Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lenin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Bài viết này có thể thuộc môn học tư tưởng chính trị hoặc triết học xã hội, mà có thể là một phần của chương trình học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để chắc chắn, bạn nên tham khảo thông tin từ trường học hoặc giáo viên chuyên môn.

1
Theo quan nim ca ch nghĩa Mác - Lênin,
quan h sn xut quan h gia người vi ngưi trong quá trình sn
xut vt cht, bao gm: quan h s hu đối vi liu sn xut, quan h
trong t chc, qun quá trình sn xut quan h trong phân phi các
yếu t ca quá trình sn xut. Ba mt này thng nht vi nhau, to thành
h thng n định tương đối so vi s vn đng không ngng ca lc
ng sn xut. Toàn b các quan h sn xut to nên s h tng,
đóng vai t quyết định đối vi kiến trúc thưng tng nh ng đến
mi mt ca đi sng. Tính đúng đn ca quy lut quan h sn xut phù
hp vi trình đ phát trin ca lc ng sn xut đã đưc thc tin
chng minh đến nay vn n nguyên giá tr. Tuy nhiên, trong hi
hin đại, s phát trin mnh m ca khoa hc công ngh đã to ra s
phát trin t bc ca lc ng sn xut, khiến cho quan h gia
ngưi vi người trong quá trình sn xut tái sn xut hi biến đi
nhanh chóng phc tp vi nhiu biu hin mi t ra khi nhng
kiến gii ca các nhà sáng lp ch nghĩa Mác Lênin.Thc tế đó đòi hi
chúng ta không ch đứng vng trên lp trường mácxít, n phi vn
dng linh hot các hc thuyết khác v quan h s hu, quan h t chc,
qun sn xut quan h phân phi để phân tích, gii gii quyết
nhng vn đề thc tin đang đặt ra.
Vit Nam, quan h sn xut luôn đề tài thu hút đưc s quan tâm
ca gii nghiên cu lun các nhà hot động thc tin. Trước đổi
mi, các nghiên cu ch yếu tp trung lun gii cho tính tt yếu ca vic
quc hu a, tp th hóa các liu sn xut bn coi đây điu
kin để phát trin lc ng sn xut, xây dng nn kinh tế kế hoch.
K t Đại hi đại biu toàn quc ln th VI ca Đảng (tháng 12 năm
1986), vi ch trương đổi mi toàn din đt c, các nghiên cu v
quan h sn xut đã bám sát tiến tnh xây dng quan h sn xut mi
tiến b phù hp vi s phát trin ca lc ng sn xut. Cho đến nay,
đã rt nhiu công trình đề cp đến s biến đi ca toàn b quan h
sn xut hoc ca tng phương din trong quan h sn xut Vit
Nam. Tuy nhiên, nhng khái quát triết hc v thc trng biến đổi quan
h sn xut Vit Nam t năm 1986 đến nay, gm c nhng vn đề đặt
ra t thc trng biến đổi đó, vn n nhiu ni dung chưa đưc làm
sáng t.
Mt khác, t na cui thế k XX, ng vi s phát trin ca lc ng
sn xut do c động ca tình hình kinh tế - chính tr - hi, quan h
sn xut c quc gia không ngng biến đi. Nhiu đi ng s hu
mi xut hin, trong đó, s hu g tr ngày càng đóng vai trò quan
trng. Quan h t chc, qun sn xut không hp trong sn xut
đưc m rng đến các nh vc khác ca đi sng hi vi nhiu
hình pơng thc phong phú. Quan h phân phi không ch bao
gm phân phi các yếu t đầu vào đu ra ca quá trình sn xut
2
n thêm nhiu khách th phân phi mi cùng nhiu nh thc phân
phi đan xen. Nhng biến đổi trong quan h sn xut tác động mnh
m đến đời sng kinh tế - hi mi quc gia cũng nh quan h quc
tế. Trong bi cnh đó, nghiên cu v quan h sn xut đề i mang
tính thi s.
Vit Nam, trưc đổi mi, do nhn thc đơn gin v thi k quá độ lên
ch nghĩa hi, cho rng quan h sn xut th đi tc mt c,
t đó m đưng cho lc ng sn xut phát trin nên chúng ta đã thiết
lp quan h sn xut không hoàn toàn phù hp vi điu kin ca Vit
Nam. Chế độ công hu v liu sn xut, chế qun kinh tế kế
hoch hóa tp trung, quan liêu, bao cp phương thc phân phi
mang tính cht bình quân đã kìm hãm s phát trin, nguyên nhân góp
phn dn đến s trì tr, khng hong kinh tế - hi Vit Nam trong
thp niên 70 80 ca thế k XX. Trước đòi hi bc thiết ca nh hình
trong c tác động ca bi cnh quc tế, t năm 1986 đến nay,
quan h sn xut Vit Nam đã nhng biến đổi so vi thi k trước
Đổi mi, vn tiếp tc vn động không ngng.
S biến đi ca quan h sn xut đã góp phn quan trng to nên thành
tu ca công cuc đổi mi. Tuy nhiên, quan h sn xut Vit Nam
hin nay vn còn tn ti nhiu hn chế, bt cp, do đó kìm hãm s phát
trin ca lc ng sn xut i riêng phát trin kinh tế - hi nói
chung.
Quá trình xây dng nn kinh tế th trưng định ng hi ch nghĩa
Vit Nam hin nay đang đt ra yêu cu thiết lp quan h sn xut tiến
b phù hp vi trình độ phát trin ca lc ng sn xut. vy, nghiên
cu s biến đổi ca quan h sn xut t năm 1986 đến nay để xác định
nhng thành tu, đc bit nhng vn đề còn tn ti, vic làm cp
thiết.
T góc độ tiếp cn triết hc, cun sách Biến đổi ca quan h sn xut
Vit Nam hin nay: Thc trng nhng vn đề đặt ra phân tích các
nhân t tác động, thc trng biến đổi nhng vn đề đặt ra t thc
trng biến đổi ca quan h sn xut Vit Nam t năm 1986 đến nay
trên c ba mt ca quan h sn xut quan h s hu, quan h t
chc, qun sn xut quan h phân phi; qua đó, góp phn khng
định giá tr quan đim ca ch nghĩa Mác v quan h sn xut, góp phn
tng kết thc tin nhng biến đổi ca quan h sn xut Vit Nam trong
bi cnh hin nay.
| 1/2

Preview text:

1
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất, bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức, quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối các
yếu tố của quá trình sản xuất. Ba mặt này thống nhất với nhau, tạo thành
hệ thống ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực
lượng sản xuất. Toàn bộ các quan hệ sản xuất tạo nên cơ sở hạ tầng,
đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và ảnh hưởng đến
mọi mặt của đời sống. Tính đúng đắn của quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã được thực tiễn
chứng minh và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, trong xã hội
hiện đại, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã tạo ra sự
phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, khiến cho quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội biến đổi
nhanh chóng và phức tạp với nhiều biểu hiện mới vượt ra khỏi những
kiến giải của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin.Thực tế đó đòi hỏi
chúng ta không chỉ đứng vững trên lập trường mácxít, mà còn phải vận
dụng linh hoạt các học thuyết khác về quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức,
quản lý sản xuất và quan hệ phân phối để phân tích, lý giải và giải quyết
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Ở Việt Nam, quan hệ sản xuất luôn là đề tài thu hút được sự quan tâm
của giới nghiên cứu lý luận và các nhà hoạt động thực tiễn. Trước đổi
mới, các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cho tính tất yếu của việc
quốc hữu hóa, tập thể hóa các tư liệu sản xuất cơ bản và coi đây là điều
kiện để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế có kế hoạch.
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm
1986), với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, các nghiên cứu về
quan hệ sản xuất đã bám sát tiến trình xây dựng quan hệ sản xuất mới
tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cho đến nay,
đã có rất nhiều công trình đề cập đến sự biến đổi của toàn bộ quan hệ
sản xuất hoặc của từng phương diện trong quan hệ sản xuất ở Việt
Nam. Tuy nhiên, những khái quát triết học về thực trạng biến đổi quan
hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, gồm cả những vấn đề đặt
ra từ thực trạng biến đổi đó, vẫn còn nhiều nội dung chưa được làm sáng tỏ.
Mặt khác, từ nửa cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của lực lượng
sản xuất và do tác động của tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, quan hệ
sản xuất ở các quốc gia không ngừng biến đổi. Nhiều đối tượng sở hữu
mới xuất hiện, trong đó, sở hữu giá trị ngày càng đóng vai trò quan
trọng. Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất không bó hẹp trong sản xuất
mà được mở rộng đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội với nhiều
mô hình và phương thức phong phú. Quan hệ phân phối không chỉ bao
gồm phân phối các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất mà 2
còn thêm nhiều khách thể phân phối mới cùng nhiều hình thức phân
phối đan xen. Những biến đổi trong quan hệ sản xuất có tác động mạnh
mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia cũng nhờ quan hệ quốc
tế. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về quan hệ sản xuất là đề tài mang tính thời sự.
Ở Việt Nam, trước đổi mới, do nhận thức đơn giản về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, cho rằng quan hệ sản xuất có thể đi trước một bước,
từ đó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển nên chúng ta đã thiết
lập quan hệ sản xuất không hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Việt
Nam. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp và phương thức phân phối
mang tính chất bình quân đã kìm hãm sự phát triển, là nguyên nhân góp
phần dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong
thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX. Trước đòi hỏi bức thiết của tình hình
trong nước và tác động của bối cảnh quốc tế, từ năm 1986 đến nay,
quan hệ sản xuất ở Việt Nam đã có những biến đổi so với thời kỳ trước
Đổi mới, và vẫn tiếp tục vận động không ngừng.
Sự biến đổi của quan hệ sản xuất đã góp phần quan trọng tạo nên thành
tựu của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất ở Việt Nam
hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, do đó kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra yêu cầu thiết lập quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nghiên
cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất từ năm 1986 đến nay để xác định
những thành tựu, đặc biệt là những vấn đề còn tồn tại, là việc làm cấp thiết.
Từ góc độ tiếp cận triết học, cuốn sách Biến đổi của quan hệ sản xuất ở
Việt Nam hiện nay: Thực trạng và những vấn đề đặt ra phân tích các
nhân tố tác động, thực trạng biến đổi và những vấn đề đặt ra từ thực
trạng biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu, quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối; qua đó, góp phần khẳng
định giá trị quan điểm của chủ nghĩa Mác về quan hệ sản xuất, góp phần
tổng kết thực tiễn những biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.