Tiểu luận “Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp | Môn kinh tế vĩ mô

Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng tiền cầnthiết trong lưu thông". Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

lOMoARcPSD| 46988474
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài 3: “Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp
chính sách.”
Giảng viên: Trần Bá Thọ
Mã lớp học phần: 22D1ECO50100233
Danh sách nhóm thực hiện:
Lương Thị Ngọc Chiêu - 31211023495 - KQ006
Trần Trung Hiếu - 31211026337 - KQ005
Huỳnh Thị Thu Nhi - 31211026343 - KQ005
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 23 Tháng 3 Năm 2022
lOMoARcPSD| 46988474
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp để thu được lợi nhuận cao đứng vững trên thương trường các nhà kinh tế cũng
như các doanh nghiệp luôn phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần để kinh doanh còn những vấn đề nối cộm
khác trong kinh tế. Một trong những vấn đnối cộm ấy lạm phát. Lạm phát một
hiện tượng kinh tế xã hội gån với nền kinh tế thị trường. Nó một trong những hiện
tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế phát
triển hay không.
Lạm phát được coi một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá tiền tệ.
tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không những giải pháp
chống lạm phát thường trực, đồng bộ hữu hiểu thì lạm phát thể xảy ra ở bất cứ nền
kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Nền kinh tế của Việt Nam cũng không thể tránh khỏi lạm phát, nó là một vấn đề hết sức
phức tạp đòi hỏi sự đầu lớn về thời gian trí tuệ mới thể mong muốn đạt được kết
quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ việc của các nhà doanh nghiệp còn
nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời
sống xã hội, đặc biệt giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền
kinh tế phát triển ốn định, cân đối một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
sinh viên, chúng em thông qua các phương tiện truyền thông để tìm hiểu đưa ra
những giải pháp hợp lý để giảm tỉ lệ lạm phát. Vì vậy nhóm đã chọn đề tài: “Tình hình
lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp chính sách”.
Do kiến thức còn hạn chế và thời gian thực hiện ngắn nên không thể tránh sai sót trong
quá trình làm đề tài. Chúng em rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ thầy.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
lOMoARcPSD| 46988474
1. Định nghĩa lạm phát:
- Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng tiền
cầnthiết trong lưu thông". Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện tượng
lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc Việt nam năm
2005) do loại lạm phát này vẫn thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu chỉ
coi lạm phát khi sự tăng giá kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến
coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát hiện tượng tăng lên của mức
giáchung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải
mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chi tăng tạm thời, trong ngắn
hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó
kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi tác dụng tích cực hơn
là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi lạm phát thì sẽ dẫn
đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.
- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu
MiltonFriedman đã định nghĩa “lạm phát hiện tượng giá cả tăng nhanh liên tục
trong một thời gian dài". Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới ch
phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính
chất của sự tăng giá đó: đó sự tăng giá với tốc độ cao kéo dài. Chính sự tăng giá
cao liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù
của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể nghe
trên đài, báo hay tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so
với tháng trước chứ chưa được coi biểu hiện của lạm phát. Đó thể chỉ sự thay
đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chi tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ
tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi biểu hiện của lạm phát
cao.
Định nghĩa y cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định
nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ Ngân hàng
trung ương chỉ thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong
lOMoARcPSD| 46988474
ngắn hạn. Những cố gắng điều chỉnh giá ctrong ngắn hạn thông qua các công ccủa
chính sách tiền tệ sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.
2. Phân loại lạm phát:
2.1.Căn cứ vào định lượng:
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền
kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn
định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra
tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn ...
- Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số
1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11%,12%.. thì nói chung các tác động tiêu cực không
đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao
thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh
tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc, bất
động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát
sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó
không nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền
kinh tế.
- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất
nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, như
một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và
không ổn định, tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ
mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng
và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm
lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.Tuy
nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
2.2.Căn cứ vào định tính:
- Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây
ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
lOMoARcPSD| 46988474
- Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.
Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
-
đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được
tỷ lệ của trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng
lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến
kinh tế.
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm
phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó
mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân
vào chính quyền có phần giảm sút. Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm
phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó
phức tạp và trầm trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ
lệ khác nhau: lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một
năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%
siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
3.1.Lạm phát do cầu kéo:
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao
động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng
cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải
tăng lên để đáp ứng. Do đó lạm phát. Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn
họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi
nhu cầu về một mặt ng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên vgiá cả của mặt hàng đó.
Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết
các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát
do cầu o", nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng
hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn.các nhà khoa họctả tình trạng lạm phát này là
"quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hóa"
Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương
lOMoARcPSD| 46988474
3.2. Lạm phát do cầu thay đổi:
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác
lại tăng lên. Nếu thị trường người cung cấp độc quyền giá cả tính chất cứng
nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm
vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả
là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
3.3. Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc,
chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên
thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Nếu tiền công danh
nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì
muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung
của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
3.4. Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động
trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả
sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
3.5. Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động
cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng
cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
3.6. Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu
tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá
dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
3.7. Lạm phát tiền tệ:
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng
tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương
lOMoARcPSD| 46988474
mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên
là nguyên nhân gây ra lạm phát.
3.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng
hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung,
gây ra lạm phát.
4. Tác động của lạm phát:
4.1 Các hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang
giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu
tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế
nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà
sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
4.2 Các hiệu ứng tiêu cực:
4.2.1 Đối với lạm phát dự kiến được:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền
kinh tế thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy vẫn gây ra những tổn thất cho
hội:
- Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến
ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để
chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta
phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạmphát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn
doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn t
lOMoARcPSD| 46988474
giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp
tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm
phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của
người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ:
trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh
nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch
giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong
tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các
nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
4.2.2. Đối với lạm phát không dự kiến được:
Đây loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất phân phối lại của cải giữa các
nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho
vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi
vay chịu thiệt hại. lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác
dụng của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế quan điểm rất khác nhau về quy của các tác động tiêu cực của
lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra không đáng
kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm
phát biến động mạnh, tác động hội của thông qua việc phân phối lại của cải giữa
các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất
cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo thuyết kinh tế học, ng trưởng, lạm phát, cán cân thanh toán, thất nghiệp
những yếu tố kinh tế vĩ đáng quan tâm, ảnh hưởng tới cân đối của nền kinh
tế, trong đó yếu tố lạm phát là vấn đề được quan tâm hàng đầu của bất kỳ một quốc gia
nào. Trong thời gian gần đây, lạm phát luôn được Chính phủ quan tâm và dành nhiều nỗ
lOMoARcPSD| 46988474
lực nhằm kiềm chế lạm pháp mức hợp đồng thời bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền
vững. Sau đây, chúng ta sẽ điểm qua tình hình lạm phát của Việt Nam từ 2020 đến nay:
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2020 đến nay:
Năm 2020 một năm đầy biến động, lạm phát tăng cao những tháng đầu năm, việc
nguồn cung của một số mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là nguồn cung thịt lợn giảm do dịch
bệnh tả lợn Châu Phi đã làm cho giá nhóm thực phẩm tăng cao; ngoài ra, do ảnh hưởng
của dịch Covid-19, nhu cầu tiêu dùng nguyên liệu giảm nên giá xăng dầu năm 2020
giảm khá sâu. Tuy vậy, cùng với việc phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong công tác điều
hành giá các mặt hàng do nhà nước quản cùng việc chỉ đạo triển khai tốt công tác bình
ổn thị trường hàng hóa nên về bản diễn biến lạm phát của năm 2020 tương đối sát
với dự báo từ đầu năm.
thể thấy, mặt bằng giá năm 2020 tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước, ngay từ
tháng một đã tăng 6,43%, ảnh hưởng đến công tác quản lý, điều hành giá của năm 2020.
Tuy nhiên với sự điều hành, chỉ đạo sát sao của Chính phủ cùng với các Bộ, ngành, mức
tăng của CPI được kiểm soát dần qua từng tháng với xu ớng giảm dần. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2020 tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu kiểm soát lạm
phát, giữ CPI bình quân đầu năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra trong một năm với
nhiều biến động khó lường như vậy. CPI tháng 12/2020 tăng 0,19% so với tháng
12/2019, là mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Lạm phát cơ bản bình quân năm
2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019.
lOMoARcPSD| 46988474
Tốc độ tăng CPI bình quân năm 2020 (%)
Năm 2020, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát tốt CPI. Đến năm 2021, các
nhà kinh tế cũng nhận định đây một năm kiểm soát CPI khá hiệu quả. CPI bình
quân năm 2021 tăng 1,84% so với bình quân năm 2020, đây mức tăng bình quân năm
thấp nhất trong 5 năm trở lại đây (giai đoạn 2016-2021). Lạm phát bản bình quân
năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020. Lạm phát cơ bản tháng 12/2021 tăng
0,16% so với tháng 11/2021 tăng 0,67% so với tháng 12/2020. trong năm 2021
đối mặt với bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày ng tăng cao, giá nguyên vật liệu
đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng nhờ sự chỉ đạo sát sao
của Chính phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện những giải pháp đồng
bộ để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định giá cả thị trường.
Tuy nhiên, bước sang năm 2022, áp lực lạm phát được đánh giá rất lớn. Nếu dịch
Covid-19 được kiểm soát trong năm 2022, nhu cầu sản xuất tiêu dùng tăng lên; lạm
phát sẽ chịu tác động của vấn đề tăng giá nguyên nhiên vậ liệu trên thế giới như xăng
dầu, than giá cước vận chuyển. Việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong
nước lên cao, tạo áp lực cho lạm phát.
Mặc khác, tại Hội thảo diễn biến thị trường, giá cả Việt Nam m 2021 dự báo
2022, các chuyên gia kinh tế cho rằng, áp lực tăng cao của lạm phát trong năm 2022
có thực, nhưng không quá lo ngại, dự báo vẫn trong tầm kiểm soát theo mục tiêu của
lOMoARcPSD| 46988474
Chính phủ, CPI sẽ mức 2-3,7%, thấp hơn so với mục tiêu dưới 4%. Thực tế, tháng
1/2022, chỉ số giá tiêu dùng CPI (lạm phát) tăng 1,94% so với cùng kỳ năm trước, cho
thấy áp lực lạm phát cả năm rất lớn. Ngay trong những tháng đầu năm, giá cả hàng hóa
tại nhiều ớc trên thế giới tăng cao, tác động tới giá cả hàng hóa trong nước. BTài
chính cho biết, mặt bằng giá cả thị trường trong 2 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam
biến động ng. Nhóm mặt hàng năng lượng, nhiên liệu mức tác động lớn nhất đến
CPI 2 tháng đầu năm, trong đó, giá gas trong nước tăng từ ngày 1/2/2022 sau khi giảm
trong tháng trước; mức giá bán lẻ xăng dầu trong nước tăng trong 4 kỳ điều hành 2 tháng
đầu năm. Kỳ điều hành gần đây nhất cũng tiếp tục điều chỉnh tăng đối với xăng dầu.
Một số mặt hàng phòng chống dịch như kit-test xét nghiệm Covid -19 tăng giá cục bộ
do nhu cầu mua tích trữ và sử dụng tăng sau Tết khi người dân quay trở lại làm việc, đi
du lịch, đi lễ hội, học sinh, sinh viên quay trlại trường học, số ca nhiễm bệnh tăng
cao… Ngược lại, giá bán nhiều hàng hóa, dịch vụ được điều chỉnh giảm do tác động
giảm thuế giá trị gia ng từ 10% xuống còn 8% từ ngày 1/2/2022 theo Nghị định số
15/2022/NĐ-CP của Chính phủ, từ đó góp phần giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá.
Dự báo một số yếu tố sẽ gây áp lực lên mặt bằng giá trong tháng 3 và các tháng còn lại
năm 2022 như: Giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật chiến lược vẫn chịu áp lực lớn
từ xu hướng tăng giá trên thế giới nhu cầu đầu tư, tiêu dùng trong ớc khi kinh tế
phục hồi như xăng dầu, gas, vật liệu xây dựng, phân bón, thức ăn chăn nuôi, dịch vụ du
lịch…
2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam năm 2020 đến nay:
Trong năm 2020:
-Một số nguyên nhân làm tăng CPI:
Tháng 01 tháng 02 tháng Tết nên nhu cầu mua sắm tăng cao, giá các mặt
hàng lương thực bình quân năm 2020 tăng 4,51% so với năm trước góp phần làm
cho CPI chung tăng 0,17%. Giá gạo năm 2020 tăng 5,14% so với năm trước do
giá gạo xuất khẩu tăng cùng với nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng.
Giá các mặt hàng thực phẩm năm 2020 tăng 12,28% so với năm trước góp phần
làm cho CPI tăng 2,61%, chủ yếu do giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống tăng
cao trong dịp Tết Nguyên đán, nhất giá mặt hàng thịt lợn tăng cao do nguồn
lOMoARcPSD| 46988474
cung chưa được đảm bảo, giá thịt lợn tăng 57,23% so với năm trước làm cho CPI
chung tăng 1,94%. Theo đó, giá thịt chế biến tăng 21,59%; mỡ lợn tăng 58,99%
so với năm trước. Do nh hưởng của mưa bão, lụt tại các tỉnh miền Trung trong
tháng 10 tháng 11 tác động làm cho diện tích rau màu ngập nặng, nhiều ao,
hồ, chuồng trại bị hỏng, cuốn trôi... làm cho giá rau tươi, khô chế biến tăng.
Do ảnh hưởng từ dịch Covid-19 trên thế giới vẫn còn phức tạp, nhu cầu về một
số loại vật tư y tế, thuốc phòng và chữa bệnh phục vụ trong nước và xuất khẩu ở
mức cao nên giá các mặt hàng này xu hướng tăng nhẹ. Bình quân năm 2020
giá thuốc và thiết bị y tế tăng 1,35% so với trước.
Giá dịch vụ giáo dục năm 2020 tăng 4,32% so với năm 2019 do các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thực hiện tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo
lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
-Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, một số nguyên nhân kiềm chế CPI như
sau:
Giá xăng dầu, giá gas trong nước giảm mạnh theo giá thế giới là yếu tố chính làm
giảm áp lực lên mặt bằng giá trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2020.
Giá xăng dầu trong nước bình quân năm 2020 giảm 23,03% so với năm trước tác
động làm CPI chung giảm 0,83%; Giá gas bình quân năm 2020 giảm 0,95% so
với năm trước; Giá dầu hỏa bình quân năm 2020 giảm 31,21% so với trước.
Nhu cầu du lịch giảm trong thời gian giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CTTTg
của Thủ tướng Chính phủ do ảnh ởng của dịch Covid-19 lần 1 lần 2 nên
bình quân năm 2020 giá du lịch trọn gói giảm 6,24% so với năm trước.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu đi lại của người dân giảm, bình quân
năm 2020 so với m trước, giá máy bay giảm 34,7%, giá tàu hỏa giảm
2,12%.
Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân người sản xuất gặp khó
khăn do dịch Covid-19. Cụ thể, gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng với thời gian từ
tháng 4 đến tháng 6 năm 2020. Theo đó, giá điện tháng 5 (dựa trên sản lượng và
doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020) tháng 6 năm
lOMoARcPSD| 46988474
2020 (dựa trên sản lượng doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/5/2020 đến
31/5/2020) giảm lần lượt là 0,28% và 2,72% so với tháng trước.
Tớc diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính
phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ
để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định thị trường, đảm bảo đời sống của nhân dân.
Trong năm 2021:
-CPI bình quân tăng do một số nguyên nhân sau:
Giá xăng dầu trong nước tăng 31,74% so với năm trước (làm CPI chung tăng
1,14 điểm phần trăm), giá gas tăng 25,89% (làm CPI chung tăng 0,38 điểm phần
trăm).
Giá gạo tăng 5,79% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm)
do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và
gạo tẻ ngon tăng trong dịp Lễ, Tết nhu cầu tích lũy của người n trong thời
gian giãn cách xã hội.
Giá vật liệu bảo ỡng nhà tăng 7,03% so với năm trước do giá xi măng, sắt,
thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào (làm CPI chung tăng 0,14
điểm phần trăm).
Giá dịch vụ giáo dục tăng 1,87% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,1 điểm
phần trăm) do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo lộ
trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
Và trong năm 2022, ba yếu tố gây trở ngại đến việc kiểm soát lạm phát chính tổng
cầu tăng đột biến, gcả nguyên vật liệu tăng cao và đứt gãy chuỗi cung ứng, kể cả
trong nước và quốc tế:
Thứ nhất, tổng cầu tăng đột biến sau khi Việt Nam khắc phục khá thành công đại
dịch. Tính chung 2 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng ước đạt hơn 876 nghìn tỷ đồng, nhích tăng 1,7% so
lOMoARcPSD| 46988474
với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 0,3% trong khi cùng kỳ năm
2021 chỉ tăng vỏn vẹn 0,7%. Đặc biệt, với quy mô gói hỗ trợ 350.000 tỷ đồng từ
chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chính tạo áp lực lạm phát rất
lớn.
Mặt khác, nền kinh tế Việt đang phục hồi, doanh nghiệp đang rộn ng quay trở
lại hoạt động sản xuất nếu tình trạng thiếu hụt lao động xảy ra cũng một yếu tố
khá quan trọng tác động tới lạm phát. Bởi thiếu hụt lao động, các doanh nghiệp
phải tốn nhiều chi phí để tuyển dụng, đào tạo lao động.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá nhiều o nguyên vật liệu nhập
khẩu. Hiện nay, tổng cầu thế giới tăng nên nguyên vật liệu nhập khẩu hàng hóa
thế giới cũng tăng rất cao, có nhiều mặt hàng tăng gấp 2 lần so với đầu năm. Như
vậy, nhập khẩu lạm phát không thể tránh khỏi.
Thứ ba, đứt gãy chuỗi cung ứng chính nguyên nhân gây ra lạm phát cao trên
thế giới. Đứt gãy chuỗi cung ứng nhiên liệu, khí đốt… khiến lạm phát châu Âu
tăng rất mạnh trong vỏn vẹn 2 tháng đầu năm, lên tới 5,1% trong khi mục tiêu
điều hành chỉ khiêm tốn 2%.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát mức tăng trưởng thích hợp
trong tình hình mới nêu 5 giải pháp cần tập trung chỉ đạo điều hành nhằm kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế mô, đảm bảo an sinh hội duy trì tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế.
1. Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng:
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một
cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục tiêu
chung kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện
lOMoARcPSD| 46988474
những chính sách này không rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ
Quốc Tuấn đăng trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá
kinh tế Việt Nam phải trả khi thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng
dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm
trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài
thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn... đã
được tiến hành.
Hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là gì?
Thắt chặt tiền tệ sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất. Quyết định rút tiền
ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của
ngân hàng. Nhìn một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu
quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong
khi thị trường chứng khoán đầu năm không tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản
thì đang bị đánh giá quá nóngbị cơ quan quản lý theo dõi quá kỹ. Tuy nhiên, nếu
lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi
phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên.
Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá: Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong
tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên
đồng USD So với VND. Cho lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới,
nhưng tính ra vẫn thấp hơn lãi suất VND knhiều, tốc độ tăng lãi suất VND trong
thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền
đồng đã đến mức báo động nhiều ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây
ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn đang đứng trước nguy bị ảnh hưởng xấu
từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển. Đứng trước tình hình này, có thể NHNN
sẽ tiếp tục bị buộc phải mua USD vào, và như vậy lại tăng cung tiền ra nền kinh tế. Rồi
để trung hòa lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải tiếp tục phát hành tín phiếu,
trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vòng luẩn quẩn? Đó chưa kể chúng ta cần
để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài toán trung hòa” này: mua ngoại tệ vào trong
lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp lý, thì kết
quả là khoảng chênh lệch lãi suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều kiện hiện
lOMoARcPSD| 46988474
tại, khi mà khoảng hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có đủ khả năng
đứng vững trước sức ép phải bù đắp khoản lỗ do chính sách trung hòa” này?
Đánh giá chung:
Từ những đánh giá trên, chúng ta thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền tệ cũng
đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường
vốn phát triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi
ro lớn như vậy, sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát,
để tăng trưởng thực sự mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân tích
chính sách này, chúng ta sẽ nhận thấy những rủi ro thể khiến không mang lại
lợi ích thật sự mà chỉ mang tính ngắn hạn và không toàn vẹn.
2. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước:
Hai tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính
trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi
chưa thật cần thiết thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng dầu; rà soát và giảm các hạng
mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu
dùng.
Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô: Nhìn vào những nước đã từng trải
qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in
tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao lâu i
tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều
này đến lượt nó dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc
Luật Ngân sách 1993 không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách,
nhưng với lượng tiền đồng trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ
cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử 8%) thì
nhà nước cũng đã thêm được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể
đến “thuế lạm phát cao ở Việt Nam trong mấy năm qua).
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam còn do đầu tư
công nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự
kém hiệu quả này, đến ợt mình, lại làm cho nh trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên
lOMoARcPSD| 46988474
trầm trọng, “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn
mạnh thêm là “dòng xoáy đi xuống này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại
chứ đừng nói tới khả năng đổi chiều. vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng yêu
cầu “cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách,
kiểm soát chặt chẽ đầu của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt
ngân sách” cần phải được thực hiện một cách triệt để nhất quán. Nếu không giảm
được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất -thắt chặt tiền tệ - sẽ bị hiệu
hóa đáng kể, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn là kiềm chế lạm phát.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng chế quản đầu tư công: Chính ch giảm tổng cầu
thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi
tiêu công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế
để đảm bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đề thu hẹp thâm hụt ngân sách thì
song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách,
tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều tới hơn 40%) vào các nguồn thu không
bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu
nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này các
nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu
quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư
sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho
ngân sách nhà nước. Áp dụng thuê bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền
vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà ớc thực hiện được các chương
trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh.
3. Cân đối cung cầu trong nền kinh tế:
Ba là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu
các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng,
sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Khẳng định không tăng giá
bán than cho ngành điện, không tăng giá điện giá xăng dầu Nhà nước tiếp tục lỗ
cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá.
Lãnh đạo các Bộ, ngành cho biết, Chính phủ tiếp tục thực hiện không tăng giá với nhiều
mặt hàng từ nay đến cuối năm. Cùng đó, nhiều biện pháp sđược áp dụng để đảm bảo
cung cầu, không biến động giá của những mặt hàng quan trọng.
lOMoARcPSD| 46988474
4. Ổn định giá cả thị trường:
Bốn Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các
ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại
trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp trách nhiệm với đất ớc không đầu trục
lợi tăng giá các mặt hàng Chính phủ đã c định nguyên tắc ưu tiên từ nay đến
cuối năm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế mô, tạo đà cho những năm tiếp theo,
đảm bảo an sinh xã hội. Và trong việc ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, Thủ tướng đã
chỉ đạo, với mặt ng xăng dầu, trong bất cứ thời điểm nào, địa điểm nào cũng phải đảm
bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp diễn biến bất thường, Chính phủ s
nghiên cứu biện pháp hợp lý đgiải quyết Điều này cho thấy Chính phủ luôn xác định
ưu tiên chống lạm phátmục tiêu hàng đầu, nhất là đối với xăng dầu mặt hàng thiết
yếu hàng đầu của nền kinh tế.
Cùng với các giải pháp từ Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bình ổn giá,
nhất với các mặt hàng thiết yếu, sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm
phát, phát triển kinh tế bền vững.
5. Chính sách tỷ giá hối đoái và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm phát:
Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã không thành công và gây nên
nhiều biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để điều trị
phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Và tỷ giá hối đoái là công cụ mà chúng ta
cần phải xem xét tới để thay đổi sau một thời gian dài phục vụ cho tăng trưởng kinh
tế. Theo phân tích của IMF, một trong những lí do khiến lạm phát ở Trung Quốc,
Malaysia, Thái Lan được duy trì ở mức tương đối thấp là nằm ở chính sách tỷ giá
hối đoái Việt Nam đã cố gắng duy trì một đồng tiền yếu trong những năm trước đây
để hỗ trợ cho xuất khẩu, phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước
nhưng nếu tiếp tục duy trì chính sách này trong khi tình hình kinh tế đã thay đổi liệu
có còn phù hợp. Việc cố gắng giữ chân” tỷ giá hối đoái trong giai đoạn lạm phát ở
mức cao hiện nay dường như trở thành một bài toán khó tìm lời giải với quá trình
điều tiết nền kinh tế. Nói vậy thì việc giảm tỷ giá hối đoái theo sát với thị trường
hợm liệu có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế hiện nay?
lOMoARcPSD| 46988474
Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì cái lợi đầu tiên chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên, nhiên
liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả hàng hóa
trong nước giảm.
Cái lợi thứ hai xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền
kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát.
Nhưng một hệ quả kèm theo khi đó người dân sẽ không nắm giữ USD, do VND
đang tăng giá n họ schuyển đổi USD sang nắm giữ VND. Các ngân hàng sẽ phải
tăng lượng VND để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi USD của người dân trong khi nhu cầu
VND của chính ngân hàng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Việc này trước hết sẽ gây
bất ổn trong tâm lý thị trường vốn đã không thực sự ổn định, kế đến là ảnh hưởng đến
tính thanh khoản của ngân hàng cùng với áp lực tăng lượng cung tiền trong lưu thông.
Như vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đoái không thôi chưa đủ. Chúng ta cần phải thúc đẩy
các kênh đầu để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ
giá hối đoái. Xét trong tình hình kinh tế như hiện nay, thị trường chứng khoán chưa
tín hiệu khởi sắc tốt; kinh doanh bất động sản đang được kiểm chế dần; lạm phát tăng
cao khó thể đo lường được khiến đồng tiền trở nên mất giá, ngay cả các ngân hàng
cũng huy động vốn với lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn (trước khi Ngân Hàng Trung
ương qui định mức lãi suất trần 12%) đề phòng ngừa rủi ro; trong khi giá vàng đang
tăng.
Biện pháp kiềm chế lạm phát trong năm 2022:
Năm 2022, các tổ chức quốc tế dự báo CPI của Việt Nam tăng khoảng 3,5-4%; rủi ro
vượt 4% phụ thuộc vào giá cả hàng hóa thế giới. Để giúp kiềm chế lạm phát tăng cao
trong m 2022, theo chuyên gia kinh tế NTLong, cần nâng cao hiệu quả trong
phối hợp chính sách tài khóa tiền tệ trong điều hành cung tiền, lãi suất, trung hòa
lượng tiền vào-ra, điều tiết giá cả.
Về quản lý, điều hành giá các mặt hàng thiết yếu, các bộ, ngành cần tiếp tục điều hành
giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến
giá thành phẩm xăng dầu thế giới. Nâng cao hiệu quả thực hiện các gói hỗ trợ người n
và doanh nghiệp, các gói kích cầu cung, từ đó nắn dòng tiền vào những lĩnh vực
lOMoARcPSD| 46988474
triển vọng phục hồi mạnh tính lan tỏa cao, góp phần tăng vòng quay tiền trong nền
kinh tế thực, phục hồi kinh tế tốt hơn.
Cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu -kinh doanh; chú trọng phát triển kinh
tế-xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, từ đó giảm áp
lực lạm phát.
Theo PGS, TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cấp cao Học viện Tài chính, cần phải tiếp
tục đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch Covid-19. Đây sẽ tiền đề tốt cho ổn định
sản xuất, ổn định thị trường, bình ổn giá cả các mặt hàng.
