-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tiểu luận môi trường và con người | Trường Đại học Văn Hiến
Tiểu luận môi trường và con người | Trường Đại học Văn Hiến. Tài liệu gồm 24 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môi trường và con người (NAS10128) 3 tài liệu
Đại học Văn Hiến 63 tài liệu
Tiểu luận môi trường và con người | Trường Đại học Văn Hiến
Tiểu luận môi trường và con người | Trường Đại học Văn Hiến. Tài liệu gồm 24 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Môi trường và con người (NAS10128) 3 tài liệu
Trường: Đại học Văn Hiến 63 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Văn Hiến
Preview text:
MỤC LỤC
Phần I. Khái niệm môi trường. .............................................................................. 2
1. Ô nhiễm môi trường là gì? .................................................................... 2
2. Các dạng ô nhiễm .................................................................................. 2
Phần II. Đặc điểm, nguồn hình thành, cơ chế ô nhiễm môi trường ...................... 5
1. Các nhân tố chính gây ra ô nhiễm môi trường ...................................... 5
2. Hiện trạng môi trường việt nam ............................................................ 9
Phần III. Ảnh hưởng của môi trường đối với con người trên thế giới và Việt
Nam. .................................................................................................................... 11
1. Tích cực ............................................................................................... 11
2. Tiêu cực ............................................................................................... 11
Phần IV. Chính sách, biên pháp sử dụng các lợi và phương pháp xử lý ô nhiễm
............................................................................................................................. 15
1. Chính sách, biên pháp ......................................................................... 15
2. Phương pháp xử lý ô nhiễm ................................................................ 17
3. Các nhiệm vụ cụ thể trước mắt ........................................................... 19
4. Các giải pháp lâu dài: .......................................................................... 21
Phần V. Kết luận ................................................................................................. 23
Phần VI. Kiến Nghị ............................................................................................. 23 1
Phần I. Khái niệm môi trường.
1. Ô nhiễm môi trường là gì?
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, đồng thời các
tính chất Vật lý, hóa học, sinh học của môi trường bị thay đổi gây tác hại tới sức
khỏe con người và các sinh vật khác. Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động
của con người gây ra. Ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự nhiên
khác có tác động tới môi trường
Ô nhiễm môi trường là một chủ đề hết sức quen thuộc với chúng ta qua
các phương tiện thông tin đại chúng. Là vấn đề của mọi thời đại và sẽ
luôn nóng bởi nó gắn liền với sự gia tăng nhanh về dân số,phát triển kinh
tế. Trong khi không phải một quốc gia nào cũng có một hệ thống pháp
lý,cũng như quản lí tốt về môi trường và cũng không phải quốc gia nào
cũng nhiệt tình cắt giảm sản xuất để hạn chế ô nhiễm. Và mỗi chúng ta không
phải ai cũng là những người có ý thức.
2. Các dạng ô nhiễm
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nóng trên các mặt báo
và nhận được rất nhiều sự quan tâm của người dân. Trong đó, đặc biệt là vấn đề ô
nhiễm nguồn nước ở Việt Nam đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Thông qua các phương tiện truyền thông, chúng ta có thể dễ dàng thấy được các
hình ảnh, cũng như các bài báo phản ánh về thực trạng môi trường hiện nay. Mặc
dù các ban ngành, đoàn thể ra sức kêu gọi bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
nước,... nhưng có vẻ là chưa đủ để cải thiện tình trạng ô nhiễm ngày càng trở nên
trầm trọng hơn. Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nóng trên
các mặt báo và nhận được rất nhiều sự quan tâm của người dân.
Trong đó, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam đã và đang
ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Thông qua các phương tiện truyền thông,
chúng ta có thể dễ dàng thấy được các hình ảnh, cũng như các bài báo phản ánh
về thực trạng môi trường hiện nay. Mặc dù các ban ngành, đoàn thể ra sức kêu
gọi bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước,... nhưng có vẻ là chưa đủ để cải thiện
tình trạng ô nhiễm ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
a) Ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người làm thay
đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là
nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con
người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực
phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công
nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng 2
bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu
người giảm. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng
lo ngại và nghiêm trọng.
b) Ô nhiễm môi trường nước.
Ô nhiễm môi trường nước là sự biến đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất
vật lý – hóa học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn
làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa
dạng các sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì
ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Nước bị ô nhiễm là do sự phú dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt
và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng
các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể
đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các
khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương
là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu.
Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại hóa chất, chất thải từ các nhà máy,
xí nghiệp thải ra sông, ra biển mà chưa qua xử lý; các loại phân bón hoá học và
thuốc trừ sâu dư thừa trên đồng ruộng ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao
hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông gây ô nhiễm trầm
trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, sinh vật trong khu vực. Các loại
chất độc hại đó lại bị đưa ra biển và là nguyên nhân xảy ra hiện tượng "thủy triều
đỏ", gây ô nhiễm nặng nề và làm chết các sinh vật sống ở môi trường nước.
c) Ô nhiễm môi trường không khí.
Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến
đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc
gây mùi khó chịu, giảm thị lực khi nhìn xa do bụi.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ
không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến
đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Ô nhiễm khí đến từ
con người lẫn tự nhiên.[2] Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn
than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn
các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí
nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm từ xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm khí đáng lo ngại.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây
nhiều bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu
rừng và các cánh đồng. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí
các loại khí độc như: CO , đã gây 2
hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất
khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là cacbonic (CO ), nó đóng góp 50% vào 2
việc gây hiệu ứng nhà kính, mêtan (CH ) là 13%, 4
nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước
ở tầng bình lưu là 3%... 3
Nếu không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30
năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều
khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy
quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái
Đất sẽ tăng khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C. Theo các
tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng
0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu
học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ
tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc
phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn.
CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và
một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.
d) Các loại ô nhiễm khác.
• Ô nhiễm tiếng ồn, bao gồm tiếng ồn do xe cộ, máy bay, tiếng ồn công nghiệp
• Ô nhiễm sóng, do các loại sóng như sóng điện thoại, truyền hình... tồn tại
với mật độ lớn. Làm cho con người bị ảnh hưởng nhiều đến não bộ hơn, khiến cơ
thể con người chịu nhiều tác động khác do ảnh hưởng bởi các loại sóng này.
• Ô nhiễm ánh sáng,hiện nay con người đã sử dụng các thiết bị chiếu sáng
một cách lãng phí ảnh hưởng lớn tới môi trường như ảnh hưởng tới quá trình phát
triển của động thực vật. • Ô nhiễm phóng xạ
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như:
CO2, đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu
ứng nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là
13%,, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%...Nếu như chúng ta
không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới
mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng
lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình
nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ
tăng khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C.Theo các tài liệu
khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40 °C.
Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học
trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng
thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục
hiện tượng hiệu ứng nhà kính.Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện
tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu
tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng. 4
Phần II. Đặc điểm, nguồn hình thành, cơ chế ô nhiễm môi trường
Mức độ tác động từ các nguồn gây ô nhiễm nói trên còn tùy thuộc vào 3
nhóm yếu tố: quy mô dân số, mức tiêu thụ tính theo đầu người, tác động của môi
trường, trong đó quy mô dân số là yếu tố quan trọng nhất.
Ô nhiễm môi trường có thể do nhiều nguồn khác nhau. Nguồn gây ô nhiễm
là nguồn thải ra các chất gây ô nhiễm. Có nhiều cách chia các nguồn gây ô nhiễm:
• Theo tính chất hoạt động, gồm 4 nhóm: quá trình sản xuất (nông nghiệp,
công nghiệp, du lịch, tiểu thủ công nghiệp); quá trình giao thông vận tải; sinh hoạt; và tự nhiên.
• Theo phân bố không gian, gồm 3 nhóm: điểm ô nhiễm, cố định (khói nhà
máy gây ô nhiễm cố định); đường ô nhiễm, di động (xe cộ gây ô nhiễm trên
đường); vùng ô nhiễm, lan tỏa: vùng thành thị, khu công nghiệp gây ô nhiễm và
lan tỏa trong thành phố đến vùng nông thôn.
• Theo nguồn phát sinh, gồm nguồn ô nhiễm sơ cấp và nguồn ô nhiễm thứ
cấp: Nguồn ô nhiễm sơ cấp là chất ô nhiễm từ nguồn thải trực tiếp vào môi trường;
nguồn ô nhiễm thứ cấp là chất ô nhiễm được tạo thành từ nguồn sơ cấp và đã biến
đổi qua trung gian rồi mới tới môi trường gây ô nhiễm.
1. Các nhân tố chính gây ra ô nhiễm môi trường ❖ Do con người
Con người đang hằng ngày tàn phá môi trường sống của chính mình theo
nhiều cách, vô tình hoặc cố ý. Từ các công trình xây dựng sai lầm, quá trình canh
tác trồng trọt, khai thác mỏ, hay chỉ đơn giản như thói quen sinh hoạt hàng ngày…
đều đã và đang làm biến dạng bề mặt hành tinh. Chính lòng tham của con người
sẽ hủy diệt tất cả. một số việc làm dẫn tới ô nhiễm môi trường
− Mặt trái của những đập thủy điện : các công trình công cộng không phải
lúc nào cũng hữu ích đối với công chúng. Điển hình như các dự án đập thủy điện
của Trung Quốc. Với mục tiêu sản xuất năng lượng sạch, các con đập đồ sộ lại
gây lụt lội ở các vùng xung quanh, hủy hoại môi trường sinh thái…Năm 2007,
Trung Quốc hoàn thành công trình đập thủy điện lớn nhất thế giới – đập Tam
Hiệp. Công trình này đã choán nơi sinh sống của 1,2 triệu người, làm ngập lụt 13
thành phố chính, 140 thị trấn và 1.350 ngôi làng. Hàng trăm nhà máy, hầm mỏ,
bãi rác và khu công nghiệp bị nhấn chìm trong nước, làm cho nước trong 1 hồ
chứa nước dự trữ gần đó bị ô nhiễm nặng nề. Công trình này đã làm biến đổi một
con sông hùng vĩ một thời trở thành một cái ao tĩnh lặng và bức tử hàng ngàn loài
thủy sinh vật nơi đây.Các nhà khoa học cũng liên hệ các con đập với những trận
động đất. Đập Tam Hiệp được xây dựng phía trên 2 đường đứt gãy chính, và kể
từ khi nó được xây dựng đã có có hàng trăm cơn chấn động nhẹ xảy ra. Họ còn
cho rằng trận động đất thảm khốc ở Tứ Xuyên hồi năm 2008 làm 80.000 người 5
chết cũng một phần là do lượng nước dồn về đập Zipingpu nằm ở rất gần đường
đứt gãy gây ra trận động đất.
− Đánh bắt thủy hải sản quá mức: Các món hải sản ngon miệng được nhiều
người yêu thích đang ngày một rút ruột các đại dương. Theo Quỹ Bảo vệ động vật
hoang dã thế giới (WWF), nhu cầu về hải sản của con người cao hơn gấp 2,5 lần
so với khả năng cung ứng của biển. Các loài hải sản càng được ưa thích thì càng
bị đánh bắt cạn kiệt. Các tàu đánh bắt cá hiện đại là thủ phạm chính. Chúng là
những nhà máy chế biến hải sản di động, được trang bị các thiết bị dò tìm hiện
đại. Khi phát hiện mục tiêu, một tấm lưới khổng lồ có kích thước bằng 3 sân bóng
sẽ được thả xuống, tóm gọn cả bầy cá lớn chỉ trong vài phút. Các chuyên gia dự
đoán rằng, nếu không có biện pháp can thiệp, nhiều loài hải sản quen thuộc trong
thực đơn hàng ngày của con người sẽ biến mất khỏi đại dương trong 40 năm tới.
− Những cuộc di dân và những kẻ xâm chiếm Khi con người di chuyển đến
nơi sinh sống mới, họ thường đem theo những con vật hoặc cây cỏ ở quê mình
đến trồng ở vùng đất mới. Việc làm này đã vô tình làm xáo trộn quần thể động
thực vật bản địa, là một trong những nguyên nhân gây tàn phá môi trường khốc
liệt nhất.Những kẻ xâm chiếm mới này sẽ tranh giành môi trường sống và thức
ăn, đẩy “dân địa phương” đến bước đường diệt vong. Một ví dụ điển hình là loài
chim cưu (sống ở đảo quốc Mauritius nằm phía Tây Nam Ấn Độ Dương), nay đã
bị tuyệt chủng do những sinh vật “ngoại lai” như mèo, chuột … được những thủy
thủ Châu Âu mang đến đã phá hoại tổ và ăn trứng của chúng.
− Các hoạt động khai thác than và khoáng sản Than đá là nguồn cung cấp
năng lượng dồi dào, nhưng kèm theo quá trình sản xuất điện từ than đá là lượng
khí thải CO2 khổng lồ đang phá hủy bầu khí quyển. Hậu quả của nó là sự biến đổi
khí hậu đang diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu.Thêm một vấn nạn của
ngành công nghiệp khai thác than là rác thải như đất đá, cây cối bị đào lên trong
quá trình khai thác sẽ bị đổ đống xuống các thung lũng lân cận, bóp nghẹt các
dòng suối, phá hủy môi trường sống của các sinh vật, làm kiệt quệ dòng nước
chảy ra các con sông; thêm vào đó, chất thải công nghiệp bị rửa trôi vào các dòng
sông, gây ô nhiễm nghiêm trọng.
− Tai họa từ sơ suất của con người Đôi khi, chỉ một sơ suất nhỏ của con người
cũng gây ra hậu quả thảm khốc khó lường.Thảm họa tràn dầu từng làm chấn động
nước Mỹ của công ty Exxon Valdez năm 1989, ngoài việc cướp đi kế mưu sinh
của hàng chục ngàn ngư dân, còn bức tử hàng triệu sinh vật biển khác
ở vùng biển Alaska.Mới đây nhất là vụ tràn dầu của công ty BP xảy ra ở vịnh
Mexico hồi tháng 4/2010 thậm chí gây hậu quả còn nghiêm trọng hơn vụ Exxo,
được đánh giá là thảm họa tràn dầu kinh hoàng nhất lịch sử. Cho đến hiện tại, vẫn
còn quá sớm để ước lượng mức độ ảnh hưởng cũng như thiệt hại do sự cố này gây
ra, nhưng chắc chắn người dân và hệ sinh thái trong khu vực này sẽ chịu thiệt hại hết sức nặng nề.
− Các hoạt động nông nghiệp không bền vững Các hoạt động nông nghiệp
không an toàn là nguyên chính gây ô nhiễm đất và các nguồn nước. Lấy ví dụ, ở
Mỹ, 70% nguồn nước như sông suối bị nhiễm hóa chất do phân bón hóa học và
thuốc bảo vệ thực vật bị rửa trôi từ các cánh đồng.Ngoài ra, ngành công nghiệp 6
chăn nuôi quy mô lớn với hàng trăm ngàn con gia súc đang thải ra một lượng
khổng lồ các loại khí thải chưa qua xử lý từ phân của chúng. Các khí này cũng
“góp công” trong việc làm Trái đất nóng lên.
− Phương tiện giao thông. Mỗi năm 1 chiếc xe hơi hoạt động sẽ thải ra khoảng
5,4 tấn CO2 dưới dạng khí thải. Ngoài tác hại lâu dài đến tầng ozone, gây hiệu
ứng nhà kính khiến trái đất nóng lên, các loại khí thải này cũng gây tác hại tức
thời đến con người thông qua các bệnh về đường hô hấp ngày càng phổ biến. Hơn
nữa, ngành công nghiệp khai thác và cung cấp nhiên liệu (xăng dầu) cho các loại
phương tiện giao thông hoạt động cũng để lại nhiều hậu quả xấu cho môi trường.
− Nạn phá rừng Các khu rừng đang bị teo nhỏ hoặc biến mất hàng ngày, đặc
biệt là các khu rừng mưa nhiệt đới. Với đà phá rừng như hiện tại, các nhà khoa
học ước tính khoảng 100 năm nữa, toàn bộ rừng trên trái đất sẽ biến mất.Mất rừng
cũng như mất đi lá phổi; không còn đủ cây xanh để chuyển hấp thụ và chuyển hóa
các khí nhà kính. Không còn rừng cũng đồng nghĩa với việt mất đi hàng rào che
chắn và bảo vệ, dẫn đến các thảm họa xói mòn và lũ lụt ngày một nghiêm trọng.
− Bùng nổ dân số: Các nhà nghiên cứu dân số nói rằng, nếu chúng ta không
tự kiềm chế dân số một cách ôn hòa thông qua các chương trình kế hoạch hóa gia
đình, thì thiên nhiên sẽ làm giúp việc này nhưng với các biện pháp hết sức tàn
khốc như bệnh dịch và đói kém.Chỉ trong vòng 40 năm, dân số thế giới đã tăng từ
3 tỷ lên gần 7 tỷ người. Mỗi năm lại có thêm 75 triệu người – tương đương dân
số của nước Đức – được sinh ra trên hành tinh. Ước tính đến năm 2050, dân số
trái đất sẽ vượt mốc 9 tỷ người.Dân số tăng đồng nghĩa với nhu cầu về thực phẩm
tăng, lượng rác thải cũng theo đó tăng lên. Các ngành công nghiệp hoạt động hết
công suất để phục vụ con người. Tài nguyên bị rút cạn. Trái đất dần kiệt quệ.
− Chiến tranh: Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, tổng cộng đế quốc Mĩ
đã rải 72 triệu lít chất diệt cỏ trong đó có 44 triệu lít chất độc màu da cam lên 1,7
triệu ha đất trồng và rừng ở miền nam Việt Nam. Hậu quả để lại cho con người
cũng như môi trường sống cho đến nay vấn chưa tình toán được hết vì sự tàn phá
khủng khiếp của nó. Ngay khi bị rải thuôc diệt cỏ lần thứ nhất, 30% cây rừng bị
chết ngay sau đó. Cây rừng bị trụi lá, nước bị ô nhiễm, động vật chết vì nhiễm
độc, nhiều thảm rừng đến nay vấn không có loại cây nào có thể mọc được … minh
chứng tiêu biểu cho sức tàn phá của chiến tranh lên môi trường tự nhiên.Thế giới
của chúng ta đã phải chứng kiến biết bao cuộc chiến tranh có sức huỷ diệt lớn, và
từng ngày từng giờ vẫn xảy ra những cuộc chiến tranh xung đột sắc tộc, tôn giáo…
Bên cạnh những thiệt hạỉ khủng khiếp về người và của thì hậu quả tác động đến
ô nhiễm môi trường đang là một lời cảnh bảo.
❖ Do thiên nhiên, những quy luật thiên nhiên
Là do mưa, tuyết tan, lũ lụt, gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt động sống
của sinh vậtchúng. Cây cối, sinh vật chết đi , chúng bị vi sinh vật phân hủy thành
chất hữu cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gây
ô nhiễm.hoặc theo dòng nước ngầm hòavào dòng lớn. Lụt lội có thể làm nước mất
sự trong sạch, khuấy động những chất dơ trong hệ thống cống rãnh, mang theo
nhiều chất thải độc hại từ nơi đổ rác, và cuốn theo các loại hoá chất trước đây đã
được cất giữ.Nước lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghiệp,kỹ 7
nghệ hoặc do các tác nhân độc hại ở các khu phế thải. Công nhân thu dọn lân cận
các công trường kỹ nghệ bị lụt có thể bị tác hại bởi nước ô nhiễm hoá chất.
Ô nhiễm do các yếu tố tự nhiên có thể rất nghiêm trọng, nhưng không thường
xuyên, và không phải là nguyên nhân chính gây suy thoái chất lượng môi trường toàn cầu.
Thực Trạng chúng ta đang phải đối mặt với 3 vấn đề phổ biến đó là sự nóng
lên của Trái Đất, sự ô nhiễm biển và đại dương cùng với sự hoang mạc hóa. Sự
nóng lên của Trái Đất: nhiệt độ trung bình của Trái Đất hiện nay nóng hơn gần
40oC so với nhiệt độ trong kỷ băng hà gần nhất, khoảng 13.000 năm trước. Tuy
nhiên trong vòng 100 năm qua, nhiệt độ trung bình bề mặt Trái Đất tăng khoảng
0.6 o – 0,7o C và dự báo sẽ tăng 1,4o –5o C trong năm tới. Ấm lên toàn cầu có
những tác động sâu sắc đến môi trường và xã hội. Một trong những hệ quả tất yếu
của sự gia tăng nhiệt độ của trái đất là sự gia tăng mực nước biển, cường độ các
cơn bão và các thời tiết cực đoan, suy giảm tần ozon, thay đổi ngành công
nghiệp,và làm suy giảm oxy trong đại dương.Tốc độ ấm lên nhanh hơn so với sự
thích ứng của các loài sinh vật, vì vậy một số loài có khả năng tuyệt chủng.
Sự ô nhiễm biển và đại dương: Biển và đại dương ngày đêm kêu cứu vì ô
nhiễm. Hàng năm có khoảng 50 triệu tấn chất thải đổ ra biển . Bên cạnh đó các sự
cố rò rỉ dầu, tràn dầu của các tàu trưởng chiếm 50% nguồn ô nhiễm dầu trên
biển.Thông qua những con số biết nói sau đây, ta có thể thấy được phần nào hậu
quả của sự ô nhiễm:1.000.000 chim biển, 100.000 thú biển và rùa biển bị chết do
bịvướng hay bị nghẹt thở bởi các loại rác plastic. 30 - 50% lượng CO2 thải ra từ
quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch bị đại dương hấp thụ, việc thay đổi nhiệt độ
sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ CO2 của các phiêu sinh vật sau đó làm
ảnh hưởng đến hệ sinh thái.60% các rạn san hô đang bị đe dọa bởi việc ô nhiễm.
Sự hoang mạc hóa: Mỗi năm, sa mạc Sahara tiến dần về phía Nam với tốc
độ 45 km/năm.cao nguyên madagasca nơi được xem là khoa báu về đa dạng sinh
học nhưng giờ đây 7% đất đai là đồi trọc. Đa dạng sinh thái suy giảm đất đai trở
nên bạc màu không thể canh tác là hai ảnh hưởng chủ yếu của quá trình hoang
mạc hóa. Tình Trạng này đang đe dọa cuộc sống của gần 1 tỉ người trên Trái Đất.
Châu phi chỉ nuôi được 25% dân số vào năm 2025 nếu tốc độ hoang mạc ở lục
địa Đen tiếp tục như hiện nay. Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam ngày nay, vấn đề
ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn ở Việt Nam.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày, chúng ta có thể dễ dàng bắt
gặp những hình ảnh, những thông tin về việc môi trường bị ô nhiễm. Bất chấp
những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên
trầm trọng. Điều này khiến ta phải suy nghĩ…
Về nồng độ bụi, hai thành phố lớn nhất Việt Nam này chỉ đứng sau Bắc Kinh,
Thượng Hải, New Delhi và Dhaka. Mối đe doạ tiềm tàng này chắc chắn sẽ cản
trở quá trình phát triển hơn nữa của các thành phố này. Cũng theo một nghiên cứu
về các chỉ số môi trường ổn định do Trường Đại học Yale (Mỹ) thực hiện, Việt
Nam đứng thứ hạng thấp nhất trong số 8 nước Đông Nam Á.
Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải,
nước thải nên ô nhiễm môi trường các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu 8
đô thị đang ở mức báo động. Trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả nước,
có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các đô
thị chỉ có khoảng 60% - 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng thoát nước
và xử lý nước thải, chất thải nên chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường...Hầu
hết lượng nước thải chưa được xử lý đều đổ thẳng ra sông, hồ và dự báo đến năm
2010 là 510.000m3/ngày. Một ví dụ đau lòng của việc xả nước thải, hẳn không ai
không biết, là trường hợp của con sông Thị Vải bị ô nhiễm bởi hoá chất thải ra từ
nhà máy của công ti bột ngọt Vê Đan suốt 14 năm liền. Điều này khiến cho con
sông bị ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới cuộc sống của nhiều người dân ở
xung quanh. Một ví dụ khác chính là việc ô nhiễm hồ Hoàn Kiếm, một biểu tượng
của nền văn hoá dân tộc. Không chỉ có môi trường nước mà môi trường không
khí và môi trường đất cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Môi trường không khí ở hầu
hết các đô thị Việt Nam đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, kết quả đo đạc tại 6 trạm quan trắc không
khí cho thấy 89% mẫu kiểm tra không khí không đạt tiêu chuẩn cho phép, luôn ở
mức nguy hại cao cho sức khỏe, trong đó lượng bụi lơ lửng đang là nhân tố gây ô
nhiễm nghiêm trọng hàng đầu trên địa bàn. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm không
khí do chì cũng gia tăng nhanh chóng, cụ thể nồng độ chì đo đượ cừ đầu năm 2009
đến nay thường dao động ở ngưỡng 0,22 0,38g/m³, quá chuẩn cho phép khoảng 1,5 lần.
Về môi trường đất, kết quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại
nặng trong đất gần các khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây.
Như tại cụm công nghiệp Phước Long (Bình Phước) hàm lượng Cr cao gấp 15 lần
so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần.
(Cr,Cd,As: các chất hoá học độc hại) Thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ảnh hưởng
đến đất. Mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt nam còn
ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật trong đất.
2. Hiện trạng môi trường việt nam Môi trường đất
Môi trường đất tại Việt Nam hiện nay, từ miền đồng bằng đến miền trung
du, đang bị thoái hóa mạnh. Miền trung du và vùng núi, mặt đất bị xói mòn mạnh,
dẫn đến mặt đất bị rửa trôi, mất chất hữu cơ làm cho nhiều vùng đất bị cằn cỗi,
không còn khả năng canh tác, dẫn đến việc diện tích đất bị hoang mạc hóa gia
tăng. Trong khi đó, những vùng đồng bằng trồng lúa và hoa màu lại liên tục bị
ngập úng, mặn hóa hay nhiễm phèn… tác động mạnh đến mùa màng.
Nguyên nhân chính dẫn đến việc đất bị thoái hoá là do hiện tượng thiên tai
đang ngày càng khốc liệt tại Việt Nam chúng ta. Hiện tượng thiên tai gia tăng đã
và đang làm cho nhiều vùng đất liên tục bị lũ quét, trượt và sạt lở đất… làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đất đai trồng trọt và đời sống của người dân Việt. Theo
khảo sát của Cục Khí Tượng Thủy Văn, cường độ mưa, lũ lụt và bão tố thường 9
xuyên gia tăng tại Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua. Hiện tượng thiên tai gia
tăng được xác định là có nguyên nhân từ việc phá rừng một cách bừa bãi.
Ngoài ra, môi trường đất còn bị ô nhiễm nặng do việc lạm dụng thuốc bảo
vệ thực vật. Kết quả xét nghiệm môi trường cho thấy, một số vùng đất nông nghiệp
bị ô nhiễm rất nặng. Chẳng hạn, vùng trồng rau tại thành phố Hồ Chí Minh, hàm
lương CO trên tầng mặt đất dao động từ 9,9-15mg/k. Vùng rau Hóc Môn có hàm
lượng chì trong đất từ 23-59mg/kg. Vùng Thanh Trì, Từ Liêm (Hà Nội) hàm
lượng nitơ trong đất từ 30-102mg/kg. Vùng đất gần nhà máy phân lân Văn Điển
còn bị nhiễm các kim loại nặng như Cd, Cu, Pb và Zn. Tất cả những số liệu trên
đây đều vượt quá ngưỡng cho phép về an toàn. Môi trường nước
Nhìn chung, chất lượng nước ở thượng lưu các con sông còn khá tốt, nhưng
vùng hạ lưu thì phần lớn lại bị ô nhiễm rất nặng, đặc biệt là sông Đồng Nai, sông
Sài Gòn, sông Cầu, sông Đáy… Nguyên nhân là do nước thải của các nhà máy
sản xuất, cùng với nước thải sinh hoạt không được xử lý mà đổ trực tiếp ra các
con sông. Tại những nơi vừa nêu, nhiều chỉ tiêu như BOD, COD, NH4, N và P
cao hơn tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần.
Không chỉ nước sông, mà ngay cả nước ngầm cũng đang có nguy cơ bị cạn
kiệt và có dấu hiệu ô nhiễm. Nguyên nhân là do khai thác bừa bãi và không đúng
kỹ thuật, cộng thêm nước thải và rác thải không xử lý tốt đang thấm dần vào trong lòng đất.
Môi trường không khí
Môi trường không khí ở Việt Nam tại các vùng nông thôn và miền núi còn
khá tốt. Tuy nhiên, ở các thành phố lớn, các khu đô thị và khu công nghiệp thì
đang bị ô nhiễm nặng do nồng độ khói và bụi rất cao.
Nguyên nhân do quá trình đô thị hoá tại Việt Nam đang diễn ra khá nhanh
đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng không khí. Khói bụi tại những nơi này
đang trở thành một vấn đề cấp bách. Nồng độ bụi trong các khu dân cư bên cạnh
các nhà máy, xí nghiệp hoặc gần các đường giao thông lớn vượt chỉ số cho phép
từ 1,5-3 lần; tại những nơi đang xây dựng nhà cửa, đường xá vượt mức cho phép
từ 10-20 lần. Việc gia tăng các phương tiện giao thông cũng đang gây ô nhiễm
không khí ở rất nhiều nơi. Tại các nút giao thông lớn, nồng độ chì, khí CO khá cao. 10
Phần III. Ảnh hưởng của môi trường đối với con người trên
thế giới và Việt Nam.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO hôm nay vừa công bố bảng phân tích đầu tiên
về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đối với sức khoẻ con người tại từng quốc
gia trên toàn cầu. Qua đó, cơ quan y tế này khẳng định sức khoẻ con người có thể
đựơc cải thiện rất nhiều nếu giảm thiểu đựơc các nguy cơ về ô nhiễm môi trường.
Theo số liệu của WHO, mỗi năm thế giới có 13 triệu người tử vong liên quan
đến vấn đề môi trường. Tại nhiều quốc gia trên toàn cầu, trung bình cứ 100 ngừơi
chết thì có hơn 10 người thiệt mạng vì các yếu tố môi trừơng, tiêu biểu như nguồn
nứơc thiếu vệ sinh hay ô nhiễm không khí trong gia đình do dùng nhiên liệu rắn nấu ăn.
Những nạn nhân chính của “tử thần môi trường” là trẻ em dưới 5 tuổi, đa số
các ca tử vong thường gặp là do tiêu chảy hoặc nhiễm trùng đừơng hô hấp dưới.
Thống kê còn cho thấy ở một số nước, trên 1/3 các loại bệnh tật có thể được ngăn
ngừa được bằng cách cải thiện môi trừơng sống.
Vẫn theo khảo sát của Tổ chức y tế thế giới, tuy các quốc gia có thu nhập
thấp chịu ảnh hửơng nặng nề nhất từ các yếu tố môi trường, nhưng không một đất
nứơc nào, kể cả những nước có điều kiện môi trường tương đối tốt, có khả năng
miễn dịch trước các tác hại của môi trừơng lên sức khoẻ con người. 1. Tích cực Kinh tế phát triển 2. Tiêu cực
"Ô nhiễm môi trường đang giết chết con người nhiều gấp 15 lần chiến tranh.
Đây là con số do các nhà khoa học thuộc Ủy ban Tạp chí khoa học Lancet về các
vấn đề ô nhiễm và sức khoẻ đưa ra", trang Sputnik của Nga thông tin. Kết quả
nghiên cứu được công bố trên trang web của tạp chí Lancet cho biết trong năm
2015, những căn bệnh do ô nhiễm môi trường gây nên đã cướp đi sinh mạng của
gần 9 triệu người trên toàn thế giới, tương đương 16% tổng số các trường hợp tử vong–theoSputnik.
Các nhà khoa học khẳng định con số này lớn gấp 3 lần so với số người chết
do AIDS, lao và sốt rét cộng lại; gấp 15 lần so với do chiến tranh và các hình thức
bạo lực khác. Cũng theo các nhà nghiên cứu, chất lượng sinh thái tồi tệ giết nhiều
người hơn thuốc lá, nghèo đói và thiên tai. Ô nhiễm trầm trọng là nguyên nhân
1/4 các trường hợp tử vong ở một số nước.
Môi trường sống ở Việt Nam?
Quả thật, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đang càng ngày càng
trở nên nghiêm trọng, đe doạ đến sức khoẻ con ngừơi và lan rộng trong mọi khía
cạnh sinh hoạt đời sống, từ nguồn nứơc, khói bụi, không khí, rác thải, nhiên liệu
xăng dầu..v..v.. giữa lúc nhà chức trách vẫn chưa tìm ra giải pháp đối phó hữu hiệu. 11
Về tình trạng môi trừơng ở Việt Nam, Tổ chức y tế thế giới ghi nhận trung
bình cứ mỗi năm có trên 9 ngàn ca tử vong vì nguồn nứơc và điều kiện vệ sinh
kém. Số người chết vì nguyên do ô nhiễm không khí trong nhà là hơn 10 ngàn, và
hơn 6 ngàn ngừơi thiệt mạng hằng năm vì bầu không khí bên ngoài bị ô nhiễm.
Một người dân bức xúc: “Môi trường giờ rất là ô nhiễm, ra đường phải đội
nón, đeo khẩu trang, nhà mặt đường lúc nào cũng phải đóng cửa sợ bụi bay vào”.
Trong một cuộc phỏng vấn trước đây với đài RFA, chính Bộ trửơng tài
nguyên môi trường Mai Ái Trực đã từng khẳng định ô nhiễm môi trường tại Việt
Nam là một vấn đề quan trọng: “Đây là một vấn đề quan trọng và chính phủ cũng
đã bố trí nguồn lực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Người dân ngày càng
quan tâm và thấy rõ đến cái lợi ích của môi trường, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở
đó, chứ chưa ý thức đựơc bản thân mình cần phải làm gì để đóng góp cho việc
bảo vệ môi trường. Chúng tôi luôn quan tâm đến việc nâng cao ý thức người dân trong công tác này.”
Trong khi đó thì người dân lại than rằng: “Hiện gìơ tình trạng môi trường rất
khó kiểm soát. Họ cũng bè phái này kia cho nên họ làm cũng để lấy lệ thôi. Nếu
chính phủ Việt Nam mà khắc phục được thì đỡ cho dân chúng lắm.”
Một số biện pháp WHO đề nghị nhằm giúp giảm thiểu các tác hại từ môi
trường và hạ tỷ lệ bệnh tật, tử vong chẳng hạn như sử dụng nhiên liệu sạch như
gas hay điện trong nấu nứơng, cải thiện hệ thống thông khí, thông gió trong nhà,
và điều chỉnh hành vi của con người. Ngoài ra, WHO cũng yêu cầu các chính phủ
phải lưu ý hơn nữa đến công tác xử lý nứơc sinh hoạt, tiêu huỷ rác thải đúng cách,
và giảm thiểu mức độ ô nhiễm không khí để bảo vệ sức khoẻ cho người dân
Chuyên gia thuộc WHO, bà Susanne Weber-Mosdorf, nhấn mạnh khảo sát
về tình hình môi trừơng và sức khoẻ ngừơi dân tại từng quốc gia là bứơc đầu trong
việc giúp các nhà hoạch định chính sách về y tế và môi trường của từng nứơc thấy
rõ thực trạng để từ đó có thể đề ra những biện pháp can thiệp, phòng ngừa hữu
hiệu. Những nguy cơ đựơc quan tâm trong cuộc nghiên cứu của WHO bao gồm
các yếu tố về ô nhiễm môi trừơng, yếu tố về nghề nghiệp, phóng xạ tia cực tím,
tiếng ồn, các biện pháp nông nghiệp, những thay đổi về khí hậu và hệ sinh thái,
cũng như cách hành xử của con người. . Khí hậu biến đổi
Một trong những ảnh hưởng của môi trường đó là làm biến đổi khí hậu.
Những năm gần đây, người dân Việt Nam chúng ta kinh nghiệm rất rõ về sự biến
đổi khí hậu. Khảo sát của Viện Khoa Học Khí Tượng Thuỷ Văn cho biết, tại Bến
Tre, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20 cm so với cách đây 10 năm. Những
hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều. Biến đổi khí hậu đã làm
gia tăng thiên tai tại nhiều nơi ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ nét qua hiện
tượng bão lụt xảy ra liên miên trong những năm gần đây, đặc biệt là tại miền
trung. Thậm chí, những vùng trước đây không hề có bão, nhưng những năm gần
đây cũng đã có. Chỉ tính riêng tại Huế, từ năm 1952 đến 2005 đã có 32 cơn bão;
đồng thời cường độ mưa cũng tăng lên rõ rệt (chúng ta có thể thấy rõ điều này
trong mấy tháng vừa qua). 12
Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của ông Chritophe Bahuet cảnh
báo rằng nếu nhiệt độ tăng lên từ 3-4 độ C, các quốc đảo nhỏ và các nước đang
phát triển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển dâng lên 1m, Việt
Nam sẽ có khoảng 22 triệu người bị mất nhà cửa.
Biến đổi hệ sinh thái
Việt Nam là một trong mười quốc gia có đa dạng sinh học thuộc loại cao
nhất thế giới, trong đó có các hệ sinh thái đặc thù với nhiều giống, loài đặc hữu
có giá trị khoa học và kinh tế cao, nhiều nguồn gien quí hiếm. Ngoài ra, một số
loài động vật trên thế giới lần đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự đa dạng về sinh học ở Việt Nam
đang bị suy giảm mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do cháy rừng, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất đai dẫn tới việc thu hẹp dần nơi cư trú của các loài, việc buôn
bán trái phép động thực vật quí hiếm và ô nhiễm môi trường. Trong 50 năm qua,
diện tích rừng ngập mặn đã bị giảm đến 80%, 96% các rạn san hô đang trong nguy
cơ bị huỷ hoại nghiêm trọng, nhiều giống loài hoang dã đã bị biến mất vĩnh viễn.
Ảnh hưởng đến sức khoẻ con người
Theo đánh giá của tiến sĩ Trần Hồng Hà, hiện nay Việt Nam chúng ta đang
bắt đầu phải trả giá về mặt sức khoẻ con người do một thời gian dài chưa thật sự
quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường dẫn đến nguy cơ ô nhiễm
môi trường. Cụ thể là ngày càng xuất hiện nhiều điểm “nóng” về ô nhiễm môi
trường, chẳng hạn như những “làng ung thư” ở Hà Tây, Phú Thọ, Hải Phòng…
Thực tế cho thấy, tại một số khu dân cư gần khu công nghiệp, nồng độ khí
SO2, CO2 và NO2 đều vượt tiêu chuẩn cho phép, gây ô nhiễm nội vi. Thêm vào
đó là rác thải y tế, rác thải sinh hoạt và khoảng 774 ngàn tấn chất thải công nghiệp
từ các làng nghề truyền thống không được xử lý triệt để. Tất cả đang đe doạ môi
trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng dân cư.
Theo thống kê của Bộ Y Tế, hàng năm, cả nước có gần 200 ngàn người bị
mắc bệnh ung thư mới phát hiện. Riêng bệnh viện K Hà Nội, trong vòng 5 năm
trở lại đây, mỗi năm tiếp nhận trung bình khoảng 150 ngàn người bị ung thư mới
phát hiện. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ung thư ngày càng tăng, theo đánh giá
tổng hợp của bộ Y Tế và bộ Tài Nguyên Môi Trường, chính là do môi trường
sống ngày càng xuống cấp trầm trọng.
Trong khi đó, tổ chức y tế thế giới ghi nhận, tại Việt Nam, trung bình mỗi
năm có trên 9 ngàn ca tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Số người
chết vì nguyên do ô nhiễm không khí là hơn 16 ngàn người.
Ngoài ra, khi nói về tác động của môi trường trên sức khoẻ của con người,
không thể không kể đến bệnh nghề nghiệp và nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật.
Tỷ lệ người mắc bệnh nghề nghiệp cao nhất (hơn 40%) là nhóm người thường
xuyên làm việc trong môi trường bụi như: công nhân mỏ, công nhân xây dựng,
công nhân dệt… Đa số họ đều mắc những chứng bệnh về đường phổi như: viêm
mũi, viêm phế quản, viên phổi… Thậm chí, khi đã ngừng tiếp súc với bụi, bệnh
của họ vẫn tiếp tục phát triển. Trong khi đó, các loại thuốc bảo vệ thực vật không
thận trọng ngoài đồng hay được cất giữ không phù hợp trong nhà dễ dàng làm 13
nhiễm bẩn nguồn nước, không khí hay thực phẩm. Những người bị nhiễm độc cấp
hay tiếp xúc ở nồng độ thấp với các loại thuốc bảo vệ thực vật sẽ có nguy cơ bị
ung thư, con cái bị dị tật bẩm sinh. Ngoài ra họ còn bị ảnh hưởng đến thần kinh
và chức năng của tuyến nội tiết. 14
Phần IV. Chính sách, biên pháp sử dụng các lợi và phương
pháp xử lý ô nhiễm
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát
triển về mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển
trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc
gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa
lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó
1. Chính sách, biên pháp
Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người dân.
Nhiều người nghĩ rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại
môi trường. Một số người khác lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm
của nhà nước, của chính quyền mà không phải là của mình. Số khác lại nghĩ rằng
việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì đi chăng nữa cũng không đáng kể, và
việc ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng gì tới mình nhiều... Việc phá hoại
môi trường của một người tuy chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng tập hợp nhiều người lại
là lớn.Trách nhiệm bảo vệ môi trường tuy cũng có một phần là của nhà nước
nhưng đa phần lại là của người dân.
Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách
nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít
doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi
trường. Bên cạnh đó, chính sự chưa chặt chẽ trong việc quản lý bảo vệ môi trường
của nhà nước cũng đã tiếp tay cho các hành vi phá hoại môi trường. Việt Nam
thiếu những chính sách và quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt, do đang thu
hút mạnh các nguồn vốn đầu tư để phát triển nên dễ mắc vào "cạm bẫy": trở thành
nơi tiếp nhận nhiều ngành công nghiệp "bẩn". Ví như, ngành cán thép làm tốn
nhiều tài nguyên như đất, nước, năng lượng, thải ra những chất thải nguy hại cho
môi trường. Ngoài ra, lượng xe cô lưu thông ngày càng nhiều ở nước ta cũng góp
phần không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
Bên cạnh đó là những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về
bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo
thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ
môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế,
các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên,
hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết,
tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải
sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi
của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường.
Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng
Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động
nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây
ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ
mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành 15
vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình
sự; còn các biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm,
đóng cửa và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng
không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu
kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu quả.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với
công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong
việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường
của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính
hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh
giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa
được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua
loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không
cao. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội
còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.
Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm
môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những
chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ
sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống
quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn
quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt
đẹp và thân thiện hơn với con người.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi
trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát
môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những
hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi
trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt
động của các lực lượng này.
Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp,
các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ
lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình
trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời
gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường
nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu
tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh
mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt
động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác
động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn 16
tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay
không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc
kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi
trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu
tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội
về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về môi
trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh
nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm
cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết
giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Tình trạng môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn có thể cứu
vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo vệ môi trường. Vì
vậy, chúng ta cần chung tay bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì tương
lai một Việt Nam xanh, sạch, đẹp và vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như của các thế hệ sau.
2. Phương pháp xử lý ô nhiễm
Thứ nhất: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi
trường với phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường. Khắc phục suy thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường;
Thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy
rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Khai thác có hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh
tế xanh, thân thiện với môi trường; Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững;
từng bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng sạch”; Tăng
cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi
khí hậu; Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
Thứ hai: Trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường
trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên
nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý
thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các
vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Cần tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể. Lấy chỉ số đầu tư cho
môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ môi trường cụ thể để đánh giá
Thứ ba: Coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận các
xu thế tăng trưởng bền vững và hài hòa trong phát triển ngành, vùng phù hợp với 17
khả năng chịu tải môi trường, sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình
độ phát triển. Đã đến lúc “nói không” với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá
Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến
đổi khí hậu. Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cũng phải thay đổi
theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra
công ăn việc làm, hỗ trợ để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Thứ tư: Dự báo, cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy
văn, chung sức và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tập trung triển khai
thực hiện Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề
án: Hiện đại hóa công nghệ dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí
tượng thủy văn; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và
cộng đồng quốc tế trong việc tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu;
lồng ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm (2011-2020) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (20112015),
xác định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi, bố trí các nguồn lực cần
thiết để tổ chức và triển khai thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu.
Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai; Quy hoạch sử
dụng đất cả nước đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015. Xác
lập cơ chế cung - cầu, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững tài nguyên nước và bảo
đảm an ninh nguồn nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật Tài nguyên
nước và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo
hướng xác lập cơ chế quản lý tài nguyên nước đồng bộ với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện để các
thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia bảo vệ môi trường,
làm kinh tế từ môi trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các tổ chức phản biện xã hội
về môi trường, các hội, hiệp hội về thiên nhiên và môi trường hình thành, lớn
mạnh và phát triển, đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.
Thứ sáu: Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa” trong lĩnh vực địa chất và
khoáng sản theo hướng giảm cơ chế “xin - cho”, tăng cường áp dụng hình thức
đấu thầu quyền thăm dò khoáng sản, đấu giá mỏ để tăng thu cho ngân sách Nhà
nước và lựa chọn được tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm tham gia hoạt
động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; nâng cao tính thống nhất, tránh
chồng chéo trong quản lý; tăng cường phân cấp cho các địa phương quản lý
khoáng sản; chú trọng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật...Đồng thời,
tiếp tục giảm xuất khẩu thô, đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo vệ và nâng cao giá
trị tài nguyên khoáng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp khai
khoáng ổn định, bền vững. Phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh trên biển.
Thứ bảy Chúng ta cần phải tiếp tục công cuộc bảo vệ và làm sạch môi trường
bằng những biện pháp tốt hơn, thiết thực hơn nữa! Thứ nhất, phải có các hình thức 18
xử phạt thật nặng và nghiêm minh đối với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có hành
vi phá hoại môi trường, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Bên cạnh
đó, cũng cần giáo dục ý thức cho người dân qua các hình thức tuyên truyền, cổ
động như tổ chức những buổi giao lưu bàn về vấn đề môi trường tại các đơn vị
hành chính cấp phường, xã...
Thứ 8 Đưa những bài viết chi tiết hơn về môi trường trong các sách giáo
khoa ngay từ cấp tiểu học, giúp học sinh có thái độ và cái nhìn đúng đắn về môi
trường và những hậu quả của việc phá hoại môi trường, từ đó giúp các em biết
yêu và bảo vệ môi trường mình đang sống. Một cách 15 khác để giúp bảo vệ môi
trường phát động thường xuyên hơn những phong trào tình nguyện như bảo vệ
môi trường khu dân cư, dọn rác ở các khu vực công cộng, làm sạch bãi biển...
Thứ 9 Chính phủ nhiệm kỳ 2016 - 2021 bắt đầu hoạt động với phương châm
là một Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển, trong đó coi tài nguyên, môi
trường vừa là đối tượng phải bảo vệ, vừa là nguồn lực để thúc đẩy các hoạt động
phát triển. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp
: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn bị cơ sở pháp lý cho
ứng phó với biến đối khí hậu theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội
nhập đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật
Môi trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập, khắc phục tình trạng
chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu khả thi. Hệ thống pháp luật
về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ thống pháp luật chung
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Các nhiệm vụ cụ thể trước mắt
• Ban hành hệ thống các tiêu chí đánh giá, sàng lọc, lựa chọn ưu tiên các dự án
công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, bảo đảm theo đúng định
hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững; các quy định về phòng ngừa, ứng
phó và khắc phục sự cố môi trường, trong đó có các quy định về cơ chế chỉ đạo,
điều hành, phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong công tác
phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường.
• Khẩn trương xây dựng Quy hoạch BVMT quốc gia làm căn cứ thẩm định,
phê duyệt các dự án đầu tư của từng vùng phù hợp yêu cầu BVMT, định hướng
ưu tiên lĩnh vực, công nghệ đầu tư phù hợp với quy hoạch môi trường. Xây dựng
và ban hành quy chế ứng phó sự cố môi trường, trong đó có các quy định về cơ
chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các Bộ, ngành, Trung ương và địa phương
bảo đảm nguyên tắc Trung ương chỉ đạo thống nhất và địa phương xây dựng năng
lực tự ứng phó theo phương châm 3 tại chỗ đã được xây dựng trong phòng chống thiên tai. 19
• Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống kê hàng năm về môi trường trong hệ
thống các chỉ tiêu thống kê phát triển kinh tế - xã hội quốc dân, bảo đảm phản ánh
đầy đủ các nội dung quản lý môi trường, phát triển bền vững, trong đó có các chỉ
tiêu theo dõi về nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và xã hội cho BVMT.
• Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường; cụ thể hóa các cơ chế
chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải, phát triển công nghệ xử lý
nước thải, tái chế chất thải.
• Sửa đổi, bổ sung các quy định về đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá
tác động môi trường, cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước; về kiểm tra
công tác thẩm định, phê duyệt, chấp thuận điều chỉnh báo cáo ĐTM, cấp giấy
phép xả nước thải vào nguồn nước, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ công tác BVMT.
Xây dựng hệ thống phòng ngừa, cảnh báo sớm sự cố môi trường.
• Thực hiện tổng điều tra các nguồn thải, nguồn gây ô nhiễm trên phạm vi cả
nước, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về môi trường của các Bộ, ngành, địa
phương và các cơ sở sản xuất, kinh doanh để quản lý thống nhất, có cơ chế chia
sẻ thông tin và cảnh báo đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
• Rà soát, sửa đổi, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường bảo đảm
kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực có khả năng gây ô
nhiễm môi trường cao, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường ngành phải nghiêm ngặt
hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường nói chung, đặc biệt chú trọng các ngành
nhuộm, thuộc da, sản xuất giấy, luyện thép từ quặng..., tiếp cận với quy chuẩn kỹ
thuật về môi trường của các nước tiên tiến.
• Rà soát quy hoạch, xây dựng các khu xử lý, chôn lấp rác thải sinh hoạt, rác
thải công nghiệp, chất thải nguy hại đáp ứng nhu cầu theo quy mô phát sinh các
loại chất thải này tại các địa phương, các khu vực kinh tế trọng điểm, nơi có các
dự án lớn. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ hoạt động phát sinh, thu gom, vận chuyển,
xử lý, thải bỏ, chôn lấp các loại chất thải, nhất là chất thải nguy hại. Đầu tư và có
các chính sách thu hút đầu tư của khối tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài vào
hoạt động xử lý chất thải, cung cấp các dịch vụ BVMT; phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ BVMT.
• Tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi
trường trên phạm vi cả nước. Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin, số liệu quan trắc,
đánh giá về chất lượng môi trường làm cơ sở phục vụ công tác thẩm định, xét
duyệt các dự án đầu tư, đồng thời, để các cơ quan, Bộ, ngành, địa phương và người
dân thực hiện kiểm soát, giám sát về môi trường.
• Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát đảm bảo việc tuân thủ
quy định về BVMT đối với những dự án đã đi vào hoạt động, trước hết là các dự
án có nguồn thải ra sông, ra biển. Tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ
việc thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế chất thải, hoàn thiện hệ thống pháp lý về
quản lý chất thải thông thường, trong đó có nội dung quy định về sử dụng chất
thải làm nguyên liệu, nhiên liệu, coi chất thải là tài nguyên.
• Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc quản lý, sử dụng nguồn chi sự
nghiệp môi trường tại các Bộ, ngành, địa phương bảo đảm tiết kiệm, hỗ trợ và 20