở tri thức được ghi nhớ và liên quan đến một vấn đề, nhiệm vụ, nhu cầu hoặc các thành phần khác
của cơ sở tri thức. Trong giai đoạn hoạt động đầu tiên của quá trình sáng tạo, quá trình truy xuất hoặc truy xuất
dựa trên cơ sở tri thức khai báo và khi cần thiết, tri thức để giải quyết vấn đề hoặc đáp ứng nhu cầu, vấn đề hoặc
nhu cầu. Dựa trên cơ sở kiến thức có thể dành cho một hoặc nhiều đơn vị thông tin dường như giải quyết hoặc
liên quan đến vấn đề, nhu cầu. Về bản chất, khía cạnh truy xuất của thuần thục có tính chọn lọc và liên quan đến
nhu cầu, và về cơ bản là một quá trình kí ức. Giai đoạn thuần thục về cơ bản là một giai đoạn truy xuất hoặc
nhớ lại thông tin đã học trước đó. Thông tin có thể cần thiết để giải quyết một vấn đề, để thỏa mãn trí tò mò
hoặc để tạo ra một cái gì đó mới như một câu chuyện, một bài phát biểu, kế hoạch hoặc một tác phẩm nghệ
thuật. Những người làm việc có năng suất sáng tạo trong mẫu Terman và Oden (1947) thường được học nhanh
trong trường học, do đó có nền tảng kiến thức lớn và nâng cao và được đặc trưng bởi khả năng gắn bó lâu dài
với công việc. Tính độc đáo không phải là một quá trình nhận thức mà là phán quyết cuối cùng đưa ra về sản
phẩm sáng tạo. Khi làm như vậy, cá nhân sử dụng cơ sở kiến thức hoặc nhận thức về công việc và các phán đoán tương tự.
Không nghi ngờ gì rằng cơ sở kiến thức, được xây dựng dưới dạng trí nhớ dài hạn, và được phát triển thông qua
mã hóa chọn lọc, đóng một vai trò quan trọng trong tất cả các quá trình tư duy, hội tụ và phân kỳ. Vì vậy, nó là
một thành phần quan trọng của tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề. Kết luận của bài nghiên cứu là kiến thức
nền là một yếu tố chính trong quá trình tư duy sáng tạo. Scott (2000) cũng đã chỉ ra rằng đối với việc truy xuất
các vấn đề khó khăn từ việc lưu trữ dài hạn, yêu cầu tìm kiếm rộng hơn thông qua cơ sở kiến thức hy vọng bao
gồm thông tin được mã hóa có thể có liên quan hoặc liên quan đến nhiệm vụ đang thực hiện.
Khối lượng kiến thức có thể không quan trọng nhưng sự phân loại trong mã hóa và tính chọn lọc của truy xuất
là những yếu tố quan trọng đối với tính hiệu quả để thiết kế các sản phẩm sáng tạo. Mặc dù quy mô của cơ sở tri
thức chưa được đánh giá liên quan đến khả năng sáng tạo, nhưng nghiên cứu của Pollert (1973) đã xác định
rằng độ tuổi và thành tích học tập có mối tương quan cao. Hơn nữa, kết luận rằng các chuyên gia sáng tạo có cơ
sở kiến thức lớn tích lũy được trong thời gian 10 năm nghiên cứu (Ericsson, 1996) chắc chắn cho thấy rằng một
cơ sở kiến thức lớn là một thành phần không thể thiếu của hoạt động sáng tạo. Quá trình sáng tạo phụ thuộc rất
nhiều vào nền tảng kiến thức tái hiện quá khứ kỹ năng học tập. Tính linh hoạt được thể hiện chủ yếu dưới dạng
cá nhân yếu tố mở giúp tăng cường các hoạt động truy xuất đa dạng, nhưng nó cũng có thể một phần là yếu tố
nhận thức vì nó có tương quan khá cao với trí thông minh. Tính linh hoạt được thể hiện chủ yếu dưới dạng cá
nhân với nhiều kiến thức nói chung về thế giới xung quanh chúng ta và những kỹ năng chúng ta cần để nâng cao cuộc sống.
Bài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa quá trình quản lý tri thức và sự sáng tạo giữa các giảng viên trong trường đại
học” (Relationship between Knowledge Management Process and Creativity among Faculty Members in the
University) của nhóm tác giả người Iran với mục đích là nghiên cứu mối quan hệ giữa quá trình quản lý tri thức
và sự sáng tạo giữa các giảng viên trong trường. Nghiên cứu này được thực hiện bằng phương pháp tương quan.
Kết quả chỉ ra rằng có một mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa giữa kiến thức đã biết và sự sáng tạo. Sự sáng tạo
là kết quả của sự kết hợp giữa kiến thức hiện có và kiến thức mới (Kogut & Zander, 1992). Việc tái kết hợp kiến
thức mới và sẵn có chủ yếu dựa vào việc tạo ra và sử dụng kiến thức. Cả kiến thức và thông tin đều là nền tảng của sự sáng tạo.
Bài nghiên cứu “Khoa học thần kinh nhận thức của sự sáng tạo” (The cognitive neuroscience of creativity) của
tác giả Arne Dietrich thì cho rằng kiến thức rất cần thiết cho tư duy sáng tạo. Tuy nhiên, có ít sự thống nhất về
bản chất của mối quan hệ này. Một mặt, người ta cho rằng mối tương quan tích cực mô tả tốt nhất mối quan hệ lOMoAR cPSD| 47171770 5
giữa kiến thức và sáng tạo. Mặt khác, vì tư duy sáng tạo theo định nghĩa vượt ra ngoài kiến thức nên một số nhà
nghiên cứu khẳng định rằng quá nhiều kiến thức có thể hạn chế sự sáng tạo.
Đầu tiên, bắt buộc phải nhận thức rằng kiến thức và sự sáng tạo thu hút những bộ não khác nhau. Trong khi kiến
thức chủ yếu được lưu trữ, khả năng sáng tạo được kích hoạt bởi khả năng nhận thức. Theo đó, người ta có thể
tưởng tượng một cá nhân sở hữu kiến thức trời phú nhưng vỏ não trước kém nổi bật hơn. Một cá nhân như vậy
sẽ có kiến thức sâu sắc về một lĩnh vực cụ thể nhưng sẽ chỉ đóng góp nhỏ cho sự phát triển của nó. Đây khả
năng có thể giải thích cho nhận xét rằng lợi thế kiến thức không cấu thành sự sáng tạo. Trong nghệ thuật, người
ta lập luận rằng những hiểu biết sáng tạo không đòi hỏi kiến thức chuyên ngành. Âm nhạc hiện đại yêu cầu ít
kiến thức chính thức, thường là ít những hợp âm đơn giản. Tương tự, sự sáng tạo trong văn học và thơ không
dựa trên kiến thức đặc biệt về ngữ pháp hoặc bằng cấp về văn học so sánh. Một khi các kỹ năng diễn đạt cụ thể
được nắm vững, sự sáng tạo trong nghệ thuật dựa trên các phản ứng cảm xúc đối với các kích thích của môi
trường. Điều này không loại trừ khả năng nghệ sĩ sáng tạo sở hữu một bộ não cảm xúc được mài giũa tinh vi.
Mặt khác, đối với các ngành khoa học, những hiểu biết sâu sắc về sáng tạo, như cũng như sự thể hiện sáng tạo
của họ dưới dạng thiết kế và thực hiện các thí nghiệm, phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức cơ bản. 2. Cơ sở sinh học
Bài nghiên cứu “Khoa học thần kinh nhận thức của sự sáng tạo” (The cognitive neuroscience of creativity) của
tác giả Arne Dietrich. Bài báo này phác thảo một khuôn khổ của sự sáng tạo dựa trên cơ chế giải phẫu thần kinh
chức năng. Những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực khoa học thần kinh nhận thức đã xác định các mạch não riêng
biệt có liên quan đến chức năng não cao hơn. Cho đến nay, những phát hiện này vẫn chưa được áp dụng để
nghiên cứu về sự sáng tạo.
Theo định nghĩa, những hiểu biết sáng tạo xảy ra trong ý thức, đưa ra quan điểm rằng bộ nhớ hoạt động của vỏ
não trước chứa nội dung của ý thức. Khi sự sáng tạo là kết quả của sự kiểm soát có chủ ý, vỏ não trước trán
cũng thúc đẩy quá trình sáng tạo. Nếu vỏ não trước trán, cấu trúc thần kinh trục trung gian làm trung gian cho
hành vi sáng tạo, sự sáng tạo phải liên quan chặt chẽ đến vỏ não trước trán phát triển trong suốt cuộc đời. Vỏ
não trước trán là cấu trúc cuối cùng phát triển phylogenically và lên gen (Fuster, 2000). Ở người lớn, nó không
trưởng thành hoàn toàn cho đến đầu những năm 20 tuổi. Đây có thể là lý do chính đáng khiến khả năng sáng tạo
của trẻ em kém đi có cấu trúc và phù hợp. Xét về khung hiện tại, khả năng sáng tạo của trẻ em có thể được khái
niệm hóa phần nào hạn chế đối với quá trình xử lý tự phát. Tương tự như vậy, bằng chứng thực nghiệm gợi ý
rằng các chức năng trước trán là một trong những chức năng đầu tiên xấu đi khi về già. Những kết quả này cho
thấy rằng những người cao tuổi đang ít có khả năng ức chế các quy tắc đã học tốt và ít bị ảnh hưởng bởi các tín
hiệu môi trường ngay lập tức. Do đó, người ta sẽ mong đợi thành tựu sáng tạo đạt đến đỉnh cao vào giữa cuộc
đời ở đỉnh cao của năng lực trước trán.
Simonton (1997) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng “Năng suất sáng tạo là một chức năng của thời đại
nghề nghiệp, không phải niên đại”. Mặc dù tuổi nghề và tuổi theo thứ tự thời gian có mối tương quan cao, đến
sau kỷ luật thể hiện cùng quỹ đạo nghề nghiệp và mốc đất, cũng như tuân thủ quy tắc 10 năm (Simonton, 1997,
2003). Bởi vì phụ thuộc trước trán các chức năng tâm thần không suy giảm đáng kể cho đến khi về già tuổi tác,
sự khác biệt giữa niên đại và tuổi nghề nghiệp có thể được đáp ứng miễn là sự nghiệp của người sáng tạo bắt
đầu không ở độ tuổi cao. Trong trường hợp này, quỹ đạo sự nghiệp có thể bị thay đổi theo một hoặc nhiều cách
khác nhau do quá sớm (về tuổi nghề) suy giảm các chức năng trước trán, ngay cả khi người sáng tạo còn sống
cho đến tuổi rất già. Sự tò mò này được gọi là giả thuyết Planck, trong đó tuyên bố rằng những người trẻ tuổi dễ
tiếp thu sự đổi mới hơn. Điều tò mò hơn nữa là sự quan sát các nhà khoa học đã có những đóng góp to lớn,
mang tính cách mạng ngay từ đầu trong sự nghiệp của họ, hiếm khi tạo ra được một trong những tác động bình
đẳng ở độ tuổi nghề nghiệp cao, cho thấy rằng tuổi tác thay vì sự khác biệt cá nhân là nguyên nhân biến đổi.
Mặt khác, trong âm nhạc, sự sáng tạo đạt được đỉnh cao sớm và có thể duy trì cho đến tuổi già.
Người ta đã đề xuất rằng sự sáng tạo là ngẫu nhiên về mặt tự nhiên và rằng sự sáng tạo trong nghệ thuật và khoa
học “khác nhau ở mức độ mà quá trình ngẫu nhiên đó bị hạn chế” (Simonton, 2003). Trong cả hai ngành, sự lOMoAR cPSD| 47171770 6
khởi đầu của sự sáng tạo trùng với sự trưởng thành của trán vỏ não. Tuy nhiên, một sự khác biệt lớn giữa nghệ
thuật và khoa học là cái sau đòi hỏi sự thích nghi liên tục với một bộ quy tắc mới. Người già gặp ít rắc rối thích
ứng với quy tắc sắp xếp đầu tiên nhưng dường như không thể hiểu được quy tắc này khi nó thay đổi. Do đó, sự
suy giảm tính linh hoạt của nhận thức do lão hóa có thể ảnh hưởng đến các nhà khoa học dễ dàng hơn các nghệ
sĩ, người có thể tiếp tục hoạt động sáng tạo trên các quy tắc mà họ có được. 3. Cơ sở xã hội
Bài nghiên cứu “Sự sáng tạo bên ngoài trường học: Ảnh hưởng của gia đình Bối cảnh, Cách nuôi dạy con cái
được Nhận thức và Sau giờ học Hoạt động về Sáng tạo” (Creativity Outside School: The Influence of Family
Background, Perceived Parenting, and After-school Activity on Creativity) của nhóm tác giả người Trung Quốc.
Về phong cách làm cha mẹ
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng một môi trường gia đình đa dạng, cởi mở và hỗ trợ nhiều hơn có nhiều khả năng
để tạo điều kiện cho sự sáng tạo so với một môi trường gia đình bị ràng buộc, kiểm soát và không khuyến khích
hơn. Các mẫu tương tự có thể được tìm thấy trong các phong cách làm cha mẹ. Trong khuôn khổ của mình,
Baumrind (1966) đề xuất ba phong cách nuôi dạy con cái riêng biệt: dễ dãi, độc đoán và chuyên quyền. Cha mẹ
dễ dãi đặt ra những yêu cầu thấp nhưng được đáp ứng cao; cha mẹ độc tài đặt ra yêu cầu cao nhưng thể hiện khả
năng đáp ứng thấp; và cha mẹ có thẩm quyền đều có nhu cầu và khả năng đáp ứng. Nói chung, phong cách nuôi
dạy con cái độc đoán có tương quan tiêu cực với sáng tạo, trong khi hai phong cách còn lại tạo điều kiện cho
sáng tạo. Nói cách khác, cha mẹ kiểm soát quá mức có xu hướng làm giảm khả năng sáng tạo của trẻ, trong khi
sự tham gia của cha mẹ và sự ủng hộ quyền tự chủ của cha mẹ được thể hiện rõ ràng.
Tuy nhiên, ranh giới giữa sự kiểm soát của cha mẹ và sự tham gia của cha mẹ không phải lúc nào cũng rõ ràng.
Sự tham gia của các thành viên trong cuộc sống của trẻ em có thể vừa tạo thuận lợi vừa gây tổn hại đến khả
năng sáng tạo của trẻ em, tùy thuộc vào loại và mức độ tham gia của phụ huynh. Ren và cộng sự (2016) nhận
thấy rằng kiểm soát hành vi tích cực liên quan đến cả ba chiều của tư duy khác nhau (trôi chảy, linh hoạt và độc
đáo), trong khi tâm lý thì sự kiểm soát có liên quan tiêu cực đến chỉ sự trôi chảy và linh hoạt chứ không liên
quan đến tính độc đáo. Sự tham gia của cha mẹ với quá nhiều hạn chế bên ngoài, chẳng hạn như yêu cầu hiệu
suất cao hơn kỳ vọng, làm giảm khả năng sáng tạo của trẻ (Jankowska & Karwowski, 2019), trong khi sự tham
gia của cha mẹ với việc chấp nhận cao hiệu suất sẽ cải thiện khả năng sáng tạo của trẻ (Fan & Zhang, 2014). Sự
tham gia của phụ huynh vào các hoạt động liên quan đến trường học, do đó cần có sự tham gia thích hợp của
cha mẹ để phát triển khả năng sáng tạo. Hơn nữa, quan sát thấy rằng đối với những học sinh có động cơ tự chủ
thấp và cao, cha mẹ tương ứng giảm thiểu và tạo điều kiện cho tư duy sáng tạo của học sinh (Liu và cộng sự, 2013).
Về điều kinh tế của gia đình
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng kinh tế xã hội có thể dự đoán mạnh mẽ khả năng phát triển của trẻ
em. Trẻ em sinh ra trong các gia đình có điều kiện kinh tế cao hơn thường thể hiện mức độ sáng tạo cao hơn so
với trẻ em sinh ra trong các gia đình có điều kiện kinh tế thấp hơn. McDaniel (1973) đã thực hiện một nghiên
cứu trên 194 học sinh lớp 7 và nhận thấy rằng những sinh viên có điều kiện kinh tế cao hơn có khả năng sáng
tạo cao hơn những sinh viên có điều kiện kinh tế trung bình, với sự sáng tạo được quan sát thấy ở những học
sinh có điều kiện kinh tế thấp hơn. Forman (1979) đã tiến hành một nghiên cứu trên 129 học sinh lớp hai và
nhận thấy rằng những học sinh có nền tảng điều kiện kinh tế cao hơn cho thấy mức độ sáng tạo cao hơn những
học sinh từ các gia đình điều kiện kinh tế thấp hơn; tuy nhiên, sự khác biệt không đáng kể khi chỉ số IQ và
thành tích học tập đã được kiểm soát. Lichtenwalner và Maxwell (1969) cũng đã tiến hành một nghiên cứu trên
68 trẻ mẫu giáo, và kết quả cho thấy rằng sinh viên từ tầng lớp trung lưu thể hiện nhiều tiềm năng sáng tạo hơn
những sinh viên từ tầng lớp thấp hơn. Dai (2012) đã tiến hành một nghiên cứu trên 234 học sinh lớp 8 và phát
hiện ra rằng học sinh từ các trường học không thuộc các khu vực trung lưu thượng lưu cho thấy mức độ sáng
tạo cao hơn so với các học sinh từ các quận trong cộng đồng thành thị và cộng đồng có thu nhập thấp hơn.
Yang, Xu, Liu và Pang (2020) đã tiến hành một khảo sát 1.003 sinh viên đại học ở Trung Quốc, cho thấy rằng lOMoAR cPSD| 47171770 7
sinh viên từ các gia đình có điều kiện kinh tế cao hơn cho thấy mức độ cao hơn của lý tưởng sáng tạo. Mối quan
hệ này được trung gian bởi hy vọng và hiệu quả sáng tạo của bản thân.
Tóm lại, nhiều thập kỷ nghiên cứu đã chứng minh tầm quan trọng của môi trường gia đình đối với sự phát triển
sáng tạo của trẻ em. Những đứa trẻ có cha mẹ thể hiện sự tham gia tích cực hơn của cha mẹ và sự tự mãn, chẳng
hạn như khuyến khích trẻ khám phá sở thích của chúng, có xu hướng có mức độ sáng tạo cao hơn so với những
người có cha mẹ cho thấy sự tham gia của cha mẹ tiêu cực hơn và sự kiểm soát quá mức của cha mẹ, chẳng hạn
như với việc nuôi dạy con cái bằng máy bay trực thăng. Nghiên cứu này cũng nhấn mạnh rằng ảnh hưởng của
nền tảng gia đình, đặc biệt là điều kiện kinh tế, đóng một vai trò quan trọng trong phát triển sáng tạo. Như đã
lưu ý trong các nghiên cứu trước đó, các gia đình có sự an toàn về tài chính, giáo dục và tình cảm mang lại
nhiều tự do hơn cho con cái của họ để khám phá các sở thích và tìm kiếm cơ hội bên ngoài trường học.
4. Đặc điểm nhân cách
Định nghĩa nhân cách: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, quy định
hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó (Nguyễn Xuân Thức, 2007).
Bài nghiên cứu “Sáng tạo, thông minh và cá tính” (Creativity, Intelligence, and Personality) của nhóm tác giả
Frank Barron and David M. Harrington cho thấy việc tìm kiếm các đặc điểm tính cách gắn liền với thành tích và
hoạt động sáng tạo đã được các nhà điều tra thực hiện trong nhiều lĩnh vực và ở nhiều cấp độ tuổi bằng cách sử
dụng nhiều quy trình khác nhau và tiếp cận nhiệm vụ từ cả quan điểm nội bộ và liên lĩnh vực. Nghệ thuật
Các nghiên cứu về đặc điểm tính cách gắn với hoạt động nghệ thuật và thành tích sáng tạo liên quan đến trẻ em
mẫu giáo; trẻ em tiểu học; học sinh trung học; sinh viên đại học và sinh viên các trường nghệ thuật; nghệ sĩ
chuyên nghiệp. Tương quan tính cách của sự sáng tạo kiến trúc được nghiên cứu bằng cách sử dụng sinh viên
kiến trúc và các kiến trúc sư chuyên nghiệp. Các đặc điểm tính cách của các nhà quay phim bậc đại học cũng
được kiểm tra. Tính cách tương quan với các chỉ số toàn cầu hoặc nhiều lĩnh vực về thành tích sáng tạo, hoạt
động và danh tiếng đã được nghiên cứu ở trẻ em tiểu học; sinh viên đại học và thanh niên; giáo sư đại học; và
người lớn sống ở Calcutta. Các nhà điều tra đã nghiên cứu các đặc điểm tính cách liên quan đến việc viết sáng
tạo ở trẻ em tiểu học; học sinh trung học; sinh viên đại học và các nhà văn chuyên nghiệp.
Khoa học và công nghệ
Tính cách tương quan giữa thành tựu khoa học và sự sáng tạo đã được nghiên cứu ở trẻ em tiểu học; học sinh
trung học; sinh viên đại học, thanh niên và sinh viên sau đại học; nhà tâm lý học; nhà phát minh; các nhà toán
học; nhà hóa học và các kỹ sư và nhà khoa học nghiên cứu khác nhau. Âm nhạc
Đặc điểm tính cách của các nhạc sĩ sáng tạo ở Ấn Độ đã được nghiên cứu (Raychaudhuri 1966, 1967) cũng như
các đặc điểm liên quan đến cấp độ sáng tác âm nhạc trong một nhóm mẫu sinh viên âm nhạc (Khatena 1971b).
Sự xuất hiện của các đặc điểm cốt lõi
Các nghiên cứu thực nghiệm trong 15 năm qua về đặc điểm tính cách của những người làm công việc sáng tạo
mang lại ít bất ngờ. Nói chung, một tập hợp các đặc điểm cốt lõi khá ổn định tiếp tục xuất hiện như những mối
tương quan của thành tích và hoạt động sáng tạo trong nhiều lĩnh vực. Một biểu hiện của sự nổi lên rõ ràng của
các đặc điểm cốt lõi là sự phát triển của một số thang đo tính cách sáng tạo. Sau đó, bằng chứng khuyến khích
hợp lý về giá trị cấu trúc của các thang đo này đã xuất hiện. Một cuộc theo dõi 5 năm (Schaefer 1972) đã chứng
minh sự ổn định theo thời gian của một trong những thang đo này, và các nghiên cứu đã cho thấy mối tương
quan giữa các tỷ lệ rất cao. Mức độ của những mối tương quan này thiết lập sự tồn tại của một tập hợp các đặc
điểm cốt lõi liên quan đến thành tích và hoạt động sáng tạo trong một loạt các lĩnh vực. Sự xuất hiện nhất quán
của các mối tương quan nhất định về thành tích và hoạt động sáng tạo cũng dẫn đến việc Cattell phát triển một lOMoAR cPSD| 47171770 8
“phương trình sáng tạo” dựa trên kinh nghiệm cho 16 PF được sử dụng rộng rãi của ông. Để xác thực một phần
phương trình này, Csikszentmihalyi & Getzels (1973) đã áp dụng phương trình Cattell cho một mẫu các nghệ sĩ
sinh viên và nhận thấy rằng những sinh viên đó có điểm sáng tạo trung bình ở phân vị thứ tám mươi khi sử dụng
các tiêu chuẩn đại học. Tuổi
Sự gia tăng của các nghiên cứu về sự sáng tạo liên quan đến thanh thiếu niên và thanh niên đã tạo ra khả năng
tìm kiếm mở rộng những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong sáng tạo. Trong một phân tích về mối tương quan
tính cách liên quan đến sự sáng tạo ở nam giới vị thành niên và trưởng thành. Parloff và cộng sự (1968) đã xác
định một yếu tố mà họ gọi là “Hiệu quả có kỷ luật” có tương quan tích cực với các chỉ số về thành tích sáng tạo
ở nam giới vị thành niên và tiêu cực với các chỉ số về thành tích sáng tạo ở nam giới trưởng thành của họ. Sự
đảo ngược này đã được thảo luận ở một số thời điểm về tầm quan trọng tương đối của việc kiểm soát xung lực
trong các giai đoạn phát triển cá nhân và nghề nghiệp nhất định. Bằng chứng tương tự về sự đảo ngược tương
quan có thể có liên quan đến tuổi xuất hiện trong bằng chứng được báo cáo bởi Domino (1974), người cũng
nhận xét như vậy rõ ràng sự khác biệt tương quan liên quan đến tuổi liên quan đến sự tự tin trong các tương tác
giữa các cá nhân. Tương tự như vậy, sự thay đổi vai trò rõ ràng của năng lực tự điều chỉnh thành tích nghệ thuật
sáng tạo cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu dọc về trẻ em mẫu giáo (Harrington và cộng sự 1974) trong
đó các chỉ số về khả năng tự điều chỉnh có tương quan thuận và nghịch với thành tựu nghệ thuật sáng tạo. Đây
là một điểm quan trọng 16 PF được đưa ra như một chỉ số về tính cách sáng tạo toàn cầu, nhưng người ta vẫn hy
vọng rằng nghiên cứu sâu hơn sẽ cung cấp bằng chứng mà theo đó các trọng số phương trình khác nhau có thể
được phát triển cho các loại sáng tạo và tình huống cụ thể. Các chỉ số hoặc vật liệu tổng hợp tương tự cho một
số bản kiểm kê được sử dụng rộng rãi (Hall & Mackinnon 1969).
Bài nghiên cứu “Những người nhạy cảm thường sáng tạo hơn” (Sensitive individuals are more creative) của tác
giả Bridges, D (2019) cho thấy Sự khác biệt cá nhân về nhận thức, ảnh hưởng và tính cách đã được khám phá
rộng rãi như các yếu tố trong sự sáng tạo, nhưng việc xác định chính xác các yếu tố vẫn còn khó nắm bắt. Đây
đánh giá rằng một lỗ hổng lớn là thiếu nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự sáng tạo và tính khí, nắm bắt cốt lõi
dựa trên sinh học của tính cách, đặc biệt là các nghiên cứu về tính nhạy cảm. Sự nhạy cảm đã được liên kết với
sự sáng tạo trong giai đoạn và sơ khai làm việc nhưng hiếm khi được điều tra gần đây, đặc biệt là sử dụng các
định nghĩa gần đây chính xác hơn về độ nhạy cảm và đánh giá độ nhạy cảm và tính sáng tạo hiện đại, cũng
không có mối quan hệ đã điều tra. Đánh giá này cũng nhằm mục đích xác định các khả năng nhận thức đặc
trưng cho sự nhạy cảm và ý nghĩa của chúng đối với sự sáng tạo, kết luận rằng sự nhạy cảm trong định hướng là
đặc điểm quan trọng nhất trong tính nhạy cảm đa đặc điểm dự đoán khả năng sáng tạo cao hơn. Nhạy cảm, cởi
mở mọi người sáng tạo hơn do có sự tác động lẫn nhau phức tạp của nhiều đặc điểm và con đường sinh học, bắt
nguồn từ các gen tương tác với môi trường và bối cảnh kinh nghiệm để ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ
thống dẫn truyền thần kinh, độ nhạy thần kinh các cơ chế (đặc biệt là mức độ ức chế thấp hơn), và mạng lưới
não bộ để tự động chú ý và định hướng.
Một phân tích tổng hợp định lượng cho thấy hầu hết các cá nhân sáng tạo có nhiều khả năng cởi mở, hướng nội,
bốc đồng và hiển thị độ nhạy cao hơn với các trạng thái cảm xúc bên trong so với những người kém sáng tạo
hơn. Cởi mở là yếu tố nằm trong số các khía cạnh tính cách Big-Five với những điểm mạnh nhất mối quan hệ
với sự sáng tạo. Cởi mở là một khía cạnh chung của tính cách được đặc trưng là "chiều rộng, chiều sâu và tính
thẩm thấu của ý thức, và trong thời gian lặp lại cần phải mở rộng và kiểm tra kinh nghiệm " (McCrae & Costa,
1997), khuynh hướng tưởng tượng, tò mò, tri giác, sáng tạo, nghệ thuật, tư duy và trí tuệ, tất cả được gộp lại
dưới sự giải thích bao quát về nhận thức thăm dò (Deyoung và cộng sự, 2011). Tính cách cởi mở nắm bắt cốt lõi
nhưng khác biệt các phần tử của miền toàn cầu, đề cập đến sự tương tác với tri giác (để mở) và trừu tượng (dành
cho trí tuệ) thông tin (Deyoung và cộng sự, 2011), nhưng bao gồm cả trí thông minh.
5. Động cơ sáng tạo lOMoAR cPSD| 47171770 9
Định nghĩa động lực: Động lực theo Bedeian (1993) là sự cố gắng để đạt được mục tiêu của mỗi cá nhânĐộng
lực theo. Kreitner (1995) là một quy trình tâm lý mà nó hoạch định các hành vi cá nhân theo mục đích nhất
định. Động lực theo Higgins (1994) là lực đẩy từ bên trong cá nhân để đáp ứng các mong muốn chưa được thỏa mãn.
Bài nghiên cứu “Động lực và sáng tạo” (Motivation and Creativity) của tác giả Beth A. Hennessey cho thấy
theo thời gian, đã xuất hiện các cuộc điều tra và các phần lý thuyết thách thức quan điểm cho rằng phần thưởng
liên quan đến động lực thực hiện nhiệm vụ nội tại và hiệu suất sáng tạo. Những dữ liệu này và những dữ liệu
khác tương tự cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa ảnh hưởng tích cực, động lực nội tại và sự sáng tạo. Sự suy
giảm mối quan tâm nội tại và tiềm năng đột phá sáng tạo có thể xuất phát từ cảm xúc hoặc ảnh hưởng nhiều đến
suy nghĩ hoặc phân tích nhận thức (Hennessey, 2010). Những khám phá gần đây về mối liên hệ tiềm ẩn giữa
ảnh hưởng và khả năng sáng tạo đã cho thấy rằng, trong một số trường hợp nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đôi
khi có thể dẫn đến sự gia tăng khả năng sáng tạo. Cũng giống như các nghiên cứu về tác động lẫn nhau giữa
động lực bên trong và bên ngoài đã trở nên nhiều sắc thái hơn, thì các cuộc điều tra về vai trò của ảnh hưởng
cũng bắt đầu theo nhiều hướng khác nhau
George và Zhou đã phát triển mô hình “điều chỉnh kép” minh họa cách tâm trạng tích cực và tiêu cực có thể
tương tác trong các môi trường hỗ trợ để ảnh hưởng đến sự sáng tạo của nhân viên. Dựa trên quan điểm này,
Bledow, Rosing và Frese (2013) đã báo cáo dữ liệu cho thấy những gì họ gọi là "sự thay đổi tình cảm" trong đó
kết quả mang tính sáng tạo cao dẫn đến khi một cá nhân trải qua một giai đoạn ảnh hưởng tiêu cực, sau đó là
giảm ảnh hưởng tiêu cực và tăng ảnh hưởng tích cực. Ceci và Kumar (2016) cũng nhấn mạnh mối quan hệ tích
cực giữa ảnh hưởng tiêu cực và sự sáng tạo. Họ phát hiện ra rằng trong khi năng lực sáng tạo của sinh viên đại học không
có mối tương quan đáng kể với hạnh phúc, nó có tương quan đáng kể với điểm số trên các thang đo ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực cũng như với tổng tuyệt đối của chúng.
Một số cuộc điều tra thực nghiệm được xem xét, có lẽ là hầu hết các cuộc điều tra quan trọng về thế giới kinh
doanh, đã tập trung vào những người tham gia nghiên cứu đang sống, học tập và làm việc trong các môi trường
không phải phương Tây. Tuy nhiên, thật kỳ lạ, thỉnh thoảng mới có các nhà lý thuyết và nhà nghiên cứu đề cập
đến khả năng rằng mối quan hệ giữa định hướng động lực và sự sáng tạo trong một bối cảnh văn hóa có thể
khác biệt rõ ràng với mối quan hệ trong một bối cảnh khác. Mặc dù một số nhà nghiên cứu, ,ít nhất các nhà điều
tra đã hỏi xem nền văn hóa mà chúng ta sinh ra tác động như thế nào đến sự phát triển và hoạt động sáng tạo
của chúng ta. Như được giải thích bởi Csikszentmihalyi (1999), hành động sáng tạo cũng giống như sản phẩm
của những ảnh hưởng xã hội và văn hóa cũng giống như nhận thức hoặc tâm lý. Sáng tạo phải được nhìn nhận
và nghiên cứu như một hiện tượng được ngữ cảnh hóa cao. Trên thực tế, hầu hết mọi thứ chúng ta nghĩ rằng
chúng ta hiểu về sự sáng tạo và quá trình sáng tạo phụ thuộc vào văn hóa xã hội. Một lĩnh vực tâm lý học đã
được chứng minh là gắn trực tiếp với cả định hướng động lực và ảnh hưởng văn hóa tập trung vào sự khác biệt
của cá nhân. Có một số khác biệt đáng kể giữa quan điểm phương Đông và phương Tây về bản thân, và không
nơi nào những khác biệt này nổi bật hơn so với các so sánh giữa các nền văn hóa. Ở phương Đông, người ta
thường nhấn mạnh đến các lực kiểm soát do môi trường áp đặt, trong đó cá nhân được kỳ vọng sẽ thích nghi.
Người châu Á được cho là thực hiện điều định hình nhu cầu và mong muốn nội tại của họ để tối đa hóa sự phù
hợp với thực tế hiện tại. Ở phương Tây, mọi người được kỳ vọng sẽ vượt lên trên những ràng buộc áp đặt từ bên
ngoài và thậm chí thay đổi môi trường sống của họ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của chính họ. Theo tổng kết, các
xã hội châu Á có xu hướng đặt nhiều giá trị hơn vào động lực bên ngoài, trong khi các xã hội phương Tây coi
trọng động lực nội tại.
Các nhà điều tra và lý thuyết phải giải quyết khi khám phá mối liên hệ giữa động lực - sáng tạo giữa các nền
văn hóa. Có nhiều khả năng là các lớp học và nơi làm việc trải rộng trên toàn cầu được đặc trưng bởi các nhóm
động lực nhận thức - xã hội khác nhau rõ rệt, có thể tạo ra các mối quan hệ khác biệt rõ ràng giữa việc áp đặt
các ràng buộc bên ngoài, động lực nhiệm vụ và hiệu suất sáng tạo. Zhou & Su (2010) cho rằng một số phong
cách lãnh đạo nhất định có thể tác động đến động lực nội tại và khả năng sáng tạo tuần tự của nhân viên rất khác lOMoAR cPSD| 47171770 10
nhau ở một số nền văn hóa này so với những nền văn hóa khác. Morris và Leung (2010) đưa ra khả năng rằng
động cơ nội tại gắn liền với cơ hội đưa ra lựa chọn cá nhân cho người phương Tây, trong khi đối với người
khác, nó có thể đến từ việc có được những lựa chọn của một nhà lãnh đạo hợp pháp và được tôn trọng trong nhóm.
Tóm lại. trong nhiều thập kỷ, các nhà điều tra tập trung vào giao diện giữa động lực và sự sáng tạo tập trung vào
các nơi làm việc và lớp học của phương Tây, thường là người Mỹ, và các phát hiện từ nghiên cứu này sang
nghiên cứu khác hoàn toàn nhất quán. Việc áp đặt các ràng buộc bên ngoài được cho là có thể làm suy yếu động
lực và sự sáng tạo bên trong một cách phổ biến. Các mô hình đề xuất rằng khi động lực bên ngoài làm tăng
động lực nội tại (và sự sáng tạo). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà điều tra đã phát hiện ra khả năng
có thể thay đổi giữa các cá nhân cũng như sự thay đổi trong định hướng động lực và hiệu suất sáng tạo gắn liền
với sự khác biệt trong bối cảnh văn hóa (Iyengar & DeVoe, 2003). Tương tự như vậy, các trường học và công ty
đặt ra mục tiêu kích thích sự sáng tạo và đổi mới, phải đề phòng sự cám dỗ tìm kiếm một giải pháp khắc phục
nhanh chóng dưới hình thức áp dụng chung các kết quả nghiên cứu vào bối cảnh cụ thể của riêng họ. Các yếu tố
hỗ trợ động lực nội tại và sự sáng tạo trong một nền văn hóa có thể không có ảnh hưởng quan trọng, hoặc thậm
chí có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất sáng tạo của các cá nhân hoặc nhóm trong nền văn hóa khác. Và ngay
cả những người đang sống và học tập trong cùng một bối cảnh văn hóa cũng có khả năng bộc lộ những khác
biệt cá nhân quan trọng và phức tạp. Sự gia tăng của các nghiên cứu gần đây giúp chúng ta hiểu sâu hơn về
những cách mà định hướng động lực tác động đến hiệu suất sáng tạo. Có vẻ như có nhiều hơn một con đường
tạo động lực để sáng tạo, các nhà nghiên cứu phải làm việc để phát triển một mô hình hệ thống dựa trên thực
nghiệm về mối liên hệ giữa sự sáng tạo và động lực.