Trong m 2022, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu
khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình
thức, phương thức huy động vay nợ công để vừa bảo đảm kích thích nền kinh tế phục
hồi phát triển nhanh chóng, vừa bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay, bảo đảm khả
năng trả nợ vay và sự ổn định, phát triển trong dài hạn của nền kinh tế.
Để biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp, kiểm soát lạm phát, Phó thtướng
Chính phủ Minh Khái, Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá đã yêu cầu các bộ, ngành
liên quan và địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng
quan trọng, thiết yếu để có biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp; tiếp tục chủ động
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh lưu thông phân phối hàng hóa; đáp ứng
kịp thời nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Liên quan tới mặt hàng xăng dầu, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương tiếp tục phối
hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá xăng dầu
trong nước phản ánh, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới, sử dụng hợp
Quỹ Bình ổn giá xăng dầu với liều lượng thích hợp, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ
trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân, ổn định
của thị trường, cung cầu xăng dầu trong nước.
Để giúp kiềm chế lạm phát tăng cao trong năm 2022, Tổng cục Thống cho rằng,
Chính phủ, các bộ, ngành địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát
trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt
Nam. Đặc biệt, cần đánh giá, nhận định các mặt hàng, nguyên vật liệu nào có khả năng
thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn để từ đó đưa ra được chính sách phù hợp. Bên cạnh
đó, theo dõi sát diễn biến giá của các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm,
| 1/24

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46988474
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài 3: “Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp chính sách.”
Giảng viên: Trần Bá Thọ
Mã lớp học phần: 22D1ECO50100233
Danh sách nhóm thực hiện:
Lương Thị Ngọc Chiêu - 31211023495 - KQ006
Trần Trung Hiếu - 31211026337 - KQ005
Huỳnh Thị Thu Nhi - 31211026343 - KQ005
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 23 Tháng 3 Năm 2022 lOMoAR cPSD| 46988474 PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường các nhà kinh tế cũng
như các doanh nghiệp luôn phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nối cộm
khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nối cộm ấy là lạm phát. Lạm phát là một
hiện tượng kinh tế xã hội gån với nền kinh tế thị trường. Nó là một trong những hiện
tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nó
có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những giải pháp
chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ nền
kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Nền kinh tế của Việt Nam cũng không thể tránh khỏi lạm phát, nó là một vấn đề hết sức
phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết
quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là
nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời
sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền
kinh tế phát triển ốn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Là sinh viên, chúng em thông qua các phương tiện truyền thông để tìm hiểu và đưa ra
những giải pháp hợp lý để giảm tỉ lệ lạm phát. Vì vậy nhóm đã chọn đề tài: “Tình hình
lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp chính sách”.
Do kiến thức còn hạn chế và thời gian thực hiện ngắn nên không thể tránh sai sót trong
quá trình làm đề tài. Chúng em rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ thầy. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT lOMoAR cPSD| 46988474
1. Định nghĩa lạm phát: -
Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng tiền
cầnthiết trong lưu thông". Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện tượng
lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm
2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu chỉ
coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến
coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra. -
Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức
giáchung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải
mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chi tăng tạm thời, trong ngắn
hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó
là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn
là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn
đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát. -
Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là
MiltonFriedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục
trong một thời gian dài". Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ
phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính
chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá
cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù
của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể nghe
trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so
với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể chỉ là sự thay
đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chi là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ
tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
Định nghĩa này cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định
nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ vì Ngân hàng
trung ương chỉ có thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong lOMoAR cPSD| 46988474
ngắn hạn. Những cố gắng điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn thông qua các công cụ của
chính sách tiền tệ sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.
2. Phân loại lạm phát:
2.1.Căn cứ vào định lượng:
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền
kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn
định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra
tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn ...
- Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số
1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11%,12%.. thì nói chung các tác động tiêu cực không
đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao
thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh
tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc, bất
động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát
sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó
không nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất
nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, nó như
một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và
không ổn định, tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ
mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng
và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm
lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.Tuy
nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
2.2.Căn cứ vào định tính:
- Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây
ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung. lOMoAR cPSD| 46988474
- Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.
Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương -
đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được
tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng
lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm
phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó
mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân
vào chính quyền có phần giảm sút. Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm
phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó
phức tạp và trầm trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ
lệ khác nhau: lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một
năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và
siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
3.1.Lạm phát do cầu kéo:
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao
động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng
cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải
tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và
họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi
nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó.
Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết
các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát
do cầu kéo", nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng
hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn.các nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là
"quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hóa" lOMoAR cPSD| 46988474
3.2. Lạm phát do cầu thay đổi:
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác
lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng
nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm
vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả
là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
3.3. Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc,
chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên
thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Nếu tiền công danh
nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì
muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung
của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
3.4. Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động
trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả
sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
3.5. Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động
cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng
cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
3.6. Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu
tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá
dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
3.7. Lạm phát tiền tệ:
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng
tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương lOMoAR cPSD| 46988474
mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên
là nguyên nhân gây ra lạm phát.
3.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng
hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
4. Tác động của lạm phát:
4.1 Các hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang
giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu
tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà
nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà
sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
4.2 Các hiệu ứng tiêu cực:
4.2.1 Đối với lạm phát dự kiến được:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền
kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
- Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến
ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để
chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta
phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạmphát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn
doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì lOMoAR cPSD| 46988474
giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp
tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm
phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của
người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ:
trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh
nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch
giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong
tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá
nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
4.2.2. Đối với lạm phát không dự kiến được:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho
vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi
vay chịu thiệt hại. lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác dụng của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của
lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng
kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm
phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa
các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất
cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo lý thuyết kinh tế học, tăng trưởng, lạm phát, cán cân thanh toán, thất nghiệp là
những yếu tố kinh tế vĩ mô đáng quan tâm, ảnh hưởng tới cân đối vĩ mô của nền kinh
tế, trong đó yếu tố lạm phát là vấn đề được quan tâm hàng đầu của bất kỳ một quốc gia
nào. Trong thời gian gần đây, lạm phát luôn được Chính phủ quan tâm và dành nhiều nỗ lOMoAR cPSD| 46988474
lực nhằm kiềm chế lạm pháp ở mức hợp lý đồng thời bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền
vững. Sau đây, chúng ta sẽ điểm qua tình hình lạm phát của Việt Nam từ 2020 đến nay:
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2020 đến nay:
Năm 2020 là một năm đầy biến động, lạm phát tăng cao ở những tháng đầu năm, việc
nguồn cung của một số mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là nguồn cung thịt lợn giảm do dịch
bệnh tả lợn Châu Phi đã làm cho giá nhóm thực phẩm tăng cao; ngoài ra, do ảnh hưởng
của dịch Covid-19, nhu cầu tiêu dùng nguyên liệu giảm nên giá xăng dầu năm 2020
giảm khá sâu. Tuy vậy, cùng với việc phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong công tác điều
hành giá các mặt hàng do nhà nước quản lí cùng việc chỉ đạo triển khai tốt công tác bình
ổn thị trường hàng hóa nên về cơ bản diễn biến lạm phát của năm 2020 tương đối sát
với dự báo từ đầu năm.
Có thể thấy, mặt bằng giá năm 2020 tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước, ngay từ
tháng một đã tăng 6,43%, ảnh hưởng đến công tác quản lý, điều hành giá của năm 2020.
Tuy nhiên với sự điều hành, chỉ đạo sát sao của Chính phủ cùng với các Bộ, ngành, mức
tăng của CPI được kiểm soát dần qua từng tháng với xu hướng giảm dần. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2020 tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu kiểm soát lạm
phát, giữ CPI bình quân đầu năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra trong một năm với
nhiều biến động khó lường như vậy. CPI tháng 12/2020 tăng 0,19% so với tháng
12/2019, là mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Lạm phát cơ bản bình quân năm
2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019. lOMoAR cPSD| 46988474
Tốc độ tăng CPI bình quân năm 2020 (%)
Năm 2020, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát tốt CPI. Đến năm 2021, các
nhà kinh tế cũng nhận định rõ đây là một năm kiểm soát CPI khá hiệu quả. CPI bình
quân năm 2021 tăng 1,84% so với bình quân năm 2020, đây là mức tăng bình quân năm
thấp nhất trong 5 năm trở lại đây (giai đoạn 2016-2021). Lạm phát cơ bản bình quân
năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020. Lạm phát cơ bản tháng 12/2021 tăng
0,16% so với tháng 11/2021 và tăng 0,67% so với tháng 12/2020. Dù trong năm 2021
đối mặt với bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá nguyên vật liệu
đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng nhờ sự chỉ đạo sát sao
của Chính phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện những giải pháp đồng
bộ để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định giá cả thị trường.
Tuy nhiên, bước sang năm 2022, áp lực lạm phát được đánh giá là rất lớn. Nếu dịch
Covid-19 được kiểm soát trong năm 2022, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng lên; lạm
phát sẽ chịu tác động của vấn đề tăng giá nguyên nhiên vậ liệu trên thế giới như xăng
dầu, than và giá cước vận chuyển. Việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong
nước lên cao, tạo áp lực cho lạm phát.
Mặc khác, tại Hội thảo diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam năm 2021 và dự báo
2022, các chuyên gia kinh tế cho rằng, áp lực tăng cao của lạm phát trong năm 2022 là
có thực, nhưng không quá lo ngại, dự báo vẫn trong tầm kiểm soát theo mục tiêu của lOMoAR cPSD| 46988474
Chính phủ, CPI sẽ ở mức 2-3,7%, thấp hơn so với mục tiêu dưới 4%. Thực tế, tháng
1/2022, chỉ số giá tiêu dùng CPI (lạm phát) tăng 1,94% so với cùng kỳ năm trước, cho
thấy áp lực lạm phát cả năm rất lớn. Ngay trong những tháng đầu năm, giá cả hàng hóa
tại nhiều nước trên thế giới tăng cao, tác động tới giá cả hàng hóa trong nước. Bộ Tài
chính cho biết, mặt bằng giá cả thị trường trong 2 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam
biến động tăng. Nhóm mặt hàng năng lượng, nhiên liệu có mức tác động lớn nhất đến
CPI 2 tháng đầu năm, trong đó, giá gas trong nước tăng từ ngày 1/2/2022 sau khi giảm
trong tháng trước; mức giá bán lẻ xăng dầu trong nước tăng trong 4 kỳ điều hành 2 tháng
đầu năm. Kỳ điều hành gần đây nhất cũng tiếp tục điều chỉnh tăng đối với xăng dầu.
Một số mặt hàng phòng chống dịch như kit-test xét nghiệm Covid -19 tăng giá cục bộ
do nhu cầu mua tích trữ và sử dụng tăng sau Tết khi người dân quay trở lại làm việc, đi
du lịch, đi lễ hội, học sinh, sinh viên quay trở lại trường học, số ca nhiễm bệnh tăng
cao… Ngược lại, giá bán nhiều hàng hóa, dịch vụ được điều chỉnh giảm do tác động
giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống còn 8% từ ngày 1/2/2022 theo Nghị định số
15/2022/NĐ-CP của Chính phủ, từ đó góp phần giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá.
Dự báo một số yếu tố sẽ gây áp lực lên mặt bằng giá trong tháng 3 và các tháng còn lại
năm 2022 như: Giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật tư chiến lược vẫn chịu áp lực lớn
từ xu hướng tăng giá trên thế giới và nhu cầu đầu tư, tiêu dùng trong nước khi kinh tế
phục hồi như xăng dầu, gas, vật liệu xây dựng, phân bón, thức ăn chăn nuôi, dịch vụ du lịch…
2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam năm 2020 đến nay: Trong năm 2020:
-Một số nguyên nhân làm tăng CPI:
• Tháng 01 và tháng 02 là tháng Tết nên nhu cầu mua sắm tăng cao, giá các mặt
hàng lương thực bình quân năm 2020 tăng 4,51% so với năm trước góp phần làm
cho CPI chung tăng 0,17%. Giá gạo năm 2020 tăng 5,14% so với năm trước do
giá gạo xuất khẩu tăng cùng với nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng.
• Giá các mặt hàng thực phẩm năm 2020 tăng 12,28% so với năm trước góp phần
làm cho CPI tăng 2,61%, chủ yếu do giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống tăng
cao trong dịp Tết Nguyên đán, nhất là giá mặt hàng thịt lợn tăng cao do nguồn lOMoAR cPSD| 46988474
cung chưa được đảm bảo, giá thịt lợn tăng 57,23% so với năm trước làm cho CPI
chung tăng 1,94%. Theo đó, giá thịt chế biến tăng 21,59%; mỡ lợn tăng 58,99%
so với năm trước. Do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt tại các tỉnh miền Trung trong
tháng 10 và tháng 11 tác động làm cho diện tích rau màu ngập nặng, nhiều ao,
hồ, chuồng trại bị hư hỏng, cuốn trôi... làm cho giá rau tươi, khô và chế biến tăng.
• Do ảnh hưởng từ dịch Covid-19 trên thế giới vẫn còn phức tạp, nhu cầu về một
số loại vật tư y tế, thuốc phòng và chữa bệnh phục vụ trong nước và xuất khẩu ở
mức cao nên giá các mặt hàng này có xu hướng tăng nhẹ. Bình quân năm 2020
giá thuốc và thiết bị y tế tăng 1,35% so với trước.
• Giá dịch vụ giáo dục năm 2020 tăng 4,32% so với năm 2019 do các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thực hiện tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo
lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
-Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, có một số nguyên nhân kiềm chế CPI như sau:
• Giá xăng dầu, giá gas trong nước giảm mạnh theo giá thế giới là yếu tố chính làm
giảm áp lực lên mặt bằng giá trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2020.
Giá xăng dầu trong nước bình quân năm 2020 giảm 23,03% so với năm trước tác
động làm CPI chung giảm 0,83%; Giá gas bình quân năm 2020 giảm 0,95% so
với năm trước; Giá dầu hỏa bình quân năm 2020 giảm 31,21% so với trước.
• Nhu cầu du lịch giảm trong thời gian giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CTTTg
của Thủ tướng Chính phủ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 lần 1 và lần 2 nên
bình quân năm 2020 giá du lịch trọn gói giảm 6,24% so với năm trước.
• Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu đi lại của người dân giảm, bình quân
năm 2020 so với năm trước, giá vé máy bay giảm 34,7%, giá vé tàu hỏa giảm 2,12%.
• Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó
khăn do dịch Covid-19. Cụ thể, gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng với thời gian từ
tháng 4 đến tháng 6 năm 2020. Theo đó, giá điện tháng 5 (dựa trên sản lượng và
doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020) và tháng 6 năm lOMoAR cPSD| 46988474
2020 (dựa trên sản lượng và doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/5/2020 đến
31/5/2020) giảm lần lượt là 0,28% và 2,72% so với tháng trước.
• Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính
phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ
để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định thị trường, đảm bảo đời sống của nhân dân. Trong năm 2021:
-CPI bình quân tăng do một số nguyên nhân sau:
• Giá xăng dầu trong nước tăng 31,74% so với năm trước (làm CPI chung tăng
1,14 điểm phần trăm), giá gas tăng 25,89% (làm CPI chung tăng 0,38 điểm phần trăm).
• Giá gạo tăng 5,79% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm)
do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và
gạo tẻ ngon tăng trong dịp Lễ, Tết và nhu cầu tích lũy của người dân trong thời gian giãn cách xã hội.
• Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 7,03% so với năm trước do giá xi măng, sắt,
thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào (làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm).
• Giá dịch vụ giáo dục tăng 1,87% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,1 điểm
phần trăm) do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo lộ
trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
Và trong năm 2022, ba yếu tố gây trở ngại đến việc kiểm soát lạm phát chính là tổng
cầu tăng đột biến, giá cả nguyên vật liệu tăng cao và đứt gãy chuỗi cung ứng, kể cả
trong nước và quốc tế:
Thứ nhất, tổng cầu tăng đột biến sau khi Việt Nam khắc phục khá thành công đại
dịch. Tính chung 2 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng ước đạt hơn 876 nghìn tỷ đồng, nhích tăng 1,7% so lOMoAR cPSD| 46988474
với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 0,3% trong khi cùng kỳ năm
2021 chỉ tăng vỏn vẹn 0,7%. Đặc biệt, với quy mô gói hỗ trợ 350.000 tỷ đồng từ
chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chính tạo áp lực lạm phát rất lớn.
• Mặt khác, nền kinh tế Việt đang phục hồi, doanh nghiệp đang rộn ràng quay trở
lại hoạt động sản xuất nếu tình trạng thiếu hụt lao động xảy ra cũng một yếu tố
khá quan trọng tác động tới lạm phát. Bởi thiếu hụt lao động, các doanh nghiệp
phải tốn nhiều chi phí để tuyển dụng, đào tạo lao động.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào nguyên vật liệu nhập
khẩu. Hiện nay, tổng cầu thế giới tăng nên nguyên vật liệu nhập khẩu hàng hóa
thế giới cũng tăng rất cao, có nhiều mặt hàng tăng gấp 2 lần so với đầu năm. Như
vậy, nhập khẩu lạm phát không thể tránh khỏi.
Thứ ba, đứt gãy chuỗi cung ứng chính là nguyên nhân gây ra lạm phát cao trên
thế giới. Đứt gãy chuỗi cung ứng nhiên liệu, khí đốt… khiến lạm phát châu Âu
tăng rất mạnh trong vỏn vẹn 2 tháng đầu năm, lên tới 5,1% trong khi mục tiêu
điều hành chỉ khiêm tốn 2%.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng thích hợp
trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế.
1. Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng:
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một
cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục tiêu
chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện lOMoAR cPSD| 46988474
những chính sách này không rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ
Quốc Tuấn đăng trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà
kinh tế Việt Nam phải trả khi thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng
dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm
trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài
thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn... đã được tiến hành.
Hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là gì?
Thắt chặt tiền tệ sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất. Quyết định rút tiền
ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của
ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu
quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong
khi thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản
thì đang bị đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý theo dõi quá kỹ. Tuy nhiên, nếu
lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi
phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên.
Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá: Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong
tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên
đồng USD So với VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới,
nhưng tính ra vẫn thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong
thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền
đồng đã đến mức báo động ở nhiều ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây
ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu
từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển. Đứng trước tình hình này, có thể NHNN
sẽ tiếp tục bị buộc phải mua USD vào, và như vậy lại tăng cung tiền ra nền kinh tế. Rồi
để trung hòa lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải tiếp tục phát hành tín phiếu,
trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vòng luẩn quẩn? Đó là chưa kể chúng ta cần
để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài toán trung hòa” này: mua ngoại tệ vào trong
lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp lý, thì kết
quả là khoảng chênh lệch lãi suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều kiện hiện lOMoAR cPSD| 46988474
tại, khi mà khoảng hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có đủ khả năng
đứng vững trước sức ép phải bù đắp khoản lỗ do chính sách trung hòa” này? Đánh giá chung:
Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền tệ cũng
đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường
vốn phát triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi
ro lớn như vậy, sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát,
để tăng trưởng thực sự mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân tích
chính sách này, chúng ta sẽ nhận thấy có những rủi ro có thể khiến nó không mang lại
lợi ích thật sự mà chỉ mang tính ngắn hạn và không toàn vẹn.
2. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước:
Hai là tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính
trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi
chưa thật cần thiết thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng dầu; rà soát và giảm các hạng
mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng.
Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô: Nhìn vào những nước đã từng trải
qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in
tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài
tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều
này đến lượt nó dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc dù
Luật Ngân sách 1993 không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách,
nhưng với lượng tiền đồng trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ
cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là 8%) thì
nhà nước cũng đã có thêm được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể
đến “thuế lạm phát cao ở Việt Nam trong mấy năm qua).
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam còn do đầu tư
công và nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự
kém hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên lOMoAR cPSD| 46988474
trầm trọng, và “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn
mạnh thêm là “dòng xoáy đi xuống này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại
chứ đừng nói tới khả năng đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng yêu
cầu “cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách,
kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt
ngân sách” cần phải được thực hiện một cách triệt để và nhất quán. Nếu không giảm
được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất -thắt chặt tiền tệ - sẽ bị vô hiệu
hóa đáng kể, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn là kiềm chế lạm phát.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công: Chính sách giảm tổng cầu
thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi
tiêu công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế
để đảm bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đề thu hẹp thâm hụt ngân sách thì
song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách,
tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều tới hơn 40%) vào các nguồn thu không
bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu
nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các
nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu
quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ
sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho
ngân sách nhà nước. Áp dụng thuê bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền
vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương
trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh.
3. Cân đối cung cầu trong nền kinh tế:
Ba là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu
các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng,
sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Khẳng định không tăng giá
bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu Nhà nước tiếp tục bù lỗ
cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá.
Lãnh đạo các Bộ, ngành cho biết, Chính phủ tiếp tục thực hiện không tăng giá với nhiều
mặt hàng từ nay đến cuối năm. Cùng đó, nhiều biện pháp sẽ được áp dụng để đảm bảo
cung cầu, không biến động giá của những mặt hàng quan trọng. lOMoAR cPSD| 46988474
4. Ổn định giá cả thị trường:
Bốn là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các
ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại
trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục
lợi và tăng giá các mặt hàng Chính phủ đã xác định nguyên tắc ưu tiên là từ nay đến
cuối năm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho những năm tiếp theo,
đảm bảo an sinh xã hội. Và trong việc ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, Thủ tướng đã
chỉ đạo, với mặt hàng xăng dầu, trong bất cứ thời điểm nào, địa điểm nào cũng phải đảm
bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp có diễn biến bất thường, Chính phủ sẽ
nghiên cứu biện pháp hợp lý để giải quyết Điều này cho thấy Chính phủ luôn xác định
ưu tiên chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu, nhất là đối với xăng dầu – mặt hàng thiết
yếu hàng đầu của nền kinh tế.
Cùng với các giải pháp từ Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bình ổn giá,
nhất là với các mặt hàng thiết yếu, sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm
phát, phát triển kinh tế bền vững.
5. Chính sách tỷ giá hối đoái và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm phát:
Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã không thành công và gây nên
nhiều biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để điều trị
phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Và tỷ giá hối đoái là công cụ mà chúng ta
cần phải xem xét tới để thay đổi sau một thời gian dài phục vụ cho tăng trưởng kinh
tế. Theo phân tích của IMF, một trong những lí do khiến lạm phát ở Trung Quốc,
Malaysia, Thái Lan được duy trì ở mức tương đối thấp là nằm ở chính sách tỷ giá
hối đoái Việt Nam đã cố gắng duy trì một đồng tiền yếu trong những năm trước đây
để hỗ trợ cho xuất khẩu, phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước
nhưng nếu tiếp tục duy trì chính sách này trong khi tình hình kinh tế đã thay đổi liệu
có còn phù hợp. Việc cố gắng giữ chân” tỷ giá hối đoái trong giai đoạn lạm phát ở
mức cao hiện nay dường như trở thành một bài toán khó tìm lời giải với quá trình
điều tiết nền kinh tế. Nói vậy thì việc giảm tỷ giá hối đoái theo sát với thị trường
hợm liệu có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế hiện nay? lOMoAR cPSD| 46988474
Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì cái lợi đầu tiên là chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên, nhiên
liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả hàng hóa trong nước giảm.
Cái lợi thứ hai là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền
kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát.
Nhưng có một hệ quả kèm theo là khi đó người dân sẽ không nắm giữ USD, do VND
đang tăng giá nên họ sẽ chuyển đổi USD sang nắm giữ VND. Các ngân hàng sẽ phải
tăng lượng VND để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi USD của người dân trong khi nhu cầu
VND của chính ngân hàng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Việc này trước hết sẽ gây
bất ổn trong tâm lý thị trường vốn đã không thực sự ổn định, kế đến là ảnh hưởng đến
tính thanh khoản của ngân hàng cùng với áp lực tăng lượng cung tiền trong lưu thông.
Như vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đoái không thôi là chưa đủ. Chúng ta cần phải thúc đẩy
các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ
giá hối đoái. Xét trong tình hình kinh tế như hiện nay, thị trường chứng khoán chưa có
tín hiệu khởi sắc tốt; kinh doanh bất động sản đang được kiểm chế dần; lạm phát tăng
cao khó có thể đo lường được khiến đồng tiền trở nên mất giá, ngay cả các ngân hàng
cũng huy động vốn với lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn (trước khi Ngân Hàng Trung
ương qui định mức lãi suất trần 12%) đề phòng ngừa rủi ro; trong khi giá vàng đang tăng.
Biện pháp kiềm chế lạm phát trong năm 2022:
Năm 2022, các tổ chức quốc tế dự báo CPI của Việt Nam tăng khoảng 3,5-4%; rủi ro
vượt 4% phụ thuộc vào giá cả hàng hóa thế giới. Để giúp kiềm chế lạm phát tăng cao
trong năm 2022, theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, cần nâng cao hiệu quả trong
phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ trong điều hành cung tiền, lãi suất, trung hòa
lượng tiền vào-ra, điều tiết giá cả.
Về quản lý, điều hành giá các mặt hàng thiết yếu, các bộ, ngành cần tiếp tục điều hành
giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến
giá thành phẩm xăng dầu thế giới. Nâng cao hiệu quả thực hiện các gói hỗ trợ người dân
và doanh nghiệp, các gói kích cầu và cung, từ đó nắn dòng tiền vào những lĩnh vực có lOMoAR cPSD| 46988474
triển vọng phục hồi mạnh và tính lan tỏa cao, góp phần tăng vòng quay tiền trong nền
kinh tế thực, phục hồi kinh tế tốt hơn.
Cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư-kinh doanh; chú trọng phát triển kinh
tế-xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, từ đó giảm áp lực lạm phát.
Theo PGS, TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cấp cao Học viện Tài chính, cần phải tiếp
tục đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch Covid-19. Đây sẽ là tiền đề tốt cho ổn định
sản xuất, ổn định thị trường, bình ổn giá cả các mặt hàng.
Trong năm 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu
và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình
thức, phương thức huy động vay nợ công để vừa bảo đảm kích thích nền kinh tế phục
hồi và phát triển nhanh chóng, vừa bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay, bảo đảm khả
năng trả nợ vay và sự ổn định, phát triển trong dài hạn của nền kinh tế.
Để có biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp, kiểm soát lạm phát, Phó thủ tướng
Chính phủ Lê Minh Khái, Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá đã yêu cầu các bộ, ngành
liên quan và địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng
quan trọng, thiết yếu để có biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp; tiếp tục chủ động
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và lưu thông phân phối hàng hóa; đáp ứng
kịp thời nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Liên quan tới mặt hàng xăng dầu, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương tiếp tục phối
hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá xăng dầu
trong nước phản ánh, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới, sử dụng hợp
lý Quỹ Bình ổn giá xăng dầu với liều lượng thích hợp, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ
trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân, ổn định
của thị trường, cung cầu xăng dầu trong nước.
Để giúp kiềm chế lạm phát tăng cao trong năm 2022, Tổng cục Thống kê cho rằng,
Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát
trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt
Nam. Đặc biệt, cần đánh giá, nhận định các mặt hàng, nguyên vật liệu nào có khả năng
thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn để từ đó đưa ra được chính sách phù hợp. Bên cạnh
đó, theo dõi sát diễn biến giá của các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm,