Thực trạng và giải pháp chính sách tiền tệ của Việt Nam - Quản Trị Kinh Doanh | Trường Đại học Quy Nhơn
Thực trạng và giải pháp chính sách tiền tệ của Việt Nam - Quản Trị Kinh Doanh | Trường Đại học Quy Nhơn được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Quản trị kinh doanh (8340101)
Trường: Đại học Quy Nhơn
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN KHOA TCNH & QTKD
TIỂU LUẬN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NA M HIỆN NAY Giảng viên
: PGS.TS. Nguyễn Đình Hiền
Học viên thực hiện : Đàm Mạnh Hùng Lớp
: Cao học Quản trị kinh doanh K23A
BÌNH ĐỊNH, NĂM 2021
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Quy Nhơn đã
đưa môn học Kinh tế vĩ mô vào chương trình giảng dạy.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu ắ s c ế
đ n giảng viên bộ môn – PGS.TS. Nguyễn
Đình Hiền đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập
vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Kinh tế vĩ mô của thầy, tôi đã có thêm cho
mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ
là những kiến thức quý báu, là hành trang để tôi có thể vững bước sau này. Xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN Ề
V CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH - TIỀN Ệ
T ..................... 2
1.1. Chính sách tiền tệ ....................................................................................................................... 2
1.2. Chính sách tài khóa .................................................................................................................... 3
1.3. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ................................................................. 6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH – T Ề I N Ệ
T ......................................... 8
2.1. Khái quát chính sách tiền tệ của một số nước ......................................................................... 8
2.1.1. Chính sách tiền tệ của Mỹ ................................................................................................... 8
2.1.2. Điều chỉnh chính sách tài chính – tiền ệ
t của Trung Q ố
u c ............................................. 13
2.2. Đánh giá chính sách tài chính – tiền ệ
t của Việt Nam ........................................................... 15
2.2.1. Về chính sách tiền tệ .......................................................................................................... 15
2.2.2 Chính sách tài khóa ............................................................................................................ 21
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI ..... 24
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... 26
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính toàn cầu đặt ra những thách thức to lớn cho kinh tế thế
giới. Mọi quốc gia đều đứng trước sự lựa chọn khó khăn nhằm tìm kiếm chính sách kích
thích kinh tế một cách hiệu quả, phù hợp với thực tế của mỗi nước. Trên cơ sở phân tích
tổng quan về chính sách tài chính một ố
s quốc gia trên thế giới và thực trạng chính sách
tài chính – tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua, bài viết tập trung đánh giá chính
sách tài chính – tiền của Việt Nam, những mặt được và chưa được, đồng thời đề xuất
các giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách tiền tệ trong thời gian tới 1 CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.1. Chính sách tiền tệ
Là một trong hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, CSTT có tác dụng kích
thích tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô khí được thực hiện một cách phù hợp,
ngược lại, việc điều hành CSTT sai lầm chẳng những không đạt được mục tiêu kích
thích tăng trưởng mà còn đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn vĩ mô. Theo trường phái tiền tệ, CS T
T không phù hợp là nguyên nhân quan trọng nhất của bất ổn kinh tế vĩ
mô, điều này được lý giải qua sự thay đổi của cung tiền. Nếu các yếu tố khác không đổi,
cung tiền tăng lên sẽ làm giá cả tăng kéo theo sự bất ổn của sản lượng thực và thất
nghiệp, ngược lại, cung tiền giảm sẽ dẫn đến giảm phát, và sự bất ổn của sản lượng và giá cả.
Lịch sử đã chứng kiến không ít những sai lầm trong việc mở rộng tiền tệ để kích
thích tăng trưởng kinh tế, tạo nên những bong bóng tài sản Việc mở rộng tiền tệ một
cách nhanh chóng đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho cá nhân và doanh nghiệp trong nền
kinh tế tiếp cận tín dụng và sử dụng các khoản đó cho các hoạt động tiêu dùng và đầu
tư. Trong một thời gian ngắn, khi các tài sản trong nền kinh tế không đổi, tín dụng tăng
nhanh sẽ đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn mức cân bằng của nó, bao gồm cả giá
bất động sản và cổ phiếu. Nếu NHTW lúc này giới hạn tăng trưởng tín dụng vì sợ giá
tài sản tăng trưởng quá nóng hoặc lạm phát, sẽ làm giá tài sản rơi xuống (Allen và Gale,
2000). Trong trường hợp NHTW vẫn tiếp tục duy trì mức tăng trưởng tín dụng, bong
bóng giá sẽ vẫn vỡ vào một lúc nào đó, bởi vì các tài sản đang được định giá trên mức
cân bằng thực sự của chúng (Allen và Gale, 1998). Khi bong bóng tài sản vỡ, các ngân
hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản bởi các ngân hàng đang nắm giữ những tài sản thế
chấp đã mất giá trong khi phải chịu áp lực của những khoản huy động đến hạn phải trả.
Các ngân hàng buộc phải thu hồi nợ và thanh lý tài sản và càng làm trần trọng hơn cho
tình trạng lao dốc của giá tài sản. Ở mức nghiêm trọng hơn, khủng hoảng ngân hàng sẽ
nổ ra, nền kinh tế có khả năng rơi vào tình trạng suy thoái trong một thời gian dài sau
khi bong bóng vỡ (Allen và Gale, 2000). 2
Trường hợp của Nhật trong những năm 1980 là một ví dụ điển hình. Theo sau
chính sách mở rộng cung tiền của NHTW Nhật, chỉ số Nikkei 225 đã tăng lên 10.000
vào năm 1985, và đạt đỉnh 38.916 điểm vào 4 năm sau đó. Hai năm sau, khi bong bóng
thị trường chứng khoán (TTCK) vỡ đã châm ngòi cho một loạt bong bóng của các thị
trường khác vỡ theo, chỉ số Nikkei 225 và giá bất động sản rơi vào tình trạng lao dốc,
lãi suất giảm xuống mức âm chưa từng có trong lịch sử, nền kinh tế Nhật rơi vào tình
trạng trì trệ trong một khoảng thời gian dài (Frankel, 1993). Không chỉ ở Nhật, mà ở cả
rất nhiều những quốc gia khác cũng rơi vào hệ quả tương tự khi tham vọng vào mục tiêu
tăng trưởng, thực hiện CSTT mở rộng trong một khoảng thời gian dài Lingren và đồng
sự (1996) thống kê được rằng 73% các nước thành viên của IMF đã phải gánh chịu
khủng hoảng ngân hàng trong khoảng thời gian 1980 – 1996 mà trong đó, sai lầm của
CSTT mở rộng là một trong những nguyên nhân tại nhiều quốc gia.
1.2. Chính sách tài khóa
Thâm hụt ngân sách chính phủ là một trong những nguyên nhân trọng yếu gây
ra bất ổn kinh tế vĩ mô trong cả lý thuyết và thực tiễn. Tình trạng thâm hụt ngân sách
của một chính phủ ở bề nổi là do chi của ngân sách lớn hơn thu ngân sách. Có nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng này, nhưng cho dù là xuất phát từ bất cứ
nguyên nhân nào, tình trạng thâm hụt ngân sách luôn được xem là sự thất bại của chính
phủ trong việc kiểm soát và điều hành cán cân tài khóa. Tình trạng thâm hụt ngân sách
không phải lúc nào cũng nguy hiểm và không hẳn luôn gây ra những tác động xấu cho
nền kinh tế. Thâm hụt ngân sách chỉ nguy hiểm khi lớn và kéo dài. Mức độ lớn của thâm
hụt ngân sách được xem là nguy hiểm khi nó vượt qua tiêu chuẩn an toàn là tỷ lệ 5% so
với GDP của Ngân hàng Thế giới (NHTG). Tuy nhiên, ngân sách thâm hụt trong bao
lâu là nguy hiểm thì vẫn chưa có mức cảnh báo từ các nhà nghiên cứu.
Theo các lý thuyết đã được kiểm chứng trong thực tế, những tác động nguy hiểm
của tình trạng thâm hụt ngân sách đến nền kinh tế như sau:
Thứ nhất, theo quan điểm của trường phái tiền tệ, thâm hụt ngân sách có thể dẫn
đến lạm phát cao. Tác động này xuất hiện khi tham hụt ngân sách được NHTW tài trợ
dưới hình thức: (i) cho vay trực tiếp ngân sách hoặc (ii) mua các khoản nợ của chính
phủ tại thời điểm phát hành hoặc sau đó trên thị trường mở (Phonthivsky và đồng sự 3
2001). Hình thức tài trợ này cho ngân sách chính phủ sẽ làm tăng tiền Cơ sở, kéo theo
sự gia tăng trong lượng tiền lưu thông và dẫn đến tăng lạm phát (Gupta, 1992). Trường
hợp của Mexico những năm 1980 là một bằng chứng điển hình cho lý thuyết này. Đối
diện với tình trạng cán cân tài thâm hụt nghiêm trọng, Mexico đã liên tục phát hành tiền
trong nhiều năm liền, tiền cơ sở trong nền kinh tế tăng 80 – 90% mỗi nă , m làm lạm phát
cũng tăng 100 – 130 %. Các nghiên cứu thực nghiệm gần đây cũng cho thấy những kết
quả tương tự về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát. Nghiên cứu rộng
nhất được thực hiện bởi Fischer và các đồng sự (2002) trên 94 nền kinh tế đang phát
triển và phát triển đã đi đến kết luận: 1% tăng lên của tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với
GDP sẽ làm lạm phát tăng lên đến 4,25% và tình trạng thâm hụt ngân sách không ảnh
hưởng đến lạm phát ở các nền kinh tế có lạm phát thấp hoặc không ảnh hưởng đến lạm
phát ở giai đoạn lạm phát thấp ở các nền kinh tế thường xuyên đối mặt với lạm phát cao.
Nghiên cứu của Habibullah và các đồng sự (2011) trên 13 nền kinh tế ở khu vực châu
Á cũng đưa ra những kết luận tương tự.
Thứ hai, khi phần thiếu hụt của ngân sách chính phủ được tài trợ thông qua vay
nợ công chúng bằng hình thức phát hành trái phiếu, thâm hụt ngân sách làm tăng lãi suất
vay nợ trong nền kinh tế, làm giảm chi tiêu và đầu tư tư nhân (crowding out effects).
Theo Quanes và Thakur (1997 ), khách hàng mua trái phiếu chính phủ được phân thành
hai nhóm: ngân hàng và nhóm cá nhân, tổ chức phi ngân hàng. Trong trường hợp các cá
nhân và tổ chức phi ngân hàng là người mua trái phiếu chính phủ, lượng tiền nhàn rỗi
trong nền kinh tế sẽ chảy vào tài trợ cho thâm hụt ngân sách, làm giảm lượng cung vốn
trong nền kinh tế, gây áp lực làm tăng lãi suất, gây khó khăn cho các hoạt động kinh
doanh của khu vực tư nhân. Trong trường hợp các ngân hàng là người mua trái phiếu
chính phủ, có thể sẽ dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ trong hệ thống ngân hàng. Lúc này các
ngân hàng sẽ hỏi vay NHTW. Nếu NHTW quyết định bổ sung dự trữ cho các ngân hàng,
tiền cơ sở trong nền kinh tế sẽ tăng lên và lại gây áp lực lên lạm phát như trường hợp ở
trên. Nếu NHTW không bổ sung dự trữ cho các ngân hàng thương mại (NHTM ), hệ
thống ngân hàng sẽ thu hẹp tín dụng cho khu vực tư nhân, đẩy lãi suất vay nợ lên cao,
hệ quả là làm giảm tiêu dùng và đầu tư tư nhân. Như vậy, trong cả hai trường hợp, việc
sử dụng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để tài trợ thâm hụt ngân sách đều ảnh hưởng trực
tiếp đến lãi suất trong nền kinh tế, theo đó, làm giảm tiêu dùng và đầu tư tư nhân. Thâm 4
hụt ngân sách càng được tài trợ bằng nguồn này càng lâu, càng ảnh hưởng đến tăng
trưởng của nền kinh tế trong dài hạn.
Thứ ba, thâm hụt ngân sách làm xấu đi cán cân vãn lai, có nguy cơ dẫn đến tình
trạng thâm hụt kép (twin deficit). Theo các quan điểm truyền thống, khi một nền kinh tế
ở trạng thái toàn dụng, thâm hụt ngân sách sẽ làm gia tăng tất cả các thành phần của
tổng cầu, bao gồm cả nhập khẩu. Nếu xuất khẩu không gia tăng tương xứng với nhập
khẩu, thâm hụt ngân sách lớn sẽ làm cán cân vãn lai chuyển biến theo chiều hướng xấu.
Ở góc độ khác, mô hình của Mundel Flemming cũng giải thích rằng, việc tài trợ cho
thâm hụt ngân sách bằng cách vay nợ sẽ làm tăng lãi suất, theo đó làm đồng tiền lên giá,
làm giảm sức cạnh tranh thương mại, dẫn tới thâm hụt cán cân thương mại và cán cân
vãn lai (Hashemzadeh và Wilson, 2006). Những lý giải này mặc dù không nhận được
sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu lý thuyết nhưng được chứng minh bằng thực
nghiệm, điển hình là nghiên cứu của Kumhof và Laxton (2009): thâm hụt ngân sách lớn
và kéo dài có ảnh hưởng đến chuyển biến xấu của cán cân vang lại trong ngắn và dài
hạn, 1% tăng lên của thâm ụ
h t ngân sách sẽ làm cán cân vãn lai xấu đi 0,5% trong ngắn
hạn và 0,75% trong dài hạn (tại các nước lớn), 1% trong dài hạn (tại các nước nhỏ).
Thâm hụt cán cân vãn lai bằng chênh lệch giữa tổng tiết kiệm và tổng đầu tư hoặc bằng
tổng chênh lệch giữa tiết kiệm và ầ
đ u tư của chính phủ với chênh lệch giữa tiết kiệm và
đầu tư của khu vực phi chính phủ.
Thứ tư, thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài dẫn đến rủi ro khủng hoảng nợ công
của Hy Lạp năm 2011 cũng là một bài học cho các chính phủ trong điều hành chính sách
tài khóa (CSTK). CSTK lỏng lẻo và chi tiêu công quá mức trong nhiều năm liền làm
cho cán cân tài khóa của Hy Lạp ngày càng thâm hụt nghiêm trọng. Từ năm 2002 thâm
hụt ngân sách so với GDP của chính phủ Hy Lạp luôn cao hơn 5% (trừ năm 2006). Năm
2009, Con số này lên đến đỉnh điểm ở mức 12,9% khi chính phủ mạnh tay thực hiện gói
tài chính lớn nhằm vực dậy nền kinh tế dưới tác động của khủng hoảng tài chính 2008.
Tình trạng thâm hụt ngân sách cao và kéo dài dẫn đến hệ quả nợ công ngày càng gia
tăng. Năm 2009, tỷ lệ nợ công so với GDP đã lên đến 115,5%. 5
1.3. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
CSTK và CSTT là hai (2) nhóm chính sách kinh tế chủ yếu để đạt được các mục
tiêu cuối cùng cao nhất trong điều hành nền kinh tế là tăng trưởng và lạm phát thấp. Tuy
nhiên, hai nhóm chính sách này thông thường được điều hành bởi hai Cơ quan khác
nhau với những mục tiêu ưu tiên cũng khác nhau: NHTW điều hành CSTT hướng đến
ổn định giá cả, Bộ Tài chính (BTC) điều hành CSTK trọng tâm thúc đẩy các hoạt động
kinh tế để đạt được tăng trưởng và việc làm cao cho dù phải trả giá bằng lạm phát (Arby
và Hanif, 2010). Theo các nhà nghiên cứu, việc phối hợp CSTT và CSTK là cần thiết vì
các công cụ chính sách riêng lẻ thường có tác động đến nhiều hơn một mục tiêu chính
sách. Các công cụ này có thể giúp đạt được một mục tiêu chính sách nhất định nhưng
cũng có thể sẽ ảnh hưởng đến việc đạt được các mục tiêu chính sách khác. Ví dụ CSTK
mở rộng có thể giúp đạt được mục tiêu tăng trưởng nhưng cũng có thể sẽ làm gia tăng
lạm phát (nếu thâm hụt ngân sách được tài trợ bởi NHTW). Ngược lại, CSTT thắt chặt
nhằm chống lạm phát có thể sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng tưởng nếu NHTW tăng lãi
suất quá cao (Nguyễn Đỗ Quốc Thọ, 2011). Ngoài ra, theo Dixit và Lambertini (2001),
CSTT và CSTK đều có sự đồng thuận về mục tiêu cuối cùng là sản lượng và lạm phát,
dù trong số hai mục tiêu này trong mỗi chính sách là khác nhau, nhưng đó là cơ sở để
hai chính sách cộng sinh với nhau, tăng tính hiệu quả của cả hai chính sách và đạt được
kết quả điều hành lý tưởng. Lambertini và Rovelli (2004) đã chỉ ra rằng việc phối hợp
chính sách sẽ giúp giảm thiểu chi phí bình ổn lạm phát thông qua việc hỗ trợ cho CSTT
hoạt động thông suốt và ổn định. Chadha và Nolan (2003), sử dụng mô hình cân bằng
tổng thể động, khẳng định rằng ngay cả khi tính bền vững của CSTK không phải là vấn
đề cấp thiết thì CSTT và CSTK vẫn cần có sự phối hợp. Hơn thế nữa, Tabellini (1986)
chỉ ra rằng sự phối hợp phản ứng của hai chính sách với các cú sốc sẽ gia tăng tốc độ
hội tụ về trạng thái ổn định và đưa nền kinh tế gần hơn với mục tiêu hoạch định so với
kết quả điều hành của các chính sách thiếu đi sự phối hợp.
Mặc dù không có những kết luận mang tính nhất quán cao về những tác động có
thể gây ra cho nền kinh tế khi thiếu đi sự phối hợp của CSTT và CSTK, các nhà nghiên
cứu phần lớn đều cho rằng một hành động mang tính không phối hợp của một bên chính
sách không những làm chính sách còn lại không hiệu quả mà còn gây ra những tác động
trái chiều ảnh hưởng đến tính tin cậy của cả hai cơ quan điều hành là BTC và NHTW 6
(Arby và Hanif, 2010). Cụ thể hơn, Sargent và Wallace (1981) nhấn mạnh rằng do mức
thâm hụt ngân sách thường được xác định trước và không ổn định từ năm này qua năm
khác nên CSTT và lạm phát phụ thuộc vào sự biến động của thâm hụt ngân sách. Tác
giả cho rằng CSTK mở rộng, giảm thuế hoặc tăng chi tiêu ngân sách sẽ làm gia tăng
thâm hụt ngân sách, tích lũy nợ cho nền kinh tế. Khi tỷ lệ nợ so với GDP vượt quá một
giới hạn nào đó, thị trường sẽ không muốn nắm giữ trái phiếu chính phủ nữa. Để bù đắp
bội chi ngân sách, Chính phủ yêu cầu NHTW tạm ứng cho ngân sách mà thực chất là
việc phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt, dẫn ế
đ n lạm phát gia tăng. Tác giả kết luận
rằng để chống lạm phát, ngoài vai trò của NHTW còn cần có sự tham gia của cơ quan
điều hành ngân sách, nghĩa là cần có sự phối hợp của cả hai Cơ quan điều hành CSTT
và CSTK. Ở góc độ khác, Andersen (2002) còn chỉ ra rằng cái giá phải trả cho CSTK
bất hợp tác với CSTT là khá lớn khi có các cú sốc hệ thống và khi có nhiều cơ quan điều
hành chính sách ; ngược lại, khi chi phí bình ổn sẽ giảm đi trong trường hợp có các cú
sốc cục bộ và số lượng các cơ quan chính sách ít hơn. Blinder (1982) nhận thấy CSTT
và CSTK càng phối hợp chặt chẽ thì lợi ích thu được sẽ càng lớn. Hơn nữa, vì hai chính
sách này được thực hiện bởi hai cơ quan khác nhau, nên nếu không có sự phối hợp, kết
quả thường xảy ra nhất là CSTT thắt chặt quá mức trong khi CSTK mở rộng quá mức.
Khi đó lãi suất sẽ tăng lên rất cao, gây tác động tiêu cực đến khu vực doanh nghiệp và
nền kinh tế cả trong ngắn, trung và dài hạn. 7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
2.1. Khái quát chính sách tiền tệ của một số nước
Khủng hoảng tài chính 2007-2008, khơi nguồn từ khủng hoảng tín dụng và thị
trường nhà đất tại Mỹ, xuất hiện lần đầu tiên ở nước này từ tháng 7-2007 bằng dấu hiệu
về sự sụp đổ của thị trường bất động sản, một thị trường phát triển thái quá hơn nửa thập kỷ trước đ .
ó Từ tháng 9-2008, cuộc khủng hoảng bùng phát và lan rộng ra toàn cầu, kéo
theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính không lỗ, thị trường chứng khoán
toàn cầu tụt dốc. Khủng hoảng tài chính đã có tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu với
phạm vi và mức độ rất đáng báo động và không dừng lại ở phạm vi khủng hoảng hệ
thống ngân hàng đầu tư, Công ty bảo hiểm, mà đã lan sang hệ thống ngân hàng thương
mại và anh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp sản xuất, thương mại và dịch vụ Chính
phủ và Ngân hàng Trung ương các quốc gia buộc phải tiến hành các chính sách tài chính
để cứu vãn đất nước không bị rơi sâu vào suy thoái, đồng thời tạo Sức bật mới cho nền kinh tế.
2.1.1. Chính sách tiền tệ của Mỹ
Chính sách tiền tệ năm 2008
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ chính nước Mỹ khiến cho mức độ ảnh hưởng
của nó đến nước này càng thêm nghiêm trọng. Nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu tồi tệ trông
thấy kể từ tháng 12-2008 với mức giảm đồng loạt ở nhiều ngành công nghiệp. Doanh số
bán lẻ của cả nước trong tháng 12-2008 giảm 2,7% so với tháng 11 và là mức giảm trong
6 tháng liên tiếp. Năm 2008 đã trở thành nằm đầu tiên kể từ năm 1992 doanh số bán lẻ
ở Mỹ sụt giảm, thấp hơn 0,1% so với năm 2007. Sự sụt giảm trong chi tiêu của người
Mỹ là yếu tố quang trong nhất đưa tới sự sụt giảm hiện nay của nền kinh tế, vì chi tiêu
tiêu dùng chiếm 2/3 tổng hoạt động kinh tế của nước Mỹ. Đứng trước tình hình này,
Chính phủ Mỹ đã có những phản ứng hết sức quyết liệt nhằm đưa ra những quyết sách kịp thời.
Từ đầu năm 2008, khi phải đối mặt với dấu hiệu đi xuống đầu tiên của nền kinh
tế, Chính phủ G.Bush, ngoài gói giải cứu tài chính (financical bailout), đã đưa ra gói tài
chính lần thứ nhất trị giá 152 tỷ USD và được Quốc hội Mỹ thông qua ngày 13-2-2008. 8
Tiếp đến ngày 17-2-2009, Tổng thống Mỹ B.Obama đã ký phê chuẩn gói tài chính kích
cầu thứ hai trị giá 787 tỷ USD (nay đã lên đến 825 tỷ USD) với mục tiêu giúp nền kinh
tế Mỹ thoát khỏi tăng trưởng âm. Kế hoạch cụ thể và lộ trình thực hiện gói kích thích
kinh tế được thể chế hóa trong đạo luật “Khôi phục nước Mỹ và Tái đầu tư”. Đạo luật
này bao gồm: cắt giảm thuế liên bang; tăng cường trợ cấp thất nghiệp và các điều khoản
trợ cấp thất nghiệp cũng như các điều khoản về phúc lợi xã hội khác; tăng chi tiêu nội
địa về giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng, trong đó bao gồm cả khu vực năng lượng.
Mặc dù Chính phủ Mỹ ưu tiên tốc độ giải ngân nhanh, nhưng không phải tất cả
các lĩnh vực trong gói kích thích kinh tế đều được giải ngân cùng một tốc độ và lộ trình. Chi khác
Phtá tem lương thực, thực phẩm
Chi thất nghiệp và hỗ trợ khác Chi cho cơ sở hạ tầng
Cho hỗ trợ bổ sung cho các bang Chi cho y tế Chi cho giáo dục Giảm trừ thuế khác Giảm trừ thuế công ty
Giảm trừ thuế cá nhân khác
Điều chỉnh giảm trừ thuế tối thiểu tùy chọn Giảm trừ thuế thu nhập 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180
Giải ngân trong 18 tháng đầu
Giải ngân trong các năm tài chính từ 2001-2019
Hình 2.1: Tốc độ giải ngân theo hạng mục
(Nguồn: Congressional Budget Office and Joint Committee on Taxation)
Theo dự đoán, gói kích cầu sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 9% xuống còn 8,5%
trong năm 2009; trong năm 2010, tỷ lệ này sẽ giảm xuống trong vòng 8,1% cho tới 6,8%
và tới năm 2015. Mỹ sẽ đạt tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 4,8%.
Chính sách tiền tệ năm 2018
Thực hiện cải cách thuế 9
Cuối năm 2017, Mỹ đã thông qua Dự luật cải cách thuế do Tổng thống Donald
Trump đề xuất, được đánh giá là một Dự luật cải cách thuế lớn nhất trong vòng 30 năm
qua. Đối với khu vực doanh nghiệp (DN), Dự luật cắt giảm thuế thu nhập DN từ 35%
xuống còn 21%, hiệu lực cắt giảm là không thời hạn. Các hộ gia đình và cá nhân cũng
được hưởng các mức cắt giảm thuế thu nhập đáng kể, tuy nhiên hiệu lực cắt giảm chỉ kéo dài đến năm 2026.
Sau năm 2027, những gia đình có thu nhập dưới 75 nghìn USD/năm sẽ phải đóng
thuế cao trở lại. Ước tính có đến 95% người dân Mỹ sẽ được giảm thuế theo luật thuế
mới, nhưng các khoản cắt giảm dành cho người giàu sẽ cao hơn hẳn các khoản giảm
thuế cho những người có thu nhập thấp hơn. Theo đánh giá của Hãng tài chính Moody’s,
hơn 75% số tiền tiết kiệm được đổ vào túi những người có thu n ậ h p hơn 200 nghìn USD,
chiếm khoảng 5% số người đóng thuế.
Tuy nhiên, có thể khẳng định, Dự luật này sẽ giúp gia tăng thu nhập và chi tiêu
của người dân Mỹ nói chung. Ngược lại, Dự luật này sẽ khiến ngân sách Liên bang thất
thu khoảng 1.500 tỷ USD trong 10 năm tới, càng khiến khối nợ công 20 nghìn tỷ USD
hiện tại “phình to ra”. Đây là một thách thức không nhỏ đến với Chính phủ Mỹ.
Trên quy mô toàn thế giới, Dự luật cải cách thuế có những tác động không nhỏ
đến hoạt động của hệ thống DN. Trước khi cắt giảm, mức thuế thu nhập DN của Mỹ ở
mức 35% là rất cao so với mức thuế thu nhập DN trung bình khoảng 25% ở các nước
thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sau khi cắt giảm các
DN, tập đoàn Mỹ lại được hưởng mức thuế thấp cạnh tranh hơn ở mức 21%.
Với luật thuế mới, các khoản thu nhập này không còn bị tính thuế riêng mà chỉ
phải chịu thuế một lần ở mức 15,5%, vì vậy, các công ty đa quốc gia của Mỹ sẽ có động
lực rút các khoản thu nhập này trở về đầu tư vào hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ
nước này. Ước tính giá trị các khoản tiền đang giữ tại nước ngoài của các công ty đa
quốc gia của Mỹ hiện tại lên tới 2.600 tỷ USD, sẽ trở thành một nguồn đầu tư mới rất
lớn nếu quay trở lại nước Mỹ.
Trong năm 2018, nhiều công ty đa quốc gia của Mỹ đã có những động thái rút
tiền từ nước ngoài về tận dụng các ưu đãi mới của Luật thuế. Tháng 3/2018, hãng công
nghệ Apple đã trả tiền thuế khoảng 38 tỷ USD cho Chính phủ Mỹ để rút về 252,6 tỷ 10
USD tiền mặt và tuyên bố sẽ đầu tư 30 tỷ USD để tạo ra 20.000 việc làm mới cho kinh
tế Mỹ. Các tập đoàn lớn khác như Microsoft, General Electric, IBM cũng đang lên kế
hoạch cụ thể để rút các khoản tiền thu nhập tương tự trở về Mỹ. Việc các tập đoàn lớn
của Mỹ ồ ạt rút tiền về sẽ khiến dòng vốn của thế giới giảm sút, thậm chí có thể khiến
những quốc gia có hệ thống tài chính yếu kém gặp khó khăn về ngoại hối.
Fed liên tục tăng lãi suất, đồng USD lên giá
Do kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng tích cực trong năm 2018, Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất 3 lần liên tục từ mức 1,375% hồi đầu năm lên mức
2,125% vào cuối năm 2018 (Hình 1). Tuy nhiên, nhiều khả năng Fed sẽ còn tiếp tục tăng
lãi suất thêm một lần nữa vào cuộc họp cuối cùng của năm 2018, nâng tổng số lần tăng
lãi suất trong năm lên con số 4. Dự báo, trong năm 2019, đà tăng lãi suất của Fed vẫn
được duy trì khoảng 3-4 lần, tùy thuộc vào biến động lạm phát và thực trạng nền kinh tế Mỹ. Indonesia (đồng Rupiah) Pakistan (đồng Rupee) Nga (đồng Ruble) Ấn Độ (đồng Rupee) Nam Phi (đồng Rand) Brazil (đồng Roal) Thổ Nhĩ Kỹ (đồng Lỉa Argentina (đồng Peso) 0% 20% 40% 60% 80% 100% 120%
Hình 2.2: Những đồng tiền mất giá nhiều nhất (so với đồng USD) trong năm 2018 (%)
Sự điều chỉnh chính sách tiền tệ này từ phía Mỹ đang gây ra những hệ lụy không
nhỏ đối với kinh tế thế giới, khiến hệ thống tài chính, tiền tệ toàn cầu gặp nhiều biến
động, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi. Một mặt, việc các nền kinh tế chủ chốt khác
của thế giới vẫn giữ nguyên lãi suất ở mức thấp trong năm 2018 (Liên minh châu Âu
(EU) giữ ở mức 0%, Nhật Bản giữ ở mức - 0,5%) khiến cho lợi suất đầu tư vào kinh tế 11
Mỹ tăng lên, phản ánh qua việc đồng USD lên giá liên tục trên thị trường tiền tệ thế giới.
Từ tháng 4/2018 đến nay, đồng USD đã tăng giá liên tục so với các đồng tiền chủ chốt
khác của thế giới như: EUR, JPY, GBP, trong đó, riêng đồng NDT của Trung Quốc đã
mất giá tới 9% so với USD.
Đối với các nền kinh tế mới nổi, những tác động này còn rõ rệt hơn. Một trong
những biểu hiện rõ nhất của những biến động này là việc thị trường chứng khoán các
nước châu Á đã liên tục mất điểm trong năm 2018, ước tính có tới hơn 5.000 tỷ USD đã
bốc hơi khỏi các thị trường mới nổi của khu vực này, trong đó chỉ riêng thị trường chứng
khoán Trung Quốc đã mất hơn 3 nghìn tỷ USD.
Trong giai đoạn trước, DN ở các nền kinh tế mới nổi có điều kiện vay nợ bằng
USD trên thị trường quốc tế rẻ hơn vay bằng đồng nội tệ do chính sách lãi suất thấp của
Mỹ, tuy nhiên, việc Fed tăng lãi suất đã khiến những khoản vay này trở nên khó khăn
hơn. Hay nói cách khác, mỗi khi Mỹ tăng lãi suất sau một thời gian dài duy trì mức lãi
suất thấp, đầu tư vào Mỹ lại trở nên hấp dẫn hơn. Do đó, các nhà đầu tư sẽ rút tiền ra
khỏi các nước mới nổi, nhất là từ thị trường chứng khoán để đổ vào thị trường tài chính
phố Wall. Làn sóng rút tiền này sẽ đẩy đồng nội tệ của các nước liên quan đi xuống
(đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ đã mất giá 60% kể từ đầu năm 2018, đồng peso Argentina
thậm chí còn mất giá tới hơn 100%, kéo theo giá cả các mặt hàng nhập khẩu tăng chóng mặt). (Hình 2.2)
Kiểm soát giá dầu thế giới
Từ một nước chuyên nhập khẩu dầu, Mỹ đã sản xuất dầu nhiều nhất thế giới,
trên cả Nga và Ả rập Xê út, hai cường quốc xuất khẩu dầu truyền thống (Hình 3). Ngoài
việc chuyển sang xuất khẩu dầu ròng, chính quyền Tổng thống Donal Trump ngày càng
thể hiện rõ vai trò định đoạt giá dầu thế giới.
Tháng 10/2018, bằng việc tuyên bố áp đặt lệnh trừng phạt mới với Iran, Tổng
thống Mỹ đã khiến giá dầu đột ngột tăng lên gần 80 USD/thùng, mức cao nhất kể từ
tháng 11/2014 đến nay, vì thế giới lo ngại nguồn cung bị thu hẹp.
Nhiều dự báo cho rằng, giá dầu thế giới có thể sớm tăng lên 100 USD/thùng
trong năm 2018. Điều này đã mở đường cho các công ty dầu đá phiến của Mỹ gia tăng 12
sản xuất trong khi khối OPEC ngập ngừng duy trì sản lượng để hưởng giá dầu cao. Tuy
nhiên, chỉ trong vòng 6 tuần, giá dầu đã giảm gần 23%, từ chỗ đứng ở mức đỉnh của 4
năm (hiện chỉ còn xấp xỉ 55 USD/thùng). Nguyên nhân chính khiến giá dầu thế giới
giảm đến từ việc chính quyền Tổng thống Donald Trump thay đổi chính sách, cho phép
8 quốc gia và vùng lãnh thổ tiếp tục được nhập dầu Iran trong vòng 6 tháng mà không
phải chịu các biện pháp trừng phạt của Mỹ. Kết quả là giá dầu giảm hơn 20 USD/thùng
kể từ đầu tháng 10/2018.
Việc không còn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu dầu từ bên ngoài cộng với quyền
lực địa chính trị lấn át của mình, Mỹ đã trở thành thế lực quan trọng nhất ảnh hưởng lên
giá dầu thế giới. Vì vậy, có thể lý giải vì sao Nga cho rằng, Mỹ mới là nhân tố chính
thao túng giá dầu thế giới hiện nay, chứ không phải những quốc gia xuất khẩu dầu truyền thống như Nga hay OPEC.
2.1.2. Điều chỉnh chính sách tài chính – tiền tệ của Trung Quốc
Đồng Nhân dân tệ giảm giá
Trong năm 2018, đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc liên tục giảm giá so
với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt là đồng USD. Tính đến giữa tháng 12/2018,
đồng NDT đã mất giá trên 9% so với ồ
đ ng USD so với thời điểm tháng 3/2018, khi Mỹ
bắt đầu cuộc chiến thương mại với Trung Quốc. Có nhiều ý kiến cho rằng, Trung Quốc
chủ động giảm giá đồng NDT để đối phó với hàng rào thuế quan mới của Mỹ. Tuy nhiên,
đánh giá một cách toàn diện, sự mất giá của đồng NDT hoàn toàn hợp lý nếu tính đến
những nhân tố như: (i) Đồng USD mạnh lên trên thị trường tiền tệ thế giới; (ii) Triển
vọng tăng trưởng kinh tế Trung Quốc không còn cao như trước. Yếu tố tâm lý cũng
đóng vai trò quan trọng, nếu xét đến việc các nhà đầu tư lo ngại Trung Quốc sẽ chịu
nhiều thiệt thòi trong việc đối phó với các biện pháp căng thẳng thương mại của Mỹ.
Sự giảm giá của đồng NDT sẽ khiến hàng hóa của Trung Quốc rẻ đi trên thị
trường thế giới, tạo thuận lợi cho xuất khẩu của quốc gia này. Trong bối cảnh đó, những
nền kinh tế có cơ cấu thương mại giống với Trung Quốc nhưng điều chỉnh tỷ giá đồng
nội tệ ít hơn chắc chắn sẽ chịu sự cạnh tranh lớn hơn từ hàng hóa Trung Quốc. Vì vậy,
so với đồng NDT, đồng VND có thể tăng giá tới 6% trên thị trường quốc tế. Nói cách 13
khác, hàng hóa của Việt Nam có giá cao hơn hàng hóa Trung Quốc khoảng 6% (so sánh
giữa thời điểm đầu năm và cuối năm 2018).
Kích cầu nền kinh tế
Kinh tế Trung Quốc đang trên đà giảm tốc kể từ giữa năm 2017. Theo công bố
của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc, tăng trưởng của nước này trong quý III/2018
chỉ đạt 6,5%, là mức tăng trưởng quý thấp nhất trong vòng 10 năm qua (Hình 6). Đây là
sự sụt giảm tăng trưởng tự nhiên của quốc gia này sau một thời gian dài quy mô nền
kinh tế liên tục được mở rộng.
Nhằm hỗ trợ nền kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2018,
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp tài khóa kích thích tăng trưởng
kinh tế, nổi bật bao gồm: Giảm thuế để khuyến khích tăng chi tiêu cho hoạt động nghiên
cứu, phát hành trái phiếu đặc biệt cho đầu tư hạ tầng… Cụ thể, nội dung gói chính sách
mới được Trung Quốc thông qua bao gồm: Giảm thuế khoảng 65 tỷ NDT (tương đương
9,6 tỷ USD) cho các DN có ngân sách nghiên cứu và phát triển; Phát hành trái phiếu đặc
biệt cho hoạt động cấp vốn phát triển cơ sở hạ tầng; Nới lỏng hạn chế với việc phát hành
trái phiếu tài chính của DN nhỏ; Khởi động đầu tư tư nhân bằng cách đưa vào triển khai
dự án trong lĩnh vực vận tải, khí đốt và viễn thông; Tiếp tục mở cửa và cải thiện chính
sách nhằm thu hút DN nước ngoài tái đầu tư; Hướng dẫn các tổ chức tài chính đảm bảo
nguồn tài chính cho chính quyền các tỉnh để các dự án cần thiết không bị đình trệ...
Tác động của các điều chỉnh chính sách của Mỹ và Trung Quốc
Những điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ và Trung Quốc ngày càng khó
lường trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động như hiện nay. Trong năm 2018, những
điều chỉnh chính sách của Mỹ và Trung Quốc đã gây ra những rủi ro ngày càng lớn cho
nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Những rủi ro này bao gồm:
Thứ nhất, đối với Việt Nam, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung dự kiến có cả
những tác động cả tích cực lẫn tiêu cực do đây là hai đối tác thương mại lớn nhất của ta.
Ở khía cạnh tích cực, đầu tư vào Việt Nam có thể tăng lên khi các DN quốc tế dịch
chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực 14
cũng không hề nhỏ. Hàng hóa Trung Quốc không xuất được sang Mỹ có nguy cơ sẽ đổ
vào thị trường Việt Nam với giá cạnh tranh.
Thứ hai, việc Fed điều chỉnh tăng lãi suất đã và đang gây ra sức ép đến thị trường
tài chính các nước mới nổi, trong đó có Việt Nam. Việc Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ mất
khả năng kiểm soát sự giảm giá của ồ
đ ng nội tệ, phải nhờ đến sự cứu trợ từ Quỹ Tiền tệ
quốc tế, chính là hồi chuông cảnh báo đối với các nền kinh tế mới nổi khác. Dòng vốn
quốc tế luôn đi tìm kiếm những cơ hội lợi nhuận lớn hơn và vì vậy tình trạng rút vốn
khỏi các nền kinh tế mới nổi trở thành một rủi ro tiềm tàng. Việc thị trường chứng khoán
trong nước mất điểm liên tục chính là một sự cảnh báo về sự đảo chiều dòng vốn đối với Việt Nam.
Thứ ba, các xung đột địa chính trị hoàn toàn có thể bùng phát trở thành những
rủi ro lớn của kinh tế thế giới. Việc Mỹ vươn lên nắm quyền kiểm soát giá dầu thế giới
đẩy nhiều quốc gia xuất khẩu dầu vào tình trạng hỗn loạn. Không chỉ có Iran hay Syria,
nhiều quốc gia phụ thuộc vào xuất khẩu dầu khác thuộc khu vực Trung Đông bị ảnh
hưởng lớn khi giá dầu lên xuống thất thường. Đối với khu vực châu Á, việc Mỹ gia tăng
đối đầu trực tiếp hay gián tiếp với Trung Quốc tại những khu vực nhạy cảm như biển
Đông hay bán đảo Triền Tiên đều ẩn chứa nguy cơ xung đột tiềm tàng. Nếu điều này
xảy ra, người chịu thiệt thòi nhất luôn là những quốc gia nhỏ trong khu vực như Việt Nam.
Vì những vấn đề rủi ro nêu trên, Việt Nam cần tiếp tục theo dõi sát sao các động
thái mới của kinh tế thế giới, đặc biệt là sự điều chỉnh chính sách của Mỹ và Trung
Quốc. Trên cơ sở đó, Việt Nam mới có thể xây dựng được những chính sách ứng phó
phù hợp trước những biến động khó lường xảy ra. Trong giai đoạn hiện nay, nguy cơ tái
hiện một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới theo chu kỳ 10 năm vẫn luôn là một rủi ro
không thể xem thường với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
2.2. Đánh giá chính sách tài chính – tiền tệ của Việt Nam
2.2.1. Về chính sách tiền tệ
Chương trình hỗ trợ lãi suất (CTHTLS) 15
Chính sách này hỗ trợ các khoản vay ngắn, trùng và dài hạn với mức bù lãi suất
4% đối với các đối tượng được quy định trong các quyết định: Quyết định 131/QĐ-TTg;
Quyết định 443/QĐ-TTg. Cho đến nay, việc thực thi chính sách hỗ trợ lãi suất có thể đánh giá như sau.
Mặt tích cực:
- CTHTLS thể hiện sự kết hợp đồng bộ giữa chính sách tài chính, chính sách tiền
tệ và hoạt động ngân hàng. Các NHTM cho vay vốn hỗ trợ lãi suất vẫn tuân thủ các
nguyên tắc truyền thống trong hoạt động cho vay như thẩm định dự án, vốn phải được
sử dụng đúng mục đích, phải có bảo đảm tiền vay và phải được hoàn trả…
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí vốn vay, giảm giá thành sản
phẩm, từ đó kích thích tiêu dùng và đầu tư…
- Đối với hệ thống ngân hàng, CTHTLS giúp khắc phục được khó khăn do ứ
đọng vốn, tạo điều kiện mở rộng tín dụng. Đặc biệt là lãi suất tiền gửi vẫn duy trì được
ở mức hợp lý, không gây xáo trộn thị trường tiền tệ.
- Gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách về vốn cho
doanh nghiệp, trong khi gói hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn được thực hiện với thời gian
và đối tượng hỗ trợ mở rộng hơn phù hợp với thực tế, đảm bảo vốn ể đ doanh nghiệp cải
tiến công nghệ, tăng năng lực sản xuất.
Mặt hạn chế:
- Đầu tiên, nếu đừng từ góc độ doanh nghiệp, việc nhận được sự cứu giúp bằng
nguồn vốn giá rẻ, vô hình chung đã làm trì hoãn việc tái cấu trúc doanh nghiệp và ngân
hàng. Có thể nói, ở một khía cạnh nào đó, CTHTLS đã làm lỡ cơ ộ h i tăng cường khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam trong điều kiện nền kinh tế thế giới
đang hướng tới sự phục hồi.
- Chính sách này đã tạo ra mặt bằng hai lãi suất khác nhau trên một thị trường
tiền tệ, một loại lãi suất bao cấp trái với các nguyên tắc thị trường.
- Khoản vay được hỗ trợ lãi suất chỉ cho vay bằng đồng Việt Nam, nên sau khi
vay, các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu) lại phải chuyển 16
các khoản vay sang ngoại tệ và như vậy họ lại chịu rủi ro tỷ giá, làm giảm động lực để vay vốn.
- Chính sách này sẽ tạo ra tăng trưởng bùng nổ của tín dụng cộng với việc lãi
suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm thấp, điều kiện cho vay dễ dãi, nguy cơ tái lạm phát sẽ
rất cao trong trung và dài hạn.
- CTHTLS có thể tạo ra sự không bình đẳng giữa các đơn vị khi tiếp cận nguồn
vốn được hỗ trợ lãi suất bởi lẽ không phải mọi doanh nghiệp của tất cả các thành phần
kinh tế đều được các ngân hàng đối xử như nhau. Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình khó có thể tiếp cận để vay vốn ưu đãi.
- Gói hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn đã vi phạm tính ngắn hạn của chính sách
kích cầu. Cấp bù lãi suất cho các khoản vay trung dài hạn như vậy vừa gây thâm hụt
ngân sách mà ít có tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn.
- Đây là giải pháp thiên về hướng kích cung và mang tính hỗ trợ nhiều hơn là
hướng đến làm tăng tổng cầu và hiệu quả của nền kinh tế. Bởi vì, cái gốc của vấn đề ở
đây là hiện tại các doanh nghiệp đang thiếu thị trường tiêu thụ vì thực tế cho dù lãi suất
có hạ xuống thấp hơn đi chăng nữa mà thiếu thị trường thì doanh nghiệp cũng không vay.
- Các trường hợp cho vay tiêu dùng, vay đời sống v.v.. thì không thuộc đối tượng
được hỗ trợ lãi suất, nên thị trường tiêu thụ trong nước chưa thực sự được khai thông,
doanh nghiệp vẫn chưa thể giải quyết được bài toán thị trường. - S
o với cách giảm thuế thì có thể thấy việc giảm thuế có tác dụng tăng thêm thu
nhập cho doanh nghiệp gần giống hỗ trợ lãi suất, mà không phải làm tăng các thủ tục
phiền phước với bất kỳ các cơ quan nào.
Những tồn tại trong quá trình triển khai
- Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc xây dựng cơ chế hỗ trợ lãi
suất chưa thật tốt, nổi lên là sự trùng lắp về đối tượng của các quyết định 131,443, 497
của Thủ tướng. Đặc biệt, Quyết định 497 được ban hành trong khi chưa được nghiên
cứu kỹ lưỡng về quy trình, thủ tục và điều kiện hỗ trợ lãi suất vay vốn dẫn tới khó phân 17