lOMoARcPSD| 58457166
LỜI CẢM ƠN
Vừa kết thúc trung học phổ thông, em đã được đặt chân đến một hành trình mới
đó là cánh cửa đại học. Qua một môi trường mới, em hồi hộp có, lo sợ có, e
có.Thế nhưng,em luôn cố gắng hết mình để có thể bước ra khỏi sự tiêu cực của
chính bản thân em tạo nên. Việc lên đại học gặp nhiều Thầy Cô, bạn bè và học
hỏi những môn học thú vị làmem trở nên hào hứng và thích thú hơn. Môn cơ sở
văn hoá Việt Nam là một trong những bộ môn đầu tiên em được va chạm khi
vừa bắt đầu ngưỡng cửa đại học của mình. Có thể nói, với em, đây là một môn
vô cùng thú vị. Là một người con mang dòng máu Việt, em vô cùng tự hào bởi
sự đa dạng về nhiều khía cạnh, bề dày lịch sử cũng như con người và những nét
độc đáo trên mảnh đất Việt Nam. Những gì tự chính em tìm hiểu thôi là chưa
đủ, em cám ơn cô Lê Thị Hồng Dung (giảng viên hướng dẫn) đã đồng hành
cùng em trong suốt tám buổi học qua để học hỏi một cách chi tiết và cặn kẽ hơn
về văn hoá Việt Nam. Với em, cô là một giảng viên thân thiện, tận tình và luôn
tôn trọng ý kiến của mọi người. Qua mỗi bài giảng, cô đều đóng góp ý kiến đ
chúng em có cơ hội chỉnh sửa lại bài cho hoàn chỉnh. Theo em, đó không chỉ là
tạo điều kiện để điểm số được cải thiện mà quan trọng hơn hết chính là lượng
kiến thức mà cô muốn chúng em tiếp thu được, hiểu rõ hơn về đất nước mà
chính chúng em đang sinh sống. Một lần nữa, em cám ơn cô vì đã đồng hành
cùng lớp, dạy bảo và truyền tải nhiều kiến thức bổ ích. Kể cả bài tiểu luận cuối
kỳ này, cô cũng đã hướng dẫn chúng em cặn kẽ từ việc lập dàn bài như nào, nội
dung ra sao và cả việc lựa chọn chủ đề. Bản thân em vô cùng biết ơn thời gian
qua cô đã đồng hành cùng lớp và hy vọng em sẽ lại được cô làm giáo viên
hướng dẫn ở những bộ môn sau này. Em xin chân thành cám cơn Cô!
MỞ ĐẦU
Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Qua khái niệm trên, có thể thấy
lOMoARcPSD| 58457166
Việt Nam là một quốc gia hội tụ đa nền văn hoá bởi sự chạm khắc của dòng thời
gian. Bên cạnh đó, việc người dân Việt Nam gắn bó song hành cùng bề dày lịch
sử đã tạo nên nhiều điểm khác biệt trong các lĩnh vực. Con người sống trong
quan hệ chặt chẽ với tự nhiên - cách thức ứng xử với tự nhiên là thành tố quan
trọng thứ ba của mỗi hệ thống văn hoá. Trong văn hoá ứng xử với môi trường tự
nhiên, điều gì gây hại cho con người thì phải ra sức ứng phó. Chính vì thế, văn
hoá trang phục dần được hình thành để ứng phó lại sự khắc nghiệt của thời tiết,
khí hậu. Cùng với sự sáng tạo của con người, từ thuở sơ khai họ dùng những vật
liệu đơn giản, sẵn có để làm nên những bộ trang phục. Theo thời gian, chất liệu
cũng dần được cải tiến, người dân làm nên những bộ đồ trông cầu kỳ, chỉn chu
và thời thượng hơn. Trang phục hiện nay không chỉ nói về vải vóc, lụa là mà
bên cạnh đó còn là những bộ phụ kiện đi kèm như: túi xách, khuyên tai, vòng
cổ... Mỗi dân tộc Việt Nam đều xây dựng một lối ăn mặc và trang sức riêng.
vậy, trang phục hiện nay đã trở thành biểu tượng riêng của văn hoá dân tộc. Sau
ăn, việc mặc vô cùng quan trọng với con người. Như đã đề cập, nó giúp con
người có thể ứng phó được với thời tiết, khí hậu khắc nghiệt. Dân gian Việt
Nam ta có câu “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền”. Câu tục ngữ ấy thể hiện được sự
thiết thực, không những ăn uống mà còn cả về mặt trang phục. Ngoài việc ứng
phó với môi trường, trang phục còn mang ý nghĩa xã hội rất quan trọng. Là con
người ai cũng khao khát và mong muốn cái đẹp, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Chính câu “Người đẹp vì lụa” cũng đã đề cập đến đôi nét. Người ấy có đẹp hay
không cũng phụ thuộc phần lớn vào trang phục và đó là lý do vì sao văn hoá
trang phục được hình thành. Ngoài ra, trang phục còn điều chỉnh được
nhữngnhược điểm trên cơ thể cũng như là tuổi tác của chúng ta. Hẳn trang phục
là một đề tài thú vị bởi nó đóng vai trò làm một người ứng phó và luôn đem lại
lợi ích cho con người. Trải qua từng thời kỳ, con người sẽ có nét văn hoá trang
phục khác nhau. Mỗi giai đoạn là một câu chuyện, và trang phục là một phần
làm nên câu chuyện ấy. Nhờ vào sự gắn bó lâu dài với con người, ngày qua
ngày trang phục càng tạo nên những nét riêng, nét đặc sắc của chúng. Là một
lOMoARcPSD| 58457166
người yêu thích về thời trang, tôi luôn tìm tòi để hiểu rõ hơn về thời trang của
nước nhà trong từng giai đoạn lịch sử bởi sự phong phú và đa dạng của chúng.
Đó cũng chính là lý do vì sao tôi lựa chọn văn hoá trang phục qua từng thời kỳ
của người Việt Nam làm đề tài cho tiểu luận này.
lOMoARcPSD| 58457166
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA TRANG PHỤC
1.1. Khái niệm chung về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm trí tuệ của con người, bắt nguồn từ quá trình tương
tác giữa con người các yếu tố xung quanh. Những phát minh này được
truyền qua nhiều thế hệ, đồng thời được tái tạo điều chỉnh phù hợp với
thời đại, cuộc sống con người.
1.2. Khái niệm về văn hóa trang phục
- Trang phục : những đồ vật được mặc trên thể người. Thông
thường, quần áo được làm từ vải hoặc vải dệt, nhưng theo thời gian,
quần áo bắt đầu được làm từ da động vật và các loại vật liệu lát mảnh
khác và các sản phẩm tự nhiên được tìm thấy trong môi trường, ghép
lại với nhau. Mặc quần áo hầu hết chỉ dành cho con người một
đặc điểm của tất cả các hội loài người. Số lượng loại quần áo
mặc phụ thuộc vào giới tính, kiểu thể, các yếu tố xã hội địa lý.
Quần áo che thân, giày dép che chân, găng tay che tay, đồ đội
đầu che đầu. Kính mắt và đồ trang sức thường không được coi là quần
áo, nhưng đóng một vai trò quan trọng trong thời trang để làm phục
trang.
- Văn hóa trang phục : kết quả của hoạt động sống và sáng tạo của
con người, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên hội, qua
đó thể hiện bản sắc dân tộc rõ nét, là bức tranh văn hoá xã hội địa
rộng lớn của người dân tứ xứ tụ họp về một vùng đất bao dung trù phú.
lOMoARcPSD| 58457166
CHƯƠNG 2. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM QUA
TỪNG THỜI KÌ
2.1. Chất liệu may mặc
2.1.1. Vải tơ tằm
Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo
cổ thuộc hậu kì đá mới cách nay khoảng 5.000 năm (như Bàu Tró), đã thấy có
dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang
là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam.
Người Hán từ xưa cũng đã luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn
hóa phương Nam. Để có được năng suất cao, tổ tiên ta đã lai tạo ra được nhiều
giống tằm khác nhau phù hợp với các loại thời tiết nóng, lạnh, khô, ẩm. Từ tơ
tằm, nhân dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất phong phú: tơ, lụa, lượt, là,
gấm, vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, đũi, địa, nái, sồi, thao, vân,… mỗi loại lại có
hàng mấy chục mẫu mã khác nhau.
2.1.2. Vải tơ chuối
Ngoài tơ tằm, nghề dệt truyền thống của ta còn sử dụng chất liệu thực vật đặc
thù khác như tơ chuối. Vải tơ chuối là một mặt hàng đặc sản của Việt Nam mà
đến thê tỉ VI, kĩ thuật này đã đạt đến trình độ cao và được người Trung Quốc rất
thích, họ gọi vải này là “vải Giao Chỉ”. Sách Nam phương dị vật chí viết: “ph
nữ lấy tơ chuối dệt thành hai loại vải hi và khích, đều là vải Giao Chỉ (Giao Chỉ
cát)”. Sách Quảng chí chép: “Thân chuối xé ra như tơ, đem dệt thành vải… Vải
ấy dễ rách nhưng đẹp, màu vàng nhạt, sản xuất ở Giao Chỉ”. Cho đến tận thế kỉ
XVIII, loại vải này vẫn rất được ưa chuộng, Cao Hùng Trưng trong sách An
Nam chí nguyên còn ca ngợi: “Loại vải này mịn như lượt là, mặc vào mùa nực
thì hợp lắm”.
2.2.3 Vải bông (vải cotton)
Vải bông xuất hiện từ các thế kỉ đầu Công Nguyên và được người dân Trung
Hoa gọi là vải Cát Bối. Sở dĩ Cát Bối vốn là tên một loài cây, hoa nở giống như
lOMoARcPSD| 58457166
lông ngỗng nên được rút lấy sợi để dệt thành vải trắng. Chính vì có độ bền cao,
giá thành phải chăm, thấm hút mồ hôi tốt mà vải bông vẫn còn được lưu truyền
tới tận bây giờ. Hiện nay, mọi người đa số gọi là vải cotton, là chất liệu được
dùng phổ biến nhất trong may mặc.
2.2. Trang phục Việt Nam qua các thời kì
2.2.1. Lịch sử trang phục thời Hùng Vương
Cách đây hơn hai nghìn năm, khi nhà nước Văn Lang vừa mới ra đời, cuộc
sống của người Việt cổ bắt đầu trải qua những biến đổi đáng kể. Họ chuyển từ
cuộc sống săn bắt và hái lượm sang nông nghiệp, đánh dấu bước đầu tiên trong
việc phát triển nền nông nghiệp của đất nước. Thời kỳ này, việc sử dụng vỏ cây
để làm trang phục dần thay thế bởi việc trồng và thu hoạch cây đay, gai, và dâu
tằm để dệt vải. Dù kỹ thuật dệt vẫn còn thô sơ, nhưng việc sáng tạo trang phục
đã bắt đầu. Thông qua các dấu vết lịch sử như cán dao găm và mặt trống đồng,
chúng ta có cái nhìn tổng quan về trang phục Việt Nam thời Hùng Vương như
sau .
a, Trang phục nữ giới
Phụ nữ thời Hùng Vương thường mặ áo ngắn đến bụng, хẻ ngự , ѕát ào
người, phía trong mặ уếm kín ngự ó tròn ѕát ổ, trang trí thêm hình
những tấm hạt gạo. Cũng ó những loại áo ánh ngắn, uông, để hở một
phần ai à ngự hoặ kín ngự , hở một phần ai à trên lưng. Hai loại ѕau óᴄ ᴄ
ᴠ ᴄ thể là loại mặ hui đầu haу ài khuу bên trái. Trên áo đều ó hoa ăn trang trí.ᴄᴄ
ᴄ ᴠ Thắt lưng ó ba hàng hấm trang trí á h đều nhau quấn ngang bụng...Nhữngᴄ ᴄ
ᴄ ᴄ hoa ăn trên mặt trống đồng haу hình khắ trên án dao bằng đồng ó từ thời kỳ
ᴄ ᴄnàу ho thу phụ trang Việt đã đượ định hình rất rõ nét. Đâу ũng hính làᴄ ᴄ
ᴄ ᴄ ᴄăn nguуên ho bản ѕắ ăn hóa thể hiện trong у phụ truуền thống ủa ngườiᴄᴠ
ᴄ ᴄ Việt Nam hiện naу.
b, Trang phục nam giới
lOMoARcPSD| 58457166
Không cầu kỳ như phụ nữ, nam giới ở thời kỳ này chuộng việc cởi trần, vì hoạt
động chính của họ là lao động. Phía dưới sẽ mặc một chiếc khố. Giới thiệu sơ
nét, khố là mảnh vải dài quấn nhiều vòng quanh bụng từ trước ra sau. Với công
dụng để che chắn bộ phận sinh dục, khố còn tạo sự mát mẻ, thoáng và dễ chịu
cho người mặc, phù hợp với thời tiết nóng bức và dễ dàng lao động.
c, Trang sức
Trang sức luôn được người Việt ưa chuộng, nhất là các loại vòng. Vòng tai,
vòng cổ, vòng tay, vòng chân luôn được người dân sử dụng trong các dịp lễ hội.
Việc đeo vòng tai nặng đã làm trễ dái tai xuống, dẫn đến tục căng tai. Đối với
người dân Tây Nguyên, căng tai là biểu hiện của những người phụ nữ cần cù,
siêng năng và chịu khó.
2.2.2. Trang phục triều đại nhà Lý
Nhà Lý là triều đại có quá trình hình thành và phát triển phồn vinh nhất trong
thời kỳ phong kiến của đất nước ta. Tuy nằm trong giai đoạn chịu ảnh hưởng
bởi một nghìn năm đô hộ của Trung Hoa, thế nhưng nhân dân ta vẫn kiên
cường, thể hiện rõ ý chí yêu nước, tinh thần chống giặc từ việc sử dụng vải dệt
qua việc sử dụng vải dệt từ Đại Việt may cổ phục chứ quyết không dùng gấm
vóc của nhà Tống. Có thể nói, văn hóa trang phục là một phần tất yếu của cuộc
sống. Chính vì vậy, vào thời này, nhà Vua đã đề ra những quy định nghiêm ngặt
về trang phục.
a, Trang phục dành cho thường dân
Thời đại này đã bắt đầu xuất hiện hình ảnh áo dài. Nam giới sẽ khoác lên mình
chiếc áo dài năm thân, được phủ lá sen lớn lót phía sau vòng ra phía trước. Khác
với nữ giới, phần cổ áo của nam giới sẽ cao gấp đôi và không hở cổ. Ái năm
thân thường là áo the đen mặc kép với áo vải quyến màu trắng. Với các tăng
nhân Phật Giáo, thường họ sẽ mặc áo thụng (một loại áo vừa dài vừa rộng).
Thường vào các dịp thực hiện nghi lễ tế thần, thì nam nhân sẽ mặc bộ áo ấy với
các màu cơ bản như xanh chàm, nâu, đen. Tương tự như nam giới, phụ nữ thời
lOMoARcPSD| 58457166
Lý mặc áo dài màu đen hoặc nâu sẫm và phủ ra ngoài áo cánh lửng. Khác với
nam giới, nữ tượng trưng cho phái đẹp nên luôn có nhiều sự lựa chọn hơn. Thời
Lý chia làm ba kiểu áo. Trước hết, chúng ta điểm sơ lược qua áo dài tứ thân.
Thân trước có hai vạt mở giữa, khi mặc sẽ thắt hai vạt trước tết nút và phần vạt
còn lại bỏ thõng xuống. Tiếp theo, áo dài năm thân có cấu trúc gần như là tương
đồng với trang phục của nam giới, có nguồn gốc từ phương Bắc và cắt ghép
bằng năm thân vải. Khác với nam giới, cổ áo của nữ sẽ thấp hơn một nửa so với
trang phục nam. Cuối cùng, chúng ta đề cập đến áo tràng vạt. Đây là loại trang
phục thường được sử dụng trong các dịp đi lễ chùa và có cổ áo rộng, tay hẹp. b,
Trang phục dành cho quý tộc
Tuy vẫn là chiếc áo dài năm thân, nhưng tầng lớp quý tộc sẽ được mặc bởi
những chất liệu cao cấp hơn, chẳng hạn như gấm, vóc… Bên cạnh đó, họ
thường mặc kèm với một chiếc áo lót bằng lụa màu mỏng. Với triều đình, Vua
Lý thời ấy đã chủ trương sử dụng gấm vóc Đại Việt để may lễ phục (long bào),
đi kèm với đó là những đường nét hoa văn từ rồng, phượng. Đây là những thần
vật tượng trưng cho sự uy quyền, đó cũng chính là lý do vì sao chúng được
chạm khắc trên áo nhà Vua. Với các quan, từ ngũ phẩm trở lên mặc áo bào bằng
gấm và từ cửu phẩm trở lên mặc áo bào bằng vóc. Tất cả chất liệu để làm nên
trang phục của quan được lấy từ số gấm vóc còn lại của nhà Tống. Gắn liền với
trang phục thời này đó chính là những đường nét hoa văn. Không chỉ mang yếu
tố nghệ thuật, mỗi đường nét lại còn tồn tại từng ý nghĩa đặc trưng khác nhau,
tạo nên một nét riêng biệt cho văn hóa trang phục thời Lý.
c, Trang sức
- Mũ Quyển Vân: Là loại mũ màu đen, có phần vành được trang trí bằng
các hạtngọc, chính giữa đính miếng trang sức hình lá đề, chạy dọc thân mũ là
các viền trang trí màu trắng, hai bên thái dương có gắn miếng vải màu đen, dây
thao cùng màu và to bản, chop mũ uốn cong về phía sau.
lOMoARcPSD| 58457166
- Với vũ nữ: là giai đoạn phục hưng của nền văn hóa Việt cổ bản địa, nhà
Lý đã cho du nhập đa dạng các loại trang sức. Riêng với các vũ nữ, Vua nghiêm
ngặt quy định kiểu tóc búi cao lên đỉnh đầu, trên trán có một điểm trang trí, mái
tóc điểm những bông hoa, tay đeo vòng, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngắn
có nhiều nếp.
- Với nhạc công: để nhận biết tính chất công việc, nhạc công phải trùm mũ
kín tóc, phía trên mũ được làm cao lên và có các diềm uốn lượn.
- Với các quan lại khi chầu Vua: vào thời bấy giờ, Vua là người trị vì cả
một nước. Chính vì thế, nhà Lý luôn khắt khe vấn đề trang phục trước khi vào
chầu Vua. Quan lại phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu. Đây là điều chưa từng
xuất hiện ở thời kỳ Hùng Vương và từ đây, văn hóa trang phục này đã trở thành
một tục lệ bắt buộc cho đến những đời sau.
2.2.3. Trang phục triều đại nhà Trần
Nhà Trần – một thời kỳ gắn liền với kỳ tích vĩ đại, đánh bại liên tiếp ba lần quân
Mông – Nguyên. Cuộc chiến ấy gay go và kéo dài xuyên suốt cả một triều đại.
Chính vì lẽ đó, nhà Trần không quá chú trọng về trang phục. Tối giản, nhanh
gọn là những gì họ muốn hướng tới bởi mục đích cuối vãn là đi chống giặc, thế
nên nhân dân không dành nhiều thời gian cho trang phục vào giai đoạn này. a,
Trang phục dành cho thường dân
Giao Lĩnh là một loại áo đã được xuất hiện từ thời Lý, với hình thức là hai vạt
áo chéo nhau kết hợp với phần tay đượcmay dài và rộng gợi nên cảm giác mạnh
mẽ, khí chất dân tộc. Tương tự như nam giới, phụ nữ thời Trần cũng ưu tiên
việc diện áo tứ thân đi kèm váy. b, Trang phục dành cho quý tộc
Cổn Miện vẫn được xem là lễ phục của hoàng đế thời Trần. Bên cạnh đó, nhà
Vua gồm bốn loại mũ trong bộ trang phục của mình, lần lượt là: Mũ Miện, Mũ
Thông Thiên, Mũ Phù Dung và Mũ Phốc Đầu. Mũ Thông Thiên là một phần
của bộ trang phục Quyển Vân. Vào dịp Tết Nguyên Đán hay cày ruộng tịch
điền, nhà Vua sẽ lựa chọn bộ trang phục này và đây cũng là bộ phục được lưu
lOMoARcPSD| 58457166
truyền từ thời nhà Lý. Về Mũ Phù Dung, đây được xem là thường phục của n
Vua, được sử dụng trong các buổi thường triều, có dáng vẻ tựa hoa phù dung
hoặc hoa sen. Vào ngày thường, Vua luôn ưu tiên sử dụng Mũ Phóc Đầu, đây là
loại mũ mềm với hai cánh chuồn buông thõng xuống.
c, trang sức
Là thời đại luôn hết mình vì đất nước, để thể hiện lòng yêu nước của mình, dân
nhân thời Trần đã tái hiện lại tục xăm mình với dòng chữ “Nghĩa dĩ quyên khu,
hình vu báo quốc” để thể hiện tinh thần đền ơn báo nước cũng như nói lên quan
điểm thẩm mỹ của họ.
2.2.4. Trang phục triều đại Hậu Lê
Thời Hậu Lê đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và văn hóa Việt
Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cổ phục Việt Nam.
Trong giai đoạn này, không chỉ trang phục mà cả phụ kiện như mũ nón và giày
dép cũng được bổ sung vào trang phục để tạo nên sự trang trọng và phong cách
riêng biệt.
Nghề dệt cũng trở nên phát triển mạnh mẽ, vừa tiếp thu các kỹ thuật dệt hiện đại
từ phương Bắc, vừa duy trì những truyền thống để sản xuất ra nhiều sản phẩm
đẹp mắt. Lụa và vải vóc không chỉ được sử dụng để may trang phục, mà còn
được sử dụng như quà biếu trong các hoạt động ngoại giao.
Cổ phục của nhân dân thời Hậu Lê vẫn giữ nguyên kiểu áo Giao Lĩnh với tràng
vạt quen thuộc, nhưng có sự bổ sung đáng chú ý. Ngoài áo trực lĩnh, trang phục
thời Hậu Lê còn sử dụng đai quấn bên ngoài, tạo nên một diện mạo khá giống
với kiểu áo Kimono của Nhật Bản.
Mặc dù cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn đã chia đôi Đại Việt thành hai Đàng,
nhưng cách ăn mặc vẫn có nhiều điểm tương đồng. Nam giới ở Đàng Trong
(Gia Định) thường đóng khố ở trong và khoác áo trực lĩnh ở ngoài.
lOMoARcPSD| 58457166
Phụ nữ vẫn mặc áo yếm, khoác áo cánh cộc tay khi lao động và sử dụng áo dài
tứ thân khi có dịp trang trọng. Điều này thể hiện sự duy trì của truyền thống
trong trang phục và cách mặc của người Việt thời kỳ Hậu Lê.
2.2.5 Trang phục triều đại nhà Lê
Có thể nói thời kỳ nhà Lê thời kỳ thăng hoa ủa trang phụ phụ nữ Việt Nam
khi giai đoạn nàу хuất hiện rất nhiều kiểu dáng à thiết kế ô ùng đa dạng. ᴠ ᴠ ᴄ
Nhưng nhìn hung á trang phụ thời nhà Lê đều ó thiết kế khá ầu kỳ ới ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ
nhiều lớp áo hoàng, màu ѕắ bắt mắt. Chịu ảnh hưởng nhiều từ ăn hóa Trung
ᴄ ᴠ Hoa nên á trang phụ truуền thống thời kỳ nhà Lê hưa thoát khỏi ái bóng
ᴄ ᴄᴄ ᴠủa ùng đất hùng mạnh nàу. Trang phụ ủa phụ nữ Việtthời Lê ó nhiều nét
ᴄᴄ giống ới kiểu áo hoàng Hanfu ủa Trung Quốᴄᴠới phần ng taу rộng,
hiế thắt lưng to ngang eo đượ dùng để định bộ áo hoàng у lại. Chính ì
ảnh ᴄ ᴄ hưởng bởi ăn hóa Trung Hoa mà bộ trang phụ nàу không đượ nhiều
người ᴠ ᴄ ᴄ hưởng ứng.
2.2.6 Trang phục triều đại nhà Nguyễn
Đời ѕống хã hội trong thời kỳ nàу ó ảnh hưởng không nhỏ đến trang phụ ủa ᴄᴄ
người dân. Nếu như trang phụ ủa tầng lớp thống trị ngàу àng bị “pha tạp” ᴄᴄ
theo lối đua đòi ải á h nửa mùa, ttrong хã hội, những phụ trang truуền
thống như áo dài, áo уếm, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai thao… đã trở
thành hơi thở à là kết tinh ăn hóa ủa ả dân tộ . Trong khi hiế уếm đào ᴠ ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ
ᴄ ᴠượt khỏi hốn ung đình để ùng ngườiphụ nữ ần lao “dầm mưa dãi nắng” ᴄ ᴄ ᴄ
ngoài đồng ruộng, haу ùngáo tứ thân lượt trong những buổi hội Lim, thì thời
trang phương Tâу ới những hiế áу хòe, những hiế đầm á h tân hiện đại ᴄᴠ
ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄũng dần du nhập à đượ phụ nữquý tộ trẻ ưa huộng, trong đó Hoàng hậu
ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ Nam Phương – ị hoàng hậu uối ùng ủa triều đại phong kiến Việt Nam, là
ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ người rất thí h mặ trang phụ Tâу phương à mặ rất đẹpᴄ ᴄ ᴄ ᴠ ᴄ .
lOMoARcPSD| 58457166
2.2.7 Trang phục từ giữa thế kỉ 20 đến nay
Đến thế kỷ 19, 20, áo dài bắt đầu trở thành thứ trang phụ không thể thiếu trong
đời ѕống хã hội Việt, từ á bà hoàng, ông húa trong hoàng ung ới á kiểuᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ
ᴄ ᴄ áo dài đượ maу trang trọng, quý phái bằng hất liệu gấm, thêu hỉ àng… đến
ᴄ ᴄ ᴠ ᴄ ᴄá bà, á ô ận áo dài đến trường, đến ông ѕở, ra hợ, dạo phố. Một thời ᴄᴄ
gian dài trong thế kỷ 19-20, áo dài đã trở thành một loại thường phụ đượ
nam phụ lão ấu trên đất Việt уêu huộng. Trải qua nhiều biến động lị h ѕử, ùng
ới ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ ѕự du nhập ủa khuуnh hướng thời trang phương Tâу, áo dài đã ó nhiều
ải ᴄ ᴄ tiến theo từng trào lưu nhất định. Tuу nhiên, dù ở bất kỳ trào lưu ải á h
nào, ᴄ ᴄ từ áo dài Le Mur, áo maу dạng hít eo haу ổ thuуền theo “mốt” Trần Lệ
Xuân đến á loại áo dài ạt dài ѕát đất nhiện naу, áo dài ẫn hứng tỏ khả năng
ᴄ ᴄ ᴠ ᴠ ᴄ bất biến mà không phải loại trang phụ nào ũng làm đượ : đó là tôn lên ó
ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ ᴄ dáng à nét đẹp quуến rũ dịu dàng ho người phụ nữ.
lOMoARcPSD| 58457166
KẾT LUẬN
Như vậy, sau gần hơn hai mươi thế kỷ trôi qua, văn hóa trang phục Việt Nam đã
có nhiều sự thay đổi rõ rệt. Thuở đầu, trang phục được tạo ra nhằm mục đích
che chắn những vị trí cần thiết và bảo vệ sức khỏe trước thời tiết khắc nghiệt.
Về sau, trang phục không chỉ dừng lại đó, chúng còn được xem như là vật để
làm đẹp. Dân gian ta có câu “Người đẹp vì lụa” và hẳn là như vậy, con người sẽ
trở nên tự tin hơn nếu được khoác lên mình những bộ trang phục lộng lẫy. Nếu
ban đầu trang phục đậm nét dấu ấn Việt Nam thì ngày nay, văn hóa trang phục
của người Việt dần bị “lai” sang phong cách của nhiều nước trên thế giới do sự
đô hộ và học hỏi, tiếp thu kiến thức trang phục từ nhiều quốc gia. Ngoài ra, bên
cạnh các mảnh vải dùng để che chắn thân, nhân dân còn sáng tạo thêm nhiều
loại trang sức cũng như giày dép để tôn dáng và che đi được khuyết điểm của
bản thân. Cũng nhờ vậy, Việt Nam hội tụ được đa dạng các phong cách trang
phục và từ đó, nhân dân có nhiều sự lựa chọn để làm đẹp cho bản thân.
lOMoARcPSD| 58457166
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Ngọc Thêm – Cơ sở văn hóa Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục
[2] https://www.studocu.com/vn/document/hong-bang-international-
university [3] https://lrocrevn.com/
[4] https://yody.vn/
lOMoARcPSD| 58457166
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN …………………………………………………………..…..1
MỞ ĐẦU….…………………………………………………………….......2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA TRANG PHỤC
1.1. Khái niệm chung về văn hóa……………………………………………4
1.2. Khái niệm về văn hóa trang phục……………………………………….4
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TRANG PHỤC VIỆT NAM QUA
TỪNG THỜI KỲ
2.1. Chất liệu may mặc……………………………………………………….4
2.2. Trang phục Việt nam qua các thời kì ……………………………………5
2.2.1 Lịch sử trang phục thời Hùng Vương………………………..…………6
2.2.2. Trang phục triều đại nhà Lý………………………….………………..7
2.2.3. Trang phục triều đại nhà Trần…………...…………….………………9
2.2.4. Trang phục triều đại nhà Hậu Lê……………………...……………...10
2.2.5. Trang phục triều đại nhà Lê…….…………………..………………...11
2.2.6. Trang phục triều đại nhà Nguyễn ………………………….…...……11
2.2.6. Trang phục từ giữa thế kỉ 20 đến nay…..………….………………....11
KẾT LUẬN………………………………………………………………….13
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………….…………………………………..14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58457166 LỜI CẢM ƠN
Vừa kết thúc trung học phổ thông, em đã được đặt chân đến một hành trình mới
đó là cánh cửa đại học. Qua một môi trường mới, em hồi hộp có, lo sợ có, e dè
có.Thế nhưng,em luôn cố gắng hết mình để có thể bước ra khỏi sự tiêu cực của
chính bản thân em tạo nên. Việc lên đại học gặp nhiều Thầy Cô, bạn bè và học
hỏi những môn học thú vị làmem trở nên hào hứng và thích thú hơn. Môn cơ sở
văn hoá Việt Nam là một trong những bộ môn đầu tiên em được va chạm khi
vừa bắt đầu ngưỡng cửa đại học của mình. Có thể nói, với em, đây là một môn
vô cùng thú vị. Là một người con mang dòng máu Việt, em vô cùng tự hào bởi
sự đa dạng về nhiều khía cạnh, bề dày lịch sử cũng như con người và những nét
độc đáo trên mảnh đất Việt Nam. Những gì tự chính em tìm hiểu thôi là chưa
đủ, em cám ơn cô Lê Thị Hồng Dung (giảng viên hướng dẫn) đã đồng hành
cùng em trong suốt tám buổi học qua để học hỏi một cách chi tiết và cặn kẽ hơn
về văn hoá Việt Nam. Với em, cô là một giảng viên thân thiện, tận tình và luôn
tôn trọng ý kiến của mọi người. Qua mỗi bài giảng, cô đều đóng góp ý kiến để
chúng em có cơ hội chỉnh sửa lại bài cho hoàn chỉnh. Theo em, đó không chỉ là
tạo điều kiện để điểm số được cải thiện mà quan trọng hơn hết chính là lượng
kiến thức mà cô muốn chúng em tiếp thu được, hiểu rõ hơn về đất nước mà
chính chúng em đang sinh sống. Một lần nữa, em cám ơn cô vì đã đồng hành
cùng lớp, dạy bảo và truyền tải nhiều kiến thức bổ ích. Kể cả bài tiểu luận cuối
kỳ này, cô cũng đã hướng dẫn chúng em cặn kẽ từ việc lập dàn bài như nào, nội
dung ra sao và cả việc lựa chọn chủ đề. Bản thân em vô cùng biết ơn thời gian
qua cô đã đồng hành cùng lớp và hy vọng em sẽ lại được cô làm giáo viên
hướng dẫn ở những bộ môn sau này. Em xin chân thành cám cơn Cô! MỞ ĐẦU
Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Qua khái niệm trên, có thể thấy lOMoAR cPSD| 58457166
Việt Nam là một quốc gia hội tụ đa nền văn hoá bởi sự chạm khắc của dòng thời
gian. Bên cạnh đó, việc người dân Việt Nam gắn bó song hành cùng bề dày lịch
sử đã tạo nên nhiều điểm khác biệt trong các lĩnh vực. Con người sống trong
quan hệ chặt chẽ với tự nhiên - cách thức ứng xử với tự nhiên là thành tố quan
trọng thứ ba của mỗi hệ thống văn hoá. Trong văn hoá ứng xử với môi trường tự
nhiên, điều gì gây hại cho con người thì phải ra sức ứng phó. Chính vì thế, văn
hoá trang phục dần được hình thành để ứng phó lại sự khắc nghiệt của thời tiết,
khí hậu. Cùng với sự sáng tạo của con người, từ thuở sơ khai họ dùng những vật
liệu đơn giản, sẵn có để làm nên những bộ trang phục. Theo thời gian, chất liệu
cũng dần được cải tiến, người dân làm nên những bộ đồ trông cầu kỳ, chỉn chu
và thời thượng hơn. Trang phục hiện nay không chỉ nói về vải vóc, lụa là mà
bên cạnh đó còn là những bộ phụ kiện đi kèm như: túi xách, khuyên tai, vòng
cổ... Mỗi dân tộc Việt Nam đều xây dựng một lối ăn mặc và trang sức riêng. Vì
vậy, trang phục hiện nay đã trở thành biểu tượng riêng của văn hoá dân tộc. Sau
ăn, việc mặc vô cùng quan trọng với con người. Như đã đề cập, nó giúp con
người có thể ứng phó được với thời tiết, khí hậu khắc nghiệt. Dân gian Việt
Nam ta có câu “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền”. Câu tục ngữ ấy thể hiện được sự
thiết thực, không những ăn uống mà còn cả về mặt trang phục. Ngoài việc ứng
phó với môi trường, trang phục còn mang ý nghĩa xã hội rất quan trọng. Là con
người ai cũng khao khát và mong muốn cái đẹp, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Chính câu “Người đẹp vì lụa” cũng đã đề cập đến đôi nét. Người ấy có đẹp hay
không cũng phụ thuộc phần lớn vào trang phục và đó là lý do vì sao văn hoá
trang phục được hình thành. Ngoài ra, trang phục còn điều chỉnh được
nhữngnhược điểm trên cơ thể cũng như là tuổi tác của chúng ta. Hẳn trang phục
là một đề tài thú vị bởi nó đóng vai trò làm một người ứng phó và luôn đem lại
lợi ích cho con người. Trải qua từng thời kỳ, con người sẽ có nét văn hoá trang
phục khác nhau. Mỗi giai đoạn là một câu chuyện, và trang phục là một phần
làm nên câu chuyện ấy. Nhờ vào sự gắn bó lâu dài với con người, ngày qua
ngày trang phục càng tạo nên những nét riêng, nét đặc sắc của chúng. Là một lOMoAR cPSD| 58457166
người yêu thích về thời trang, tôi luôn tìm tòi để hiểu rõ hơn về thời trang của
nước nhà trong từng giai đoạn lịch sử bởi sự phong phú và đa dạng của chúng.
Đó cũng chính là lý do vì sao tôi lựa chọn văn hoá trang phục qua từng thời kỳ
của người Việt Nam làm đề tài cho tiểu luận này. lOMoAR cPSD| 58457166 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA TRANG PHỤC 1.1.
Khái niệm chung về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm trí tuệ của con người, bắt nguồn từ quá trình tương
tác giữa con người và các yếu tố xung quanh. Những phát minh này được
truyền qua nhiều thế hệ, đồng thời được tái tạo và điều chỉnh phù hợp với
thời đại, cuộc sống con người. 1.2.
Khái niệm về văn hóa trang phục
- Trang phục : là những đồ vật được mặc trên cơ thể người. Thông
thường, quần áo được làm từ vải hoặc vải dệt, nhưng theo thời gian,
quần áo bắt đầu được làm từ da động vật và các loại vật liệu lát mảnh
khác và các sản phẩm tự nhiên được tìm thấy trong môi trường, ghép
lại với nhau. Mặc quần áo hầu hết chỉ dành cho con người và là một
đặc điểm của tất cả các xã hội loài người. Số lượng và loại quần áo
mặc phụ thuộc vào giới tính, kiểu cơ thể, các yếu tố xã hội và địa lý.
Quần áo che thân, giày dép che chân, găng tay che tay, mũ và đồ đội
đầu che đầu. Kính mắt và đồ trang sức thường không được coi là quần
áo, nhưng đóng một vai trò quan trọng trong thời trang để làm phục trang.
- Văn hóa trang phục : là kết quả của hoạt động sống và sáng tạo của
con người, là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, qua
đó thể hiện bản sắc dân tộc rõ nét, là bức tranh văn hoá xã hội địa dư
rộng lớn của người dân tứ xứ tụ họp về một vùng đất bao dung trù phú. lOMoAR cPSD| 58457166
CHƯƠNG 2. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KÌ
2.1. Chất liệu may mặc
2.1.1. Vải tơ tằm
Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo
cổ thuộc hậu kì đá mới cách nay khoảng 5.000 năm (như Bàu Tró), đã thấy có
dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang
là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam.
Người Hán từ xưa cũng đã luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn
hóa phương Nam. Để có được năng suất cao, tổ tiên ta đã lai tạo ra được nhiều
giống tằm khác nhau phù hợp với các loại thời tiết nóng, lạnh, khô, ẩm. Từ tơ
tằm, nhân dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất phong phú: tơ, lụa, lượt, là,
gấm, vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, đũi, địa, nái, sồi, thao, vân,… mỗi loại lại có
hàng mấy chục mẫu mã khác nhau.
2.1.2. Vải tơ chuối
Ngoài tơ tằm, nghề dệt truyền thống của ta còn sử dụng chất liệu thực vật đặc
thù khác như tơ chuối. Vải tơ chuối là một mặt hàng đặc sản của Việt Nam mà
đến thê tỉ VI, kĩ thuật này đã đạt đến trình độ cao và được người Trung Quốc rất
thích, họ gọi vải này là “vải Giao Chỉ”. Sách Nam phương dị vật chí viết: “phụ
nữ lấy tơ chuối dệt thành hai loại vải hi và khích, đều là vải Giao Chỉ (Giao Chỉ
cát)”. Sách Quảng chí chép: “Thân chuối xé ra như tơ, đem dệt thành vải… Vải
ấy dễ rách nhưng đẹp, màu vàng nhạt, sản xuất ở Giao Chỉ”. Cho đến tận thế kỉ
XVIII, loại vải này vẫn rất được ưa chuộng, Cao Hùng Trưng trong sách An
Nam chí nguyên còn ca ngợi: “Loại vải này mịn như lượt là, mặc vào mùa nực thì hợp lắm”.
2.2.3 Vải bông (vải cotton)
Vải bông xuất hiện từ các thế kỉ đầu Công Nguyên và được người dân Trung
Hoa gọi là vải Cát Bối. