Tiểu luận kinh tế chính trị Mác - Leenin | Đại học Thương Mại

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác - Leenin | Đại học Thương Mại được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Đề tài: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Thị Hoài
Lớp HP: 2154RLCP1211
Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Hà Nội 2021
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ NHÓM 8
1
STT MSV Thành viên Công việc Ghi chú
71 20D150097 Trịnh Thị Thu Phương
(nhóm trưởng)
Làm powerpoint
72 20D150157 Phạm Thị Phượng Nội dung chương 1-
phần 1,2
73 20D150039 Lê Thị Diễm Quỳnh Nội dung chương 1-
phần 1,2
74 20D150099 Lê Thị Thúy Quỳnh Nội dung chương 1-
phần 1,2
75 20D150159 Nguyễn Phương Quỳnh Nội dung chương 1-
phần 3
76 20D150040 Nguyễn Thị Diễm Quỳnh Nội dung chương 1-
phần 3
77 20D150100 Triệu Thị Như Quỳnh Nội dung chương 1-
phần 3
78 20D150102 Lê Thị Thảo Nội dung chương 2-
phần 1
79 20D150162 Lê Thị thảo Nội dung chương 2-
phần 2
80 20D150043 Nguyễn Thị Thảo Nội dung chương 2-
phần 3; tổng hợp
word
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀBẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM............................................................................................................................5
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa..........................................5
1.1. Cách mạng công nghiệp..........................................................................................5
1.2. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới.............................6
2. Tính tất yếu của công nghệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam......................................7
2.1. Tính tất yếu của công nghiệp - hóa hiện đại hóa ở việt nam...................................7
2.2. Tác dụng của công nghiệp a, hiện đại hóa.........................................................10
3. Nội dung các vấn đề cơ bản về công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam...........10
3.1. Tạo lập những điều kiện để thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất - hội
lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ....................................................................10
3.2. Thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - hội lạc hậu sang nền sản
xuất - xã hội hiện đại...................................................................................................10
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM....................................................................................................14
1. Đổi mới công nghệ trong nền kinh tế..........................................................................14
2. Nâng cao trình độ người lao động...............................................................................15
3. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế..........................................................................16
KẾT LUẬN
3
MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát
triển đưa cả nền sản xuất vật chất đời sống văn hóa - hội của đất nước lên trình
độ mới. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội,
Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay,
quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kỹ
thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã
hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công
nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ
trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa
học, công nghệ đổi mới sáng tạo”. Thực hiện đề tài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Việt Nam”, chúng em muốn thể hiện cái nhìn của mình về công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
đồng thời thể rút ra được những kiến thức cần thiết cho mình trong công việc cũng như
cuộc sống sau này. đã rất cố gắng hoàn thành bài tiểu luận nhưng không thể tránh khỏi
sai sót, chúng em kính mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của cô để thêm phần hoàn thiện
hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn!
4
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
1.1. Cách mạng công nghiệp
1.1.1 Khái niệm về cách mạng công nghiệp
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao
động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển
của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao độnghội cũng như tạo bước
phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng
mới trong kỹ thuật - công nghệ đó vào đời sống xã hội.
1.1.2. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển lực
lượng sản xuất của các quốc gia. Từ những bước đầu tiên khi máy móc ra đời thế chỗ cho
lao động thủ công cho đến khi nền sản xuất chuyển sang giai đoạn tự động hóa bởi sự ra đời
của máy tính điện tử đã đẩy nhanh quá trình tập trung hóa sản xuất. Cách mạng công nghiệp
cũng đã đẩy sản xuất của con người vượt qua những giới hạn về tài nguyên thiên nhiên và sự
phụ thuộc của sản xuất vào các nguồn năng lượng truyền thống. Chính thế, cách mạng
công nghiệp vừa đặt ra những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao lại vừa
tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực. Những thành tựu của các cuộc cách mạng công
nghiệp đòn bẩy để phát triển xa hơn về khoa học - công nghệ cho việc ứng dụng chúng
vào nền sản xuất trong đời sống. Bên cạnh đó cũng tạo điều kiện cho các nước kém
phát triển tiếp cận với những thành tựu về khoa học - công nghệ, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa để rút ngắn khoảng cách về trình độ với các nước tiên tiến hơn.
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Cách mạng công nghiệp đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo
điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế trao đổi thành tựu khoa học công nghệ.
Ngoài ra còn tạo điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản kinh tế - hội
giữa các nước; mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển các hình
kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp.
Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển.
5
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh đến phương thức quản trị điều hành của
nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước phải cải tổ theo hướng minh bạch hiệu quả, yêu
cầu các quốc gia phải có hệ thống thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi hoạt động sản xuất
lên một trình độ cao hơn, tạo ra năng suất giá trị cao hơn, đáp ứng yêu cầu của quá trình
toàn cầu hóa hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó còn tác động đến phương thức quản trị
điều hành của doanh nghiệp. Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất làm cho các doanh
nghiệp phải thay đổi cách thức tiếp thị cung ứng hàng hóa dịch vụ theo cách mới. Cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 quy cùng lớn lan truyền mạnh mẽ, làm thay đổi
nhận thức của con người trên nhiều lĩnh vực làm đổi mới công nghệ tạo nên sức ép cạnh
tranh rất lớn buộc các doanh nghiệp phải thích ứng và đổi mới kịp thời phương thức quản trị
và điều hành.
1.2. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
1.2.1. Công nghiệp hoá
Công nghiệp hóa quá trình chuyển đổi nền sản xuất hội từ dựa trên lao động thủ
công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.
1.2.2. Các mô hình công nghiệp hoá tiêu biểu trên thế giới:
a) Mô hình công nghiệp hoá cổ điển:
hình công nghiệp hóa đầu tiên trong lịch sử được gắn liền với cuộc cách mạng công
nghiệp 1.0 tiêu biểu ở nước Anh (giữa thế kỷ XVIII) bắt đầu từ phát triển ngành công nghiệp
nhẹ (ngành dệt), nông nghiệp và cuối cùng là ngành công nghiệp nặng (cơ khí chế tạo máy).
Quá trình công nghiệp hóa diễn ra tuần tự trong thời gian trung bình từ 60-80 năm, sau khi
khởi nguồn ở Anh rồi lan rộng sang Pháp và các nước Đức, Mỹ.
Quá trình công nghiệp hóa cổ điển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa bản lao động,
làm bùng lên cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại nhà tư bản ở các nước tư bản
lúc bấy giờ, tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Nó còn dẫn đến mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản với các nước thuộc địa, quá trình xâm chiếm
cướp bóc thuộc địa đã dẫn đến phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa,
thoát khỏi sự thống trị và áp bức của các nước tư bản.
b) Mô hình công nghiệp hóa kiểu Liên Xô:
Mô hình này được xây dựng đầu tiên ở liên xô năm 1930 sau đó lan ra các nước XHCN ở
Đông Âu sau 1945, ở Việt Nam chúng ta xây dựng mô hình này từ năm 1960 đến năm 1986
rồi xóa bỏ. Đặc trưng là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng như ngànhkhí chế tạo máy;
nhà nước vai trò quyết định, thực hiện chế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh, cho
6
phép trong một thời gian ngắn các nước theo hình Liên đã xây dựng được hệ thống
cơ sở vật chất - kỹ thuật to lớn, hoàn thành được mục tiêu đề ra.
Giai đoạn đầu hình này rất hiệu quả, sản lượng công nghiệp của Liên đứng đầu
Châu Âu chỉ đứng thứ 2 sau Mỹ, giúp Liên nhanh chóng hoàn thành xong kế hoạch
công nghiệp hóa sau 18 năm. Tuy nhiên ở giai đoạn sau, khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày
càng phát triển, Liên tỏ ra lạc hậu, không còn thích ứng được, làm kìm hãm việc ứng
dụng những tiến bộ kỹ thuật mới. hình công nghiệp hóa ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng không còn đủ sức mạnh để giúp Liên Xô vươn lên trong cuộc đua với Mỹ sau này nên
mô hình sụp đổ vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
c) Mô hình công nghiệp hoá của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs)
Dù xuất phát muộn nhưng rút kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hóa của các nước đi
trước, các nước như Nhật Bản NICs đã tiến hành công nghiệp hóa theo con đường mới
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn, tận dụng tốt cơ hội để đi tắt thông qua tiếp
nhận công nghệ và đi thẳng vào công nghiệp hóa hiện đại bắn việc nhập khẩu công nghệ của
các nước đi trước từng bước sáng tạo đẩy mạnh xuất khẩu phát triển hàng hóa trong nước
thay thế nhập khẩu. Kết quả chỉ sau 20 đến 30 năm đã thực hiện thành công quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Mô hình này đã cho thấy trong thời đại hiện nay các nước đi sau nếu biết khai thác tốt lợi
thế trong nước tận dụng tiếp thu những nguồn lực đặc biệt các thành tựu khoa học, công
nghệ mới của các nước đi trước thì sẽ rút ngắn được quá trình công nghiệp hóa.
Nhật Bản các nước công nghiệp hóa mới (NICs), đã xây dựng chiến lược phát triển
khoa học - công nghệ nhiều tầng, kết hợp cả công nghệ truyền thốngcông nghệ hiện đại.
Kết hợp vừa nghiên cứu chế tạo vừa tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển
hơn, con đường vừa bản, lâu dài vững chắc vừa đảm bảo đi tắt bám đuổi theo các
nước phát triển hơn. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Nhật Bản các nước
công nghiệp hóa mới (NICs) là gợi ý tốt cho Việt Nam trong quá trình tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân.
2. Tính tất yếu của công nghệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu của công nghiệp - hóa hiện đại hóa ở việt nam
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ
sang một nền kinh tế sản xuất lớn ngày càng hiện đại. Một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải có
cấu sở hạ tầng những công cụ lao động ngày càng tiến bộ. Để tạo lập ra những
7
sở vật chất kỹ thuật đó thì theo nguyên của chủ nghĩa Mác, mọi quốc gia đều phải tiến
hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất
lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một yêu cầu khách quan. Cơ sở
vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ
ngày càng hiện đại và không ngừng hoàn thiện.
Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cơ khí hoá các tư liệu sản xuất mà còn ngày càng hiện
đại hoá trình độ công nghệ tiên tiến thường xuyên đổi mới. Đây một nhiệm vụ khó
khăn và mang tính chất quyết định đối với sự sống còn của mỗi quốc gia. Chỉ có tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất
cũng như tinh thần của hội, đẩy nhanh tốc độ phát triển tăng năng suất lao động, ngày
càng thỏa mãn đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là
con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa được hiểu là “Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ quản kinh tế hội từ sử dụng lao động thủ
công chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiêu biểu hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa
học công nghệ tạo ra năng suất lao động cao”.
Như vậy, trong điều kiện thế giới đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang hậu công
nghiệp, nhiều nước châu Á đã chọn con đường “công nghiệp hoá đuổi kịp để nhanh chóng
hoà nhập vào nền văn minh hiện đại, biến những vùng nghèo nàn lạc hậu trước đây thành
những hội hiện đại”. Các nước này đã tạo nên những kinh nghiệm bổ ích, thiết thực cho
các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
các nước đang phát triển nói chung nước ta nói riêng công nghiệp hoá điều cấp
bách sống còn. Công nghiệp hoáchìa khóa của sự phát triển đặc biệt gắn chặt với sự tăng
trưởng bởi “công nghiệp hoá chẳng phải cái khác ngoài một phương tiện đặc biệt
mạnh mẽ để tăng năng suất của con người qua đótăng số lượng sản phẩm, tính đa dạng
số lượng sản phẩm. Các nước gọi phát triển khác hẳn các nước khác chính chỗ
công nghiệp hoá”.
Công nghiệp hoá tạo nên nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng suất cao, cơ
cấu sản xuất đa dạng, công ăn việc làm phong phú hơn nhiều so với một nền kinh tế chưa
công nghiệp hoá.
Để đạt được hiệu quả cao thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp với
những bước tiến tuần tự về công nghệ vận dụng phát triển chiều rộng, tạo nhiều công ăn việc
8
làm cho đội ngũ đông đảo lao động hiện nay. Với việc tranh thủ với bước đi tắt đón đầu phát
triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình độ phát triển của khoa học công nghệ
trên thế giới. Khoa học công nghệ hiện đại nhân tố then chốt của hiện đại hóa, nhưng
hiện đại hoá nội dung sâu sắc rộng lớn hơn nhiều, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị
và văn hoá.
Hiện đại hoá quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố xã hội của họ nhằm tiến
tới một hệ thống kinh tế xã hội chính trị văn minh tiên tiến. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước con người những vấn đề nan giải cả trong quan hệ giữa con người với con người và
con người với thiên nhiên. Để giải quyết những vấn đề này chúng ta phải thay đổi sâu sắc
cách nhìn, cách nghĩ hành động của mình. Nắm bắt được tưởng đó, Đảng ta đã xác
định thực chất của công nghiệp hoá hội chủ nghĩa quá trình thực hiện cách mạng kỹ
thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động hội quá trình tích luỹhội chủ nghĩa
để không ngừng quá trình tái sản xuất mở rộng. Đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
được xác định ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng một cách hợp trên sở phát
triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ. Như vậy, không còn như trước kia coi công nghiệp
nặng là công nghiệp hàng đầu tuyệt đối.
Công nghiệp hóa và hiện đại hoá có những nét riêng đối với từng nước nhưng đó chỉ là sự
vận dụng một quá trình chuyển đổi tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng nước thôi. Công nghiệp hoá hiện đại hoá quá trình rộng lớn phức tạp,
bản chất của quá trình này bao gồm các mặt sau:
- Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế.
- Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý.
Thực hiện tốt công nghiệp hoá hiện đại hoá ý nghĩa cùng to lớn: làm thay đổi
lực lượng sản xuất thay đổi căn bản công nghệ kỹ thuật, công nghệ sản xuất tăng năng suất
lao động tạo ra tốc độ phát triển cao, thực hiện xã hội hoá về mặt khoa học kỹ thuật. Hơn thế
nữa trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa các ngành là rất phức tạp và đa
dạng đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước, tạo
khả năng tích lũy vốn. Tất cả chỉ có thể thực hiện nhờ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá. Chỉ có công nghiệp hóa và hiện đại hoá mới có khả năng thực tế để quan tâm phát triển
tự do toàn diện của yếu tố con người tạo khả năng mở rộng hợp tác quốc tế và củng cố quốc
phòng.
Với tất cả ý nghĩa to lớn trên, công nghiệp hoá hiện đại hoá tất yếu mang tính
khách quan là nội dung con đường duy nhất đúng đắn để dựa trên kinh tế hội nước ta
9
phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
hội công bằng văn minh.
2.2. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có những tác dụng to lớn
về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước:
Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế
ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị,hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội.
Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng
cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng
cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh
tế – xã hội.
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến
hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất
cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc
tế.
3. Nội dung các vấn đề cơ bản về công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam
3.1. Tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất - xã hội lạc
hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ
Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ phát triển đòi hỏi phải dựa trên những tiền đề trong
nước và quốc tế để tạo lập các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt của đời sống sản xuất -
hội. Đó chính đồng thời thực hiện phát triển duy, thể chế nguồn lực; môi trường
quốc tế thuận lợi trình độ văn minh của hội, ý thức xây dựng hội n minh của
người dân.
3.2. Thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - hội lạc hậu sang nền sản
xuất - xã hội hiện đại
3.2.1. Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ mới, hiện đại
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải ứng dụng những thành tựu
khoa học - công nghệ mới, hiện đại vào tất cả các ngành, các vùng, các lĩnh vực của nền
kinh tế cũng cần phải sự lựa chọn cho phù hợp với khả năng, trình độ điều kiện
thực tiễn trong từng giai đoạn. Ứng dụng khoa học - công nghệ mới, hiện đại phải được tiến
hành đồng bộ, cân đối thì mới đem lại hiệu quả cao.
10
Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ ở nước ta hiện nay phải gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức. Có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động xã
hội, trong từng sản phẩm trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động bắp,
hao phí lao động bắp giảm đi cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao
động trí óc tăng lên vô cùng lớn. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động
to lớn tới sự phát triển những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của
khoa học - công nghệ (như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...); nhưng cũng có thể là
những ngành kinh tế truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng
khoa học - công nghệ cao.
Qua thực tế phát triển, đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức được khái quát như sau:
- Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, vốn quý
nhất, nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng phát triển kinh
tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những
biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào
các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.
- Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh
vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu
hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền
kinh tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hoá; sự sáng
tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển
con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
- Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều liên quan đến vấn đề toàn cầu hoá
kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội
trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Những đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta,
nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn những thành tựu công nghệ hiện đại
và tri thức mới; công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn với kinh tế tri thức, phát triển mạnh
các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử
dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; kết
hợp quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng bước phát triển kinh tế tri thức, để
vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
3.2.2. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
11
Trong hệ thống các cấu kinh tế, cấu ngành kinh tế (công nghiệp - nông nghiệp -
dịch vụ) giữ vị trí quan trọng nhất phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế kết
quả của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cấu ngành kinh
tế theo hướng hiện đại, hiệu quả chính quá trình tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp
dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP.
Chuyển dịch cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền
với sự phát triển của phân công lao động trong ngoài nước, từng bước hình thành các
ngành, các vùng chuyên môn hoá sản xuất, để khai thác thế mạnh, nâng cao năng suất lao
động, đồng thời phát huy nguồn lực của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả phải đáp ứng được các yêu cầu:
- Khai thác, phân bổ phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước, thu hút hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
- Cho phép ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại vào các
ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế yêu cầu của toàn cầu hoá
hội nhập quốc tế.
Việc chuyển dịch cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế theo hướng hiện đại, hợp
và hiệu quả không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế như công nghệ
thông tin, năng lượng, viễn thông, giao thông vận tải... Đồng thời, phải được đặt trong chiến
lược phát triển tổng thể của nền kinh tế, tính đến các mối quan hệ trong ngoài nước;
quan hệ giữa trung ương với địa phương; quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an
ninh, quốc phòng; quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng.
3.2.3. Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở nước ta nhằm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vì vậy phải củng cố và tăng cường hoàn thiện quan hệ sản xuất; trong
đó thực hiện thường xuyên nhiệm vụ hoàn thiện quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối, quan hệ
quản lý, phân bổ nguồn lực theo hướng tạo động cho phát triển, giải phóng sức sáng tạo của
các tầng lớp nhân dân.
3.2.4. Sẵn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Để thích ứng với tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam cần phải:
hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo.Thứ nhất,
12
Thứ hai, nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực củaThứ ba,
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trong đó cần thực hiện các nhiệm vụ:
- Xây dựng phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin truyền thông,
chuẩn bị nền tảng kinh tế số: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin truyền
thông trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế; coi phát triểnứng dụng công nghệ
thông tin khâu đột phá trong Cách mạng công nghiệp lần thứ Việt Nam; đảm
bảo an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện bình đẳng cho người dân doanh nghiệp
khi tiếp cận thông tin và nội dung số.
- Thực hiện chuyển đổi số nền kinh tế quản trị hội: Chuyển đổi số nền kinh tế
trên sở nền tảng số hóa đối với phát triển các lĩnh vực quan trọng như: phát triển
công nghiệp năng lượng, công nghiệp hoá chất, điện tử, công nghiệp vật liệu, công
nghiệp hàng tiêu dùng; phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông, lâm,
ngư nghiệp nhằm nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn: Ứng dụng công
nghệ sinh học vào sản xuất; thực hiệngiới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, số hóa;
phát triển công, thương nghiệp và dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; từng
bước xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
- Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao: Coi hiền tài
nguyên khí quốc gia, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước trong thời đại khoa
học - công nghệ mới.
13
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Đổi mới công nghệ trong nền kinh tế
Để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhanh bền vững theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa, một trong những yếu tố quan trọng phải nâng cao được sức
cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ
(KHCN).
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta luôn nhất quán xác định khoa
học - công nghệ quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển
nhanh và bền vững. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phát triển khoa học -
công nghệ đổi mới sáng tạo, coi đó một trong những đột phá chiến lược của đất nước
trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khoa học - công nghệ chưa thực hiện đầy đủ vai trò
“quốc sách hàng đầu”, chưa động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất:
“Năng lực trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia
công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa
hóa thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế”. Trong khi đó, trên thế
giới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất công nghệ số, đang phát triển mạnh
mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến nhiều thời nhưng cũng đặt ra không ít
thách thức với tất cả các nền kinh tế.
Để tăng cường phát triển KHCN, hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy đầu vào KHCN
của nước ta cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng:
Thứ nhất, thúc đẩy chuyển đổi tư duy từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc, gia công,
lắp ráp sang chủ động sáng tạo, vươn lên, làm chủ công nghệ.
Để chủ động phát triển, nước ta phải thoát khỏi sự tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và
nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp. Thực tế cho thấy, công nghiệp, công nghiệp hỗ
trợ nước ta còn phát triển chậm, trình độ hạn chế, nhiều nguyên liệu đầu vào quan trọng
chưa sản xuất được nên phụ thuộc lớn vào nhập khẩu; việc tham gia trong chuỗi giá trị toàn
cầu ở nhiều sản phẩm vẫn chỉ ở công đoạn cuối cùng nên giá trị gia tăng không lớn. Hiện đại
hóa công nghệ sản xuất điều kiện tiên quyết để đưa sản phẩm thương hiệu Việt Nam lên
tầm cao mới, thoát khỏi vị trí gia công, lắp ráp trong thời gian qua. Ứng dụng, tiên phong
sáng tạo, phát minh công nghệ mớithể giúp doanh nghiệp tăng doanh số, nâng cao vị thế
doanh nghiệp nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không con đường nào khác phải
dựa trên nền tảng tài nguyên trí tuệ để sáng tạo công nghệ.
14
Thứ hai, chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế số, dựa trên nền
tảng tri thức.
Ngày nay, với sự chuyển động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu trong kỷ nguyên Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, chủ động
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đại hội XIII chủ trương “đẩy
mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ,
đổi mới sáng tạo”, trong đó con người hay tài nguyên trí tuệ nền tảng cốt lõi, doanh
nghiệp phải trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao công nghệ, ứng
dụng công nghệ số. Với lợi thế của nước đi sau, chúng ta hoàn toàn thể tiến thẳng vào
những lĩnh vực mới của kinh tế số để thể bứt tốc, tham gia quá trình đó một cách chủ
động, không chờ thế giới hoàn thiện công nghệ thì ta mới chuyển đổi số. Chuyển đổi từ nền
kinh tế vật sang nền kinh tế số sự tối ưu hóa không giới hạn mọi khâu, mọi quy trình
sản xuất. Do vậy, nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo trở thành động lực quyết định tăng năng
suất lao động, lợi thế cạnh tranh trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
thúc đẩy chuyển đổi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sang giai đoạn mới:Thứ ba,
thâm dụng tri thức và đột phá đổi mới sáng tạo.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam chưa đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như các
nước tiên tiến trên thế giới, nhưng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ đã mở ra hội
để nước ta thay“đi sau” thì có thể nỗ lực để “đi cùng”, một số lĩnh vực mũi nhọn, thế
mạnh, thể phấn đấu “đi trước, vượt trước”. Đại hội XIII chủ trương “chuyển mạnh nền
kinh tế sang hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới
sáng tạo, nhân lực chất lượng cao”. Chủ trương này không chỉ nhấn mạnh phát triển khoa
học - công nghệ, còn đề cao u cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm,
xuyên suốt trong xu thế Cách mạng công nghiệp lần thứ đang tăng tốc. Đại hội XIII xác
định: “Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm,tiềm năng, lợi thế
và còn địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng vượt
lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”.
2. Nâng cao trình độ người lao động
Tăng cường nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của nhân lực đối với phát triển kinh tế
hội tất cả các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp/ người sử
dụng lao động và người dân. Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “trồng người”.
Phải nhất quán giữa chủ trương hành động về phát triển con người, giữa ban hành chính
sách đảm bảo nguồn lực thực hiện. Coi đầu cho con người đầu cho phát triển
phải đi trước một bước. Kế hoạch về nguồn nhân lực phải là cấu phần quan trọng trong mọi
chương trình dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
15
chiến lược căn cơ về xây dựng vốn con người Việt Nam bao gồm kiến thức, kỹ năng
sức khỏe, được tích lũy trong suốt cuộc đời, để người n nhận ra tiềm năng của mình
như là thành viên hữu ích của xã hội. Chiến lược cần ưu tiên 2 mục tiêu cụ thể sau:
- Rút ngắn khoảng cách tụt hậu về cân nặng, chiều cao cho thế hệ tương lai thông qua
tăng cường thực hiện các chính sách chương trình dinh dưỡng, chăm sóc y tế, rèn
luyện sức khỏe. Ưu tiên các chính sách an sinh xã hội hỗ trợ trẻ em các hộ gia đình có
khó khăn về điều kiện kinh tế để góp phần giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
thể thấp còi và nhẹ cân.
- Nâng cao trình độ học vấn kỹ năng cho thế hệ tương lai đáp ứng yêu cầu cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 thông qua các chương trình cải cách giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp giáo dục đại học theo hướng khai phóng, khuyến khích
kích thích tính sáng tạo để phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân và tập thể.
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu khoa học chuyển giao công nghệ trong các
trường đại học, nhất là các trường đại học định hướng nghiên cứu. Nhà trường chủ động tiếp
cận thị trường tạo ra nhu cầu cho doanh nghiệp. Thương mại hóa mạnh mẽ sản phẩm
khoa học công nghệ và khởi nghiệp của các nhà khoa học. Các trường đại học, cơ sở đào tạo
được quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách
nhà nước, xây dựng cơ chế phân chia lợi ích hợp lý với tác giả và các bên liên quan phù hợp
với Luật Sở hữu trí tuệ và Khoa học Công nghệ.
Tăng cường kết nối đào tạo, nghiên cứu khoa học hỗ trợ khởi nghiệp. Tạo ra những
chương trình, dự án phối hợp để kêu gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tham gia xây dựng,
phát triển sản phẩm dịch vụ mới định hướng, đào tạo kỹ năng cho sinh viên, nghiên cứu
sinh để giúp họ khởi nghiệp vì mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tăng cường kết nối đào tạo sử dụng lao động. Tăng cường thông tin thị trường lao
động. Mở rộng liên kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong xây dựng chương trình
đào tạo, mở rộng môi trường và cơ hội thực hành và cơ hội việc làm cho học sinh/sinh viên.
Đổi mới có tính cách mạng về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả công lao động; gắn sử
dụng, đánh giá với đào tạo nguồn nhân lực. Xây dựng môi trường làm việc, trọng dụng nhân
tài đồng bộ, tạo hội cho người tài phát huy năng lực thu hút nhân lực trình độ cao
người Việt đang làm việc ở nước ngoài, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại
Việt Nam.
3. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, hội, khoa học - công nghệ, giáo
dục - đào tạo các lĩnh vực khác”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra định
hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm
16
tới, trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc
tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động
tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo
vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực
hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều
kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời
sống chính trị - hội quốc tế; trở thành thành viên trách nhiệm, vị trí, vai trò ảnh
hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó
có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước
trong bối cảnh mới của “công nghiệp hóa, hiện đạ hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc
tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” “hội nhập quốc tế” để
làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn
cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán
sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội
nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừngmức độ hội nhập tương đối sâu với
vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới
đây, cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới,
nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử
lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như,
trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước,
tuy nhiên, phải lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập
quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ
thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn
hóa, xửhiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây
dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm
nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...
17
Thứ tư, Việt Nam cần chủ động tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách
hay thiết lập các định chế toàn cầu khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật
chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh
chấp. Ngoài những chế quốc tế phổ biến, thế giới còn những chế giải quyết tranh
chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành ta chưa nhiều kinh nghiệm. Do đó,
vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải
quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh
vực này.
18
KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm đổi mới và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam
đã thu được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá, thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công
đã đạt được, quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua cũng đang bộc
lộ những hạn chế nhất định như: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng,
cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực cạnh tranh so với các nước trong khu vực còn
thấp, chất lượng nhân lực chưa cao, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng ra toàn cầu như hiện nay,
Việt Nam muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thực hiện những
giải pháp mang tính đồng bộ, phải quyết liệt chuyển đổi hình kinh tế, nâng cao hiệu quả
huy động và sử dụng vốn; chú trọng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy khả
năng cạnh tranh cấp độ quốc gia, địa phương, ngành, sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú ý
nâng cao vai trò định hướng của Nhà nước trong đầu phát triển kinh tế - hội gắn với
thu hút đầu của khu vực nhân; tạo các chế tài chính, hình thành các chính sách phù
hợp khuyến khích đầu tư. Chỉ khi thực hiện được cái giải pháp một cách hợp lý, đồng bộ và
hiệu quả thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới càng được đẩy mạnh phát triển,
đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
19
| 1/19

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Đề tài: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Thị Hoài Lớp HP: 2154RLCP1211
Nhóm thực hiện: Nhóm 8 Hà Nội 2021
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ NHÓM 8 1 STT MSV Thành viên Công việc Ghi chú 71 20D150097
Trịnh Thị Thu Phương Làm powerpoint (nhóm trưởng) 72 20D150157 Phạm Thị Phượng Nội dung chương 1- phần 1,2 73 20D150039 Lê Thị Diễm Quỳnh Nội dung chương 1- phần 1,2 74 20D150099 Lê Thị Thúy Quỳnh Nội dung chương 1- phần 1,2 75 20D150159 Nguyễn Phương Quỳnh Nội dung chương 1- phần 3 76 20D150040 Nguyễn Thị Diễm Quỳnh Nội dung chương 1- phần 3 77 20D150100 Triệu Thị Như Quỳnh Nội dung chương 1- phần 3 78 20D150102 Lê Thị Thảo Nội dung chương 2- phần 1 79 20D150162 Lê Thị thảo Nội dung chương 2- phần 2 80 20D150043 Nguyễn Thị Thảo Nội dung chương 2- phần 3; tổng hợp word 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM
............................................................................................................................5
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa..........................................5
1.1. Cách mạng công nghiệp..........................................................................................5
1.2. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới.............................6
2. Tính tất yếu của công nghệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam......................................7
2.1. Tính tất yếu của công nghiệp - hóa hiện đại hóa ở việt nam...................................7
2.2. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.........................................................10
3. Nội dung các vấn đề cơ bản về công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam...........10
3.1. Tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất - xã hội
lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ....................................................................10
3.2. Thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản
xuất - xã hội hiện đại...................................................................................................10
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
....................................................................................................14
1. Đổi mới công nghệ trong nền kinh tế..........................................................................14
2. Nâng cao trình độ người lao động...............................................................................15
3. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế..........................................................................16 KẾT LUẬN 3 MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát
triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình
độ mới. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay,
quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kỹ
thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã
hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công
nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ
trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa
học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Thực hiện đề tài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam”
, chúng em muốn thể hiện cái nhìn của mình về công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
đồng thời có thể rút ra được những kiến thức cần thiết cho mình trong công việc cũng như
cuộc sống sau này. Dù đã rất cố gắng hoàn thành bài tiểu luận nhưng không thể tránh khỏi
sai sót, chúng em kính mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của cô để thêm phần hoàn thiện hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn! 4
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
1.1. Cách mạng công nghiệp
1.1.1 Khái niệm về cách mạng công nghiệp
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao
động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển
của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo bước
phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng
mới trong kỹ thuật - công nghệ đó vào đời sống xã hội.
1.1.2. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển lực
lượng sản xuất của các quốc gia. Từ những bước đầu tiên khi máy móc ra đời thế chỗ cho
lao động thủ công cho đến khi nền sản xuất chuyển sang giai đoạn tự động hóa bởi sự ra đời
của máy tính điện tử đã đẩy nhanh quá trình tập trung hóa sản xuất. Cách mạng công nghiệp
cũng đã đẩy sản xuất của con người vượt qua những giới hạn về tài nguyên thiên nhiên và sự
phụ thuộc của sản xuất vào các nguồn năng lượng truyền thống. Chính vì thế, cách mạng
công nghiệp vừa đặt ra những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao lại vừa
tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực. Những thành tựu của các cuộc cách mạng công
nghiệp là đòn bẩy để phát triển xa hơn về khoa học - công nghệ cho việc ứng dụng chúng
vào nền sản xuất và trong đời sống. Bên cạnh đó cũng là tạo điều kiện cho các nước kém
phát triển tiếp cận với những thành tựu về khoa học - công nghệ, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa để rút ngắn khoảng cách về trình độ với các nước tiên tiến hơn.
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Cách mạng công nghiệp đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo
điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và trao đổi thành tựu khoa học công nghệ.
Ngoài ra còn tạo điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội
giữa các nước; mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển các mô hình
kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp.
Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển. 5
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh đến phương thức quản trị và điều hành của
nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước phải cải tổ theo hướng minh bạch và hiệu quả, yêu
cầu các quốc gia phải có hệ thống thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi hoạt động sản xuất
lên một trình độ cao hơn, tạo ra năng suất và giá trị cao hơn, đáp ứng yêu cầu của quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó còn tác động đến phương thức quản trị và
điều hành của doanh nghiệp. Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất làm cho các doanh
nghiệp phải thay đổi cách thức tiếp thị và cung ứng hàng hóa dịch vụ theo cách mới. Cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 có quy mô vô cùng lớn và lan truyền mạnh mẽ, làm thay đổi
nhận thức của con người trên nhiều lĩnh vực và làm đổi mới công nghệ tạo nên sức ép cạnh
tranh rất lớn buộc các doanh nghiệp phải thích ứng và đổi mới kịp thời phương thức quản trị và điều hành.
1.2. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới 1.2.1. Công nghiệp hoá
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao động thủ
công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.
1.2.2. Các mô hình công nghiệp hoá tiêu biểu trên thế giới:
a) Mô hình công nghiệp hoá cổ điển:
Mô hình công nghiệp hóa đầu tiên trong lịch sử được gắn liền với cuộc cách mạng công
nghiệp 1.0 tiêu biểu ở nước Anh (giữa thế kỷ XVIII) bắt đầu từ phát triển ngành công nghiệp
nhẹ (ngành dệt), nông nghiệp và cuối cùng là ngành công nghiệp nặng (cơ khí chế tạo máy).
Quá trình công nghiệp hóa diễn ra tuần tự trong thời gian trung bình từ 60-80 năm, sau khi
khởi nguồn ở Anh rồi lan rộng sang Pháp và các nước Đức, Mỹ.
Quá trình công nghiệp hóa cổ điển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và lao động,
làm bùng lên cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại nhà tư bản ở các nước tư bản
lúc bấy giờ, tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Nó còn dẫn đến mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản với các nước thuộc địa, quá trình xâm chiếm và
cướp bóc thuộc địa đã dẫn đến phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa,
thoát khỏi sự thống trị và áp bức của các nước tư bản.
b) Mô hình công nghiệp hóa kiểu Liên Xô:
Mô hình này được xây dựng đầu tiên ở liên xô năm 1930 sau đó lan ra các nước XHCN ở
Đông Âu sau 1945, ở Việt Nam chúng ta xây dựng mô hình này từ năm 1960 đến năm 1986
rồi xóa bỏ. Đặc trưng là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng như ngành cơ khí chế tạo máy;
nhà nước có vai trò quyết định, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và mệnh lệnh, cho 6
phép trong một thời gian ngắn các nước theo mô hình Liên Xô đã xây dựng được hệ thống
cơ sở vật chất - kỹ thuật to lớn, hoàn thành được mục tiêu đề ra.
Giai đoạn đầu mô hình này rất hiệu quả, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đứng đầu
Châu Âu và chỉ đứng thứ 2 sau Mỹ, giúp Liên Xô nhanh chóng hoàn thành xong kế hoạch
công nghiệp hóa sau 18 năm. Tuy nhiên ở giai đoạn sau, khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày
càng phát triển, Liên Xô tỏ ra lạc hậu, không còn thích ứng được, làm kìm hãm việc ứng
dụng những tiến bộ kỹ thuật mới. Mô hình công nghiệp hóa ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng không còn đủ sức mạnh để giúp Liên Xô vươn lên trong cuộc đua với Mỹ sau này nên
mô hình sụp đổ vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
c) Mô hình công nghiệp hoá của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs)
Dù xuất phát muộn nhưng rút kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hóa của các nước đi
trước, các nước như Nhật Bản và NICs đã tiến hành công nghiệp hóa theo con đường mới
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn, tận dụng tốt cơ hội để đi tắt thông qua tiếp
nhận công nghệ và đi thẳng vào công nghiệp hóa hiện đại bắn việc nhập khẩu công nghệ của
các nước đi trước từng bước sáng tạo đẩy mạnh xuất khẩu phát triển hàng hóa trong nước
thay thế nhập khẩu. Kết quả là chỉ sau 20 đến 30 năm đã thực hiện thành công quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Mô hình này đã cho thấy trong thời đại hiện nay các nước đi sau nếu biết khai thác tốt lợi
thế trong nước tận dụng tiếp thu những nguồn lực đặc biệt là các thành tựu khoa học, công
nghệ mới của các nước đi trước thì sẽ rút ngắn được quá trình công nghiệp hóa.
Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs), đã xây dựng chiến lược phát triển
khoa học - công nghệ nhiều tầng, kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại.
Kết hợp vừa nghiên cứu chế tạo vừa tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển
hơn, con đường vừa cơ bản, lâu dài và vững chắc vừa đảm bảo đi tắt và bám đuổi theo các
nước phát triển hơn. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Nhật Bản và các nước
công nghiệp hóa mới (NICs) là gợi ý tốt cho Việt Nam trong quá trình tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân.
2. Tính tất yếu của công nghệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu của công nghiệp - hóa hiện đại hóa ở việt nam

Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ
sang một nền kinh tế sản xuất lớn ngày càng hiện đại. Một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải có
cơ cấu cơ sở hạ tầng và những công cụ lao động ngày càng tiến bộ. Để tạo lập ra những cơ 7
sở vật chất kỹ thuật đó thì theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mọi quốc gia đều phải tiến
hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất
lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một yêu cầu khách quan. Cơ sở
vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ
ngày càng hiện đại và không ngừng hoàn thiện.
Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cơ khí hoá các tư liệu sản xuất mà còn ngày càng hiện
đại hoá ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới. Đây là một nhiệm vụ khó
khăn và mang tính chất quyết định đối với sự sống còn của mỗi quốc gia. Chỉ có tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất
cũng như tinh thần của xã hội, đẩy nhanh tốc độ phát triển tăng năng suất lao động, ngày
càng thỏa mãn và đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là
con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa được hiểu là “Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiêu biểu hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa
học công nghệ tạo ra năng suất lao động cao”.
Như vậy, trong điều kiện thế giới đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang hậu công
nghiệp, nhiều nước châu Á đã chọn con đường “công nghiệp hoá đuổi kịp để nhanh chóng
hoà nhập vào nền văn minh hiện đại, biến những vùng nghèo nàn lạc hậu trước đây thành
những xã hội hiện đại”. Các nước này đã tạo nên những kinh nghiệm bổ ích, thiết thực cho
các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Ở các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng công nghiệp hoá là điều cấp
bách sống còn. Công nghiệp hoá là chìa khóa của sự phát triển đặc biệt gắn chặt với sự tăng
trưởng bởi vì “công nghiệp hoá chẳng phải là cái gì khác ngoài một phương tiện đặc biệt
mạnh mẽ để tăng năng suất của con người qua đó mà tăng số lượng sản phẩm, tính đa dạng
và số lượng sản phẩm. Các nước gọi là phát triển khác hẳn các nước khác chính là ở chỗ là công nghiệp hoá”.
Công nghiệp hoá tạo nên nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng suất cao, cơ
cấu sản xuất đa dạng, công ăn việc làm phong phú hơn nhiều so với một nền kinh tế chưa công nghiệp hoá.
Để đạt được hiệu quả cao thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp với
những bước tiến tuần tự về công nghệ vận dụng phát triển chiều rộng, tạo nhiều công ăn việc 8
làm cho đội ngũ đông đảo lao động hiện nay. Với việc tranh thủ với bước đi tắt đón đầu phát
triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình độ phát triển của khoa học và công nghệ
trên thế giới. Khoa học và công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của hiện đại hóa, nhưng
hiện đại hoá có nội dung sâu sắc và rộng lớn hơn nhiều, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá.
Hiện đại hoá là quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố xã hội của họ nhằm tiến
tới một hệ thống kinh tế xã hội chính trị văn minh tiên tiến. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước con người những vấn đề nan giải cả trong quan hệ giữa con người với con người và
con người với thiên nhiên. Để giải quyết những vấn đề này chúng ta phải thay đổi sâu sắc
cách nhìn, cách nghĩ và hành động của mình. Nắm bắt được tư tưởng đó, Đảng ta đã xác
định thực chất của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình thực hiện cách mạng kỹ
thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa
để không ngừng quá trình tái sản xuất mở rộng. Đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
được xác định là ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Như vậy, không còn như trước kia coi công nghiệp
nặng là công nghiệp hàng đầu tuyệt đối.
Công nghiệp hóa và hiện đại hoá có những nét riêng đối với từng nước nhưng đó chỉ là sự
vận dụng một quá trình chuyển đổi có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là quá trình rộng lớn và phức tạp,
bản chất của quá trình này bao gồm các mặt sau:
- Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế.
- Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý.
Thực hiện tốt công nghiệp hoá và hiện đại hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn: làm thay đổi
lực lượng sản xuất thay đổi căn bản công nghệ kỹ thuật, công nghệ sản xuất tăng năng suất
lao động tạo ra tốc độ phát triển cao, thực hiện xã hội hoá về mặt khoa học kỹ thuật. Hơn thế
nữa trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa các ngành là rất phức tạp và đa
dạng đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước, tạo
khả năng tích lũy vốn. Tất cả chỉ có thể thực hiện nhờ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá. Chỉ có công nghiệp hóa và hiện đại hoá mới có khả năng thực tế để quan tâm phát triển
tự do toàn diện của yếu tố con người tạo khả năng mở rộng hợp tác quốc tế và củng cố quốc phòng.
Với tất cả ý nghĩa to lớn trên, công nghiệp hoá và hiện đại hoá là tất yếu và mang tính
khách quan là nội dung và con đường duy nhất đúng đắn để dựa trên kinh tế xã hội nước ta 9
phát triển nhanh, bền vững, có hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2.2. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có những tác dụng to lớn
về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước:

Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế
ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng
cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng
cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế – xã hội.
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến
hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất – kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất
cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
3. Nội dung các vấn đề cơ bản về công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam
3.1. Tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất - xã hội lạc
hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ
Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ phát triển đòi hỏi phải dựa trên những tiền đề trong
nước và quốc tế để tạo lập các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt của đời sống sản xuất -
xã hội. Đó chính là đồng thời thực hiện phát triển tư duy, thể chế và nguồn lực; môi trường
quốc tế thuận lợi và trình độ văn minh của xã hội, ý thức xây dựng xã hội văn minh của người dân.
3.2. Thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản
xuất - xã hội hiện đại
3.2.1. Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ mới, hiện đại
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải ứng dụng những thành tựu
khoa học - công nghệ mới, hiện đại vào tất cả các ngành, các vùng, các lĩnh vực của nền
kinh tế và cũng cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với khả năng, trình độ và điều kiện
thực tiễn trong từng giai đoạn. Ứng dụng khoa học - công nghệ mới, hiện đại phải được tiến
hành đồng bộ, cân đối thì mới đem lại hiệu quả cao. 10
Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ ở nước ta hiện nay phải gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức. Có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động xã
hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp,
hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao
động trí óc tăng lên vô cùng lớn. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động
to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của
khoa học - công nghệ (như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...); nhưng cũng có thể là
những ngành kinh tế truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học - công nghệ cao.
Qua thực tế phát triển, đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức được khái quát như sau:
- Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý
nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những
biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào
các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.
- Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh
vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu
hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hoá; sự sáng
tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển
con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
- Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hoá
kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội
trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Những đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta,
nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn những thành tựu công nghệ hiện đại
và tri thức mới; công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn với kinh tế tri thức, phát triển mạnh
các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử
dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; kết
hợp quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng bước phát triển kinh tế tri thức, để
vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
3.2.2. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả 11
Trong hệ thống các cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế (công nghiệp - nông nghiệp -
dịch vụ) giữ vị trí quan trọng nhất vì nó phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế và kết
quả của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế theo hướng hiện đại, hiệu quả chính là quá trình tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và
dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền
với sự phát triển của phân công lao động trong và ngoài nước, từng bước hình thành các
ngành, các vùng chuyên môn hoá sản xuất, để khai thác thế mạnh, nâng cao năng suất lao
động, đồng thời phát huy nguồn lực của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả phải đáp ứng được các yêu cầu:
- Khai thác, phân bổ và phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước, thu hút có hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
- Cho phép ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại vào các
ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế và yêu cầu của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý
và hiệu quả không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế như công nghệ
thông tin, năng lượng, viễn thông, giao thông vận tải... Đồng thời, phải được đặt trong chiến
lược phát triển tổng thể của nền kinh tế, có tính đến các mối quan hệ trong và ngoài nước;
quan hệ giữa trung ương với địa phương; quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an
ninh, quốc phòng; quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng.
3.2.3. Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở nước ta là nhằm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vì vậy phải củng cố và tăng cường hoàn thiện quan hệ sản xuất; trong
đó thực hiện thường xuyên nhiệm vụ hoàn thiện quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối, quan hệ
quản lý, phân bổ nguồn lực theo hướng tạo động cho phát triển, giải phóng sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân.
3.2.4. Sẵn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Để thích ứng với tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam cần phải:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo. 12
Thứ hai, nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thứ
ba, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trong đó cần thực hiện các nhiệm vụ:
- Xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và truyền thông,
chuẩn bị nền tảng kinh tế số: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế; coi phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin là khâu đột phá trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam; đảm
bảo an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện bình đẳng cho người dân và doanh nghiệp
khi tiếp cận thông tin và nội dung số.
- Thực hiện chuyển đổi số nền kinh tế và quản trị xã hội: Chuyển đổi số nền kinh tế
trên cơ sở nền tảng số hóa đối với phát triển các lĩnh vực quan trọng như: phát triển
công nghiệp năng lượng, công nghiệp hoá chất, điện tử, công nghiệp vật liệu, công
nghiệp hàng tiêu dùng; phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông, lâm,
ngư nghiệp nhằm nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn: Ứng dụng công
nghệ sinh học vào sản xuất; thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, số hóa;
phát triển công, thương nghiệp và dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; từng
bước xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao: Coi hiền tài là
nguyên khí quốc gia, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước trong thời đại khoa học - công nghệ mới. 13
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Đổi mới công nghệ trong nền kinh tế
Để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhanh và bền vững theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, một trong những yếu tố quan trọng là phải nâng cao được sức
cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ (KHCN).
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta luôn nhất quán xác định khoa
học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển
nhanh và bền vững. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phát triển khoa học -
công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đó là một trong những đột phá chiến lược của đất nước
trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khoa học - công nghệ chưa thực hiện đầy đủ vai trò
“quốc sách hàng đầu”, chưa là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất:
“Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu là gia
công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa
hóa thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế”. Trong khi đó, trên thế
giới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, đang phát triển mạnh
mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít
thách thức với tất cả các nền kinh tế.
Để tăng cường phát triển KHCN, hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư vào KHCN
của nước ta cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng:
Thứ nhất, thúc đẩy chuyển đổi tư duy từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc, gia công,
lắp ráp sang chủ động sáng tạo, vươn lên, làm chủ công nghệ.
Để chủ động phát triển, nước ta phải thoát khỏi sự tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và
nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp. Thực tế cho thấy, công nghiệp, công nghiệp hỗ
trợ nước ta còn phát triển chậm, trình độ hạn chế, nhiều nguyên liệu đầu vào quan trọng
chưa sản xuất được nên phụ thuộc lớn vào nhập khẩu; việc tham gia trong chuỗi giá trị toàn
cầu ở nhiều sản phẩm vẫn chỉ ở công đoạn cuối cùng nên giá trị gia tăng không lớn. Hiện đại
hóa công nghệ sản xuất là điều kiện tiên quyết để đưa sản phẩm thương hiệu Việt Nam lên
tầm cao mới, thoát khỏi vị trí gia công, lắp ráp trong thời gian qua. Ứng dụng, tiên phong
sáng tạo, phát minh công nghệ mới có thể giúp doanh nghiệp tăng doanh số, nâng cao vị thế
doanh nghiệp và nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không có con đường nào khác phải
dựa trên nền tảng tài nguyên trí tuệ để sáng tạo công nghệ. 14
Thứ hai, chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế số, dựa trên nền tảng tri thức.
Ngày nay, với sự chuyển động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu trong kỷ nguyên Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, chủ động
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đại hội XIII chủ trương “đẩy
mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ,
đổi mới sáng tạo”, trong đó con người hay tài nguyên trí tuệ là nền tảng cốt lõi, doanh
nghiệp phải là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng
dụng công nghệ số. Với lợi thế của nước đi sau, chúng ta hoàn toàn có thể tiến thẳng vào
những lĩnh vực mới của kinh tế số để có thể bứt tốc, tham gia quá trình đó một cách chủ
động, không chờ thế giới hoàn thiện công nghệ thì ta mới chuyển đổi số. Chuyển đổi từ nền
kinh tế vật lý sang nền kinh tế số là sự tối ưu hóa không giới hạn mọi khâu, mọi quy trình
sản xuất. Do vậy, nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo trở thành động lực quyết định tăng năng
suất lao động, lợi thế cạnh tranh trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ ba, thúc đẩy chuyển đổi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sang giai đoạn mới:
thâm dụng tri thức và đột phá đổi mới sáng tạo.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam chưa đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như các
nước tiên tiến trên thế giới, nhưng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở ra cơ hội
để nước ta thay vì “đi sau” thì có thể nỗ lực để “đi cùng”, một số lĩnh vực mũi nhọn, có thế
mạnh, có thể phấn đấu “đi trước, vượt trước”. Đại hội XIII chủ trương “chuyển mạnh nền
kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới
sáng tạo, nhân lực chất lượng cao”. Chủ trương này không chỉ nhấn mạnh phát triển khoa
học - công nghệ, mà còn đề cao yêu cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm,
xuyên suốt trong xu thế Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc. Đại hội XIII xác
định: “Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế
và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt
lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”.
2. Nâng cao trình độ người lao động
Tăng cường nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của nhân lực đối với phát triển kinh tế
xã hội ở tất cả các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp/ người sử
dụng lao động và người dân. Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “trồng người”.
Phải nhất quán giữa chủ trương và hành động về phát triển con người, giữa ban hành chính
sách và đảm bảo nguồn lực thực hiện. Coi đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển và
phải đi trước một bước. Kế hoạch về nguồn nhân lực phải là cấu phần quan trọng trong mọi
chương trình dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. 15
Có chiến lược căn cơ về xây dựng vốn con người Việt Nam bao gồm kiến thức, kỹ năng
và sức khỏe, được tích lũy trong suốt cuộc đời, để người dân nhận ra tiềm năng của mình
như là thành viên hữu ích của xã hội. Chiến lược cần ưu tiên 2 mục tiêu cụ thể sau:
- Rút ngắn khoảng cách tụt hậu về cân nặng, chiều cao cho thế hệ tương lai thông qua
tăng cường thực hiện các chính sách và chương trình dinh dưỡng, chăm sóc y tế, rèn
luyện sức khỏe. Ưu tiên các chính sách an sinh xã hội hỗ trợ trẻ em các hộ gia đình có
khó khăn về điều kiện kinh tế để góp phần giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
thể thấp còi và nhẹ cân.
- Nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng cho thế hệ tương lai đáp ứng yêu cầu cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 thông qua các chương trình cải cách giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học theo hướng khai phóng, khuyến khích và
kích thích tính sáng tạo để phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân và tập thể.
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các
trường đại học, nhất là các trường đại học định hướng nghiên cứu. Nhà trường chủ động tiếp
cận thị trường và tạo ra nhu cầu cho doanh nghiệp. Thương mại hóa mạnh mẽ sản phẩm
khoa học công nghệ và khởi nghiệp của các nhà khoa học. Các trường đại học, cơ sở đào tạo
được quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách
nhà nước, xây dựng cơ chế phân chia lợi ích hợp lý với tác giả và các bên liên quan phù hợp
với Luật Sở hữu trí tuệ và Khoa học Công nghệ.
Tăng cường kết nối đào tạo, nghiên cứu khoa học và hỗ trợ khởi nghiệp. Tạo ra những
chương trình, dự án phối hợp để kêu gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tư tham gia xây dựng,
phát triển sản phẩm dịch vụ mới và định hướng, đào tạo kỹ năng cho sinh viên, nghiên cứu
sinh để giúp họ khởi nghiệp vì mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tăng cường kết nối đào tạo và sử dụng lao động. Tăng cường thông tin thị trường lao
động. Mở rộng liên kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong xây dựng chương trình
đào tạo, mở rộng môi trường và cơ hội thực hành và cơ hội việc làm cho học sinh/sinh viên.
Đổi mới có tính cách mạng về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả công lao động; gắn sử
dụng, đánh giá với đào tạo nguồn nhân lực. Xây dựng môi trường làm việc, trọng dụng nhân
tài đồng bộ, tạo cơ hội cho người tài phát huy năng lực và thu hút nhân lực trình độ cao là
người Việt đang làm việc ở nước ngoài, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.
3. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo
dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra định
hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm 16
tới, trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc
tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động
tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo
vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực
hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều
kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời
sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh
hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó
có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước
trong bối cảnh mới của “công nghiệp hóa, hiện đạ hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc
tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và “hội nhập quốc tế” để
làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn
cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán
sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội
nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập tương đối sâu với
vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới
đây, cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới,
nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử
lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như,
trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước,
tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập
quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ
thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn
hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây
dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm
nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta... 17
Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách
hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật
chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh
chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải quyết tranh
chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó,
vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải
quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này. 18 KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm đổi mới và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam
đã thu được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá, thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công
đã đạt được, quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua cũng đang bộc
lộ những hạn chế nhất định như: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực cạnh tranh so với các nước trong khu vực còn
thấp, chất lượng nhân lực chưa cao, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng ra toàn cầu như hiện nay,
Việt Nam muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thực hiện những
giải pháp mang tính đồng bộ, phải quyết liệt chuyển đổi mô hình kinh tế, nâng cao hiệu quả
huy động và sử dụng vốn; chú trọng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy khả
năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, địa phương, ngành, sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú ý
nâng cao vai trò định hướng của Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với
thu hút đầu tư của khu vực tư nhân; tạo các cơ chế tài chính, hình thành các chính sách phù
hợp khuyến khích đầu tư. Chỉ khi thực hiện được cái giải pháp một cách hợp lý, đồng bộ và
hiệu quả thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới càng được đẩy mạnh phát triển,
đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 19