Tiểu luận giữa kỳ - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tôn Đức Thắng
Nhà nước vì dân là nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế. Nhà nước vì dân là luôn phải phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (306106)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỤC LỤC I.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân 2
1. Quá Trình Hình Thành Tư Tưởng Của Hồ Chí Minh Về Nhà Nước........................2
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân...................2
2.1 Quan điểm về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân..............2 2.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước................................................................3 2.2.1
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước....................................................3 2.2.2
Bản chất của giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc
của nhà nước...............................................................................................................4
3. Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ...................................................5
4. Quan điểm về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả......................5 4.1
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước............5 4.2
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng..........5 II.
Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.....................................................................................7
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.........................7
2. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân..............................................................10 III.
Liên hệ trách nhiệm của bản thân vào việc xây dựng ý thức làm chủ hiện nay......14
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh..........................................................................................14
2. Đạo đức Hồ Chí Minh............................................................................................14
3. Phong cách Hồ Chí Minh.......................................................................................15
4. Nâng cao nhận thức của bản thân...........................................................................15
Nguồn tham khảo.............................................................................................................17 BÀI LÀM I.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
1. Quá Trình Hình Thành Tư Tưởng Của Hồ Chí Minh Về Nhà Nước
Việt Nam là một quốc gia hình thành nhà nước từ rất sớm. Trải qua hàng nghìn
năm lịch sử, bị rất nhiều nước xâm lược hết lần này đến lần khác nên ông cha ta đã
tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu về dựng nước và giữ nước. Những yếu tố tích
cực của nhà nước thân dân thời phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc có giá
trị trường tồn. Đó là những hành trang đầu tiên Người mang theo bên mình để cứu nước và dựng nước.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều mô hình
nhà nước và những cuộc khởi xướng cuộc đấu tranh vì nên độc lập, tự do cho dân
tộc mình. Bằng những khảo sát thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo
Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường cách mạng tháng Mười Nga, kiểu
nhà nước theo học Mác-Lê-Nin, theo mô hình nhà nước Nga Xô-viết.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
2.1 Quan điểm về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Để nhận thức được sự rõ ràng quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà
nước kiểu mới thì ta cần phải giải đáp được các câu hỏi như là : thế nào là nhà
nước của dân? Thế nào là nhà nước dô dân ? Thế nào là nhà nước vì dân. Nhà nước của Dân
- Quan điểm nhất quán và sâu sắc nhất về Nhà nước của dân là mọi quyền lực
của Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Điều thứ nhất Hiến pháp
1946 ghi : “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bình
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, tôn giáo”.
- Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước được nhân dân ủy quyền
cho các đại diện do nhân dân bầu ra và thông qua những người đại diện của
mình thực hiện quyền bãi miễn những đại diện nào tỏ ra không có đủ trách
nhiệm để làm vị trí đó nữa. Trong nhà nước của dân thì dân làm chủ, người dân
được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp luật không
cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước
phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ
của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là những người được dân ủy 1
quyền, phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải đứng trên
nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân”. Nhà nước do dân
- Cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước; Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ (tức Chính phủ). Hội đồng
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện các nghị quyết của Quốc
hội và chấphành pháp luật
- Nhà nước của nhân dân là nhà nước do nhân dân bầu ra để đại diện cho quyền
lợi của mình.Vì vậy, nhà nước luôn được toàn dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp,
chủ yếu thông qua thuế, để nhà nước có điều kiện thuận lợi thực hiện các hoạt
động của mình; Nhà nước còn được nhân dân phê phán, xây dựng và giám sát,
điều này khiến cho các thành viên của nhà nước luôn nhận thức rõ ràng trách
nhiệm đại diện của mình trước nhân dân. Để nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động hiệu quả, Người nhấn mạnh rõ ràng, mọi cơ quan nhà nước đều phải
dựa vào nhân dân, giữ quan hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân. “Nếu chính phủ làm hại nhân dân thì dân có quyền
đuổi chính phủ”. Điều có nghĩa là khi Nhà nước và các cơ quan tham nhũng,
quan liêu, cậy quyền, không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của dân thì
nhân dân sẽ bãi miễn nó đi. Nhà nước vì dân
- Nhà nước vì dân là nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và
kiểm soát trên thực tế. Nhà nước vì dân là luôn phải phục vụ cho lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, thực sự trong sạch, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Trong nhà nước vì dân, công chức luôn là “đầy tớ”
của nhân dân, tức là vừa là người cai trị, vừa là đầy tớ của nhân dân, nên bất cứ
việc gì có lợi cho dân dù cho là việc nhỏ cũng phải làm hết sức có trách nhiệm
và cán bộ phải biết sử dụng tài nguyên, sức lực, tài sản của nhân dân vì lợi ích
của nhân dân. Tầm nhìn của Người về nhà nước vì người dân đã vượt xa tầm
nhìn của chủ nghĩa tư bản đế quốc khi nó ở thời kỳ phát triển nhất.
2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
2.2.1 Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
- Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó ra đời và chỉ tồn tại khi có các giai cấp
và sự đấu tranh giữa các giai cấp xuất hiện, do đó Nhà nước là sản phẩm của
một xã hội có giai cấp, nó luôn mang bản chất của một giai cấp nhất định, 2
không có nhà nước nào là không có giai cấp hoặc trên. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản
chất giai cấp của Nhà nước ta là giai cấp công nhân. Vì: o
Một là Nhà nước do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và củng
cố bản chất của giai cấp công nhân Lời nói đầu của Hiến pháp .
năm 1959 nêu rõ: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân,
được thành lập trên cơ sở liên minh công - nông do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhấn mạnh thêm, cốt lõi của nhân
dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tri thức do giai cấp công nhân lãnh đạo, mà đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, quan điểm, chính sách
mà Nhà nước phải thể chế hóa bằng pháp luật, chính sách, kế
hoạch; Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua hoạt động của các tổ
chức đảng và đảng viên trong bộ máy, cơ quan nhà nước; Đảng
lãnh đạo nhà nước thông qua công tác thanh tra. o
Thứ hai, tính chất giai cấp của nhà nước ta thể hiện ở định hướng phát
triển đất nước xã hội chủ nghĩa thông qua việc đổi mới nền kinh tế cũ và
phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mới dựa trên nền tảng công
nghiệp hiện đại, tiến bộ khoa học công nghệ. o
Thứ ba, bản chất hoạt động của Nhà nước ta được thể hiện ở nguyên tắc
cơ bản về tổ chức và hoạt động, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ.Nhà
nước phải tập trung, thống nhất quyền lực để mọi quyền lực đều về tay nhân dân. o
Thứ tư, dân chủ cũng cần có độc tài, chế độ nào cũng có độc tài, vấn đề
là ai độc tài với ai.Nhà nước dân chủ nhân dân dùng công cụ chuyên
chính nhân dân để trấn áp những kẻ áp bức, bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân.
2.2.2 Bản chất của giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc của nhà nước
- Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa các giai cấp và tính nhân
dân, tính dân tộc với nhau và được biểu hiện rõ trong những quan điểm: o
Sự đoàn kết thống nhất thể hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của
nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm gốc. Bản chất của vấn đề này là
Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, công 3
nhân và của cả dân tộc là một. Nhà nước ta không chỉ đại diện cho ý chí
của giai cấp công nhân mà còn là ý chí của nhân dân, của toàn dân tộc.
3. Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ -
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh phải là nhà
nước pháp quyền. Hiến pháp hiểu theo nghĩa rộng là được toàn dân thừa nhận,
ủng hộ, giúp đỡ; Theo nghĩa hẹp, nó được Hiến pháp thừa nhận.
- Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là nhà nước cai trị đất
nước bằng pháp luật chứ không phải bằng mệnh lệnh hay chuyên quyền. Điều
này chứng tỏ Người luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật đối với
quản lý nhà nước và xã hội. Quản lý Nhà nước và xã hội bằng pháp luật là một
nhu cầu khách quan của một xã hội dân chủ, không có ưu tiên hay ngoại lệ nào.
- Một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ phải là một nhà nước
luôn nhận thức được tầm quan trọng của việc đưa luật pháp vào cuộc sống và
phải bảo đảm luật pháp được áp dụng vào thực tiễn một cách hiệu quả và dân
sự. Chủ sở hữu và pháp luật luôn phải đi đôi với nhau. Theo Hồ Chí Minh,
pháp luật là điều kiện cần nhưng việc áp dụng và phát huy hiệu quả trong thực
tiễn mới là điều kiện đủ. Muốn pháp luật đi vào cuộc sống, chúng ta không chỉ
phải tập trung vào việc hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật trên bàn
làm việc mà hơn hết là bảo đảm pháp luật được thực thi và giám sát việc thực
hiện pháp luật trong các cơ quan, trong dân chúng. Chúng ta phải nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc nâng cao hiểu biết của người dân, phát triển ý thức
đoàn kết, phát triển văn hóa chính trị và hoạt động công dân, khuyến khích
người dân tham gia vào công việc nhà nước.
4. Quan điểm về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
4.1 Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
- Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ được tách rời
với việc làm cho bộ máy Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Từ rất
sớm, Người luôn chỉ rõ cần phải kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là
tham ô, lãng phí, quan liêu, nếu không sẽ dẫn tới hậu quả không thể lường trước được.
4.2 Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
- Hồ Chí Minh đã khéo léo kết hợp quản lý xã hội thông qua pháp luật và phát
huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được hình thành từ xưa
đến nay. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với vị trí của
mình là Chủ tịch nước, Người lúc nào cũng thể hiện mình là một người sáng 4
suốt, hài hòa giữa lý trí và tình cảm, bao dung, nhân ái tuy vậy Người không
bao giờ bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ một ai. Chính vì
vậy Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải nghiêm trị những kẻ vô liêm sỉ, bất kể
thân phận, địa vị hay nghề nghiệp. Hơn nữa, Người đã dùng sức mạnh, uy tín
của mình để động viên những người mắc lỗi, lôi kéo họ vào cách mạng, giáo
dục những người có khuyết điểm để họ tránh vi phạm pháp luật.
- Người từng nói : “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái” ba điều đó rất có quan hệ với
nhau. Vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng : “Phải thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt ra lệnh ra oai. Thực hành dân
chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”. Phát huy
dân chủ phải gắn chặt với việc tăng cường nhà nước pháp quyền và quản lý xã
hội bằng pháp luật. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống
vi phạm luất pháp, phải đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước luật pháp,
phải tuyệt đối bảo đảm mọi hành vi vi phạm đều được xét xử nghiêm minh,
không phân biệt đối xử.
- Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, viên chức của nhà nước quán triệt nhận thức:
Nhà nước là tổ chức công thể hiện quyền lực của nhân dân, viên chức nhà nước
là đầy tớ của nhân dân.
- Đảng ta là đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất
lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Muốn chấn chỉnh lại bộ máy
nhà nước, đánh bại quan liêu, tham nhũng, Đảng phải sửa mình, nêu gương trong sạch, vững mạnh. 5 II.
Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay vào việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Mặc dù ra đời trong điều kiện lịch sử rất đặc biệt “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”, “vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh”, với xuất phát điểm từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến, nền tảng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nhưng bằng những tư
tưởng đúng đắn, sáng tạo và nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân Việt Nam đã xây dựng được một nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân
và vì dân, là nền tảng chính trị - pháp lý có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng thành công chế độ mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Một là, Nhà nước pháp quyền do dân là chủ và dân làm chủ.
Trong nhà nước kiểu mới, Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao và
duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân
dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có
quyền nói”; Nhà nước pháp quyền phải xác lập được địa vị là chủ của mọi công dân,
điều này hoàn toàn đối lập với thân phận nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ
phong kiến, thực dân trước đây. Nếu trước kia vua là tối thượng thì trong chế độ dân
chủ, dân là chủ thể quyền lực.
Điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo
đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa”. Tất cả quyền binh
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Dân là chủ đồng thời dân cũng làm chủ, điều đó khẳng
định năng lực làm chủ của công dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa,
bản lĩnh, ý thức trách nhiệm…, đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi
làm chủ, sự kết hợp và thống nhất năng lực, địa vị của người chủ. Nhà nước pháp
quyền phải thể chế hóa và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện vai trò trên.
Hai là, Nhà nước pháp quyền phải có “Thần linh pháp quyền” và “Thượng tôn pháp luật”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong tổ chức điều
hành, quản lý xã hội, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Ngay từ năm 6
1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Versaile, Nguyễn
Ái Quốc đã yêu cầu phải “thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Đến năm 1922, Người đã khái quát, thể hiện quan điểm của mình trong bài “Việt Nam
yêu cầu ca”: “Bảy xin Hiến pháp ban hành - Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra được một phương cách để nói lên ý nghĩa
thiêng liêng, tôn quý của Hiến pháp và pháp luật, nhưng lại rất gần gũi, dễ cảm nhận,
tiếp thu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ làm theo. Tinh thần cao cả ấy được Người diễn đạt một
cách rất độc đáo, xưa nay chưa từng thấy - “Thần linh pháp quyền” (1). Với yêu sách
thứ bảy này, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra cốt lõi, tinh tuý của một Nhà nước pháp quyền
trước hết là phải xây dựng được một hệ thống luật pháp thể hiện được ý chí, nguyện
vọng và quyền lợi của mọi công dân.
Để có “thần linh pháp quyền”, khi xây dựng các đạo luật, theo Người đều phải
xuất phát từ nhân dân, đảm bảo luật là ý chí chung của toàn dân, do nhân dân đóng
góp xây dựng để phục vụ lợi ích của dân. Do đó, nếu một nhà nước cai trị bằng ý chí
của nhà cầm quyền, mà không phải là ý chí của nhân dân đề lên thành luật, những kẻ
cầm quyền dù nhân danh là những vị đứng đầu nhà nước hay những người lãnh đạo
đảng cầm quyền... tự cho phép đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật... thì kiểu nhà
nước này rất xa lạ với tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Đồng thời, pháp luật phải có tác dụng khơi dậy ý thức tự giác của mọi công
dân bằng thái độ khoan hồng, nhằm tạo điều kiện cho người “lầm đường lạc lối” có cơ
hội sửa chữa khuyết điểm nếu thành thật .
Trên cơ sở hệ thống pháp luật dân chủ, nhân văn và tiến bộ, Hồ Chí Minh rất chú
trọng hoạt động tổ chức thực thi pháp luật. Theo Người, pháp luật dù hoàn thiện, tiến
bộ đến đâu cũng sẽ chỉ là hình thức và trở nên vô nghĩa nếu nó không được tổ chức
thực hiện nghiêm túc, triệt để trong thực tiễn cuộc sống. Do đó, “thượng tôn pháp
luật” là chuẩn mực đạo đức cao nhất của mọi công dân trong Nhà nước pháp quyền.
Người cho rằng: “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề
nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp 7
tác với quân đội nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của Quân đội”.
Ba là, nhà nước “liêm khiết”, vững mạnh, hoạt động hiệu quả.
“Liêm khiết”, vững mạnh, hoạt động hiệu quả là những phẩm chất quan trọng
hàng đầu thể hiện tư cách của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thực chất, đây chính là yêu cầu về “tài” và “đức”, trong đó “liêm khiết” là tiêu chuẩn
đạo đức công vụ hàng đầu, yêu cầu giữ vai trò là gốc rễ, nền tảng trong Nhà nước
pháp quyền nói chung, trong tư cách người cán bộ, công chức nói riêng. Bất luận
trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Nhà nước phải tuyệt đối liêm khiết, tuyệt đối không
để xảy ra hiện tượng bất liêm. “Bất liêm” là cách gọi khác của căn bệnh “tham ô”.
Theo Hồ Chí Minh, tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, là hành đô ~ng xấu xa, tô ~i lỗi, đê
tiê ~n nhất trong xã hô ~i. Nó nguy hiểm tới mức là căn bê ~nh duy nhất mà Người từng
xếp ngang hàng với tô ~i phản quốc. Do đó, muốn có một nhà nước thực sự “liêm
khiết” thì phải tuyệt đối không được “tham ô” và chống tham ô chính là công viê ~c cần
kíp như đánh giă ~c trên mă ~t trâ ~n của Nhà nước pháp quyền. Để hoàn thành sứ mệnh
“phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, Nhà nước pháp quyền cần được xây dựng
vững mạnh, hoạt động thực sự hiệu quả. Tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá bộ máy
nhà nước vững mạnh, hoạt động hiệu quả là phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo.
Muốn vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Bởi
vì, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là dây chuyền của bộ máy, là cầu nối giữa
Nhà nước và nhân dân đảm bảo cho mọi chính sách, pháp luật được thông suốt từ
trung ương đến cơ sở, đem lại kết quả trong thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, bộ máy nhà
nước phải quy tụ được những người vừa có đức, vừa có tài, trong đó phải lấy đức là
gốc. Đồng thời, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả; công tác tuyển
chọn phải hết sức chặt chẽ, chu đáo và khách quan. Người đề ra những tiêu chuẩn
trong lựa chọn cán bộ, công chức nhà nước với các phẩm chất cơ bản như: Tuyệt đối
trung thành với cách mạng; hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp
vụ; phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải là những người dám phụ trách, 8
dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình,
luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước…
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, Nhà nước phải chú trọng nâng cao chất lượng xây
dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Theo đó, mọi chủ trương, chính sách phải phù
hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Bên cạnh đó, để hoạt động hiệu quả,
bộ máy nhà nước phải bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan từ
trung ương đến cơ sở, khắc phục tình trạng né tránh trách nhiệm.
Bốn là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi.
Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tính
chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của
chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định
toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Bản chất giai cấp
công nhân còn thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
“bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền
kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”. Nhà nước đó do Đảng lãnh đạo và
Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
2. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn, việc tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là thực sự cần thiết, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. 9
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011) (2) xác định, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng dựa trên tám đặc trưng, trong đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một đặc trưng cơ bản. Đến Hiến
pháp năm 2013, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng được
thể chế hóa rõ ràng và đầy đủ tại Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra những định hướng, quan điểm, giải pháp đột
phá cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, xác định đây là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Đồng thời, Đảng ta nêu rõ, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ,
gắn với đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội; xác định định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó có định hướng xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1) Nhận thức, lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn; hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một
bước cơ bản. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực;
2) Việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được
nâng cao. Hoạt động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý,
điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, kiến tạo phát triển. Tổ chức bộ máy của tòa án, viện
kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được
kiện toàn, chất lượng được nâng lên.
3) Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng
pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế.
4) Mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được
hoàn thiện, vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm 10
chủ”. Nghị quyết số 27-NQ/TW (3) cũng đã chỉ rõ, tổ chức bộ máy nhà nước, hệ
thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; quyền lực nhà
nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai
trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
Trong thời gian tới, để phát huy những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cần tiếp tục thực
hiện chất lượng, hiệu quả một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, cùng với những nội dung tư tưởng khác, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền,
phổ biến và quán triệt những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, để những giá trị tư tưởng của Người ngày càng thấm sâu vào nhận thức và
hành động của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân; tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, tạo sự thống nhất nhận thức về 8 đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện có hiệu
quả Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị. Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực sự thấm nhuần lời dạy của Bác: “không được rời
xa dân chúng. Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Rời xa dân
chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”(1). Phát huy hơn nữa vai trò của nhân
dân trong thực hành dân chủ và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, tiếp tục thể chế hóa, kịp thời, đầy đủ hệ thống quan điểm, chủ trương của
Đảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật, cần không ngừng quán triệt sâu 11
sắc luận điểm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết
sức tránh” (4).
Thứ tư, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi để tiếp cận, đủ khả
năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân,
tổ chức doanh nghiệp làm trung tâm. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng
tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tổ chức bộ máy,
công vụ, công chức, hành chính điện tử và chuyển đổi số.
Thứ năm, nghiêm túc trong thực hiện đúng và đầy đủ những định hướng lớn của
Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện
trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất; nghiên cứu, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của
Chủ tịch nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương
theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột
phá trong tư duy về xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta, dựa trên
nền tảng kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đã, đang và sẽ
tiếp tục soi sáng quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 12
III. Liên hệ trách nhiệm của bản thân vào việc xây dựng ý thức làm chủ hiện nay.
Để xây dựng ý thức làm chủ trong bối cảnh hiện nay, mỗi cá nhân cần nhận thức
rõ vai trò của mình trong xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt động có ý nghĩa. Và
trách nhiệm đó được thể hiện trong học tập, lao động, nghiên cứu lý luận,… Điều tất yếu
nhất đó là nhận thức của chính bản thân chúng ta, nhận thức bản thân là khả năng để hiểu
rõ nhất bản thân mình, từng điểm yếu và điểm mạnh của mình, nhận thức được tư duy,
niềm tin cũng như cảm xúc của bản thân. Thông qua đó, ta có thể nắm rõ được tư tưởng,
đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cốt lõi nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc
lập tự do, hành phúc. Đó cũng chính là nền móng nhằm phát triển bền vững, có khả năng
giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức là một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ
truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương
Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Theo Người, đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, biểu hiện tập trung thông qua
ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Đức là gốc, nhưng đức
và tài phải kết hợp, đi đôi với nhau. Về mặt đạo đức, trong thời gian tới các chủ đề:
1. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. 13
2. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ra sức làm việc cho Đảng,
thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.
3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh luôn luôn đặt lợi ích của
Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, vì
Đảng, vì nhân dân mà hy sinh quyên minh, gương mẫu trong mọi việc;
4. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hoà mình với nhân dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp thu sự phê bình và chịu sự giám sát của nhân dân;
5. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không ngừng học tập, luôn
luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao trình độ, tư tưởng, cải tiến công
tác, cùng giúp nhau tiến bộ. Đặc biệt, cần chú trọng quán triệt, làm theo những giá
trị cốt lõi của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư (dĩ công vô thượng), tất cả vì con người.
3. Phong cách Hồ Chí Minh
Phong cách có quan hệ chặt chẽ với đạo đức, đạo đức thể hiện qua phong cách,
còn qua phong cách có thể đánh giá được đạo đức, nhân cách con người. Cốt lõi của
phong cách Hồ Chí Minh là phong cách khoa học, dân chủ, quần chúng, hài hoà và nêu
gương, cần được nghiên cứu thấu đáo, quán triệt và làm theo một cách toàn diện, bao gồm:
Học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo phong cách ứng xử Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh.
4. Nâng cao nhận thức của bản thân
Đối với mỗi cá nhân cần phải tự giác nâng cao về ý thức cũng như tinh thần trách
nhiệm không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức tấm gương tốt. Mỗi bản thân cần 14
bảo vệ lối sống trung thực, thẳng thắn, theo lối sống liêm khiết, khiêm tốn và theo quan điểm của Đảng.
Không ngừng tích cực học tập, lao động và sáng tạo thúc đầyh phát triển về n8ang
suất, hiệu quả và chất lượng đồng thời trân trọng những thành tích mà bản thân và người khác làm ra.
Luôn phải có ý thức để giữ gìn tình đoàn kết toàn dân, toàn tộc, trong nhà trường,
cơ quan, tổ chức, trong Đảng, đấu tranh kiên quyết với những mưu đồ chia rẽ nhân dân,
chia rẽ tình đoàn kết, yêu nước.
Thay đổi phương pháp phù hợp với việc học tập cải để cải thiện vốn hiểu biết,
nâng cao kiến thức trong học tập. Không chỉ thế phải đưa ra các phương hướng để phấn
đấu và rèn luyện tu dưỡng về tư tưởng đạo đức, giữ gìn phẩm chất tốt đẹp mà con người Việt Nam. 6. 15 Nguồn tham khảo
1. Tính, TS. Chu Đức. “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Báo Điện Tử Đại Biểu
Nhân Dân. [Online] https://daibieunhandan.vn/dien-dan-quoc-hoi-va-cu-tri/Tram-dieu-
phai-co-than-linh-phap-quyen-i250976/.
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011). BÁO ĐIỆN TỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. [Online]
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-
thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo- sung-phat-trien-nam-2011-1528.
3. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
ĐẢNG KHÓA XIII VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN xã hội chủ nghĩa VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI. THƯ VIỆN
PHÁP LUẬT. [Online] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-
quyet-27-NQ-TW-2022-tiep-tuc-xay-dung-Nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-giai- doan-moi-541092.aspx.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập. s.l. : Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Nhận thức bản thân học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh [Online]:
https://luatminhkhue.vn/nhan-thuc-ban-than-hoc-tap-va-lam-theo-dao-duc-ho-chi- minh.aspx
6. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm để khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước. TẠP CHÍ TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC [Online]:
https://luatminhkhue.vn/nhan-thuc-ban-than-hoc-tap-va-lam-theo-dao-duc-ho-chi- minh.aspx 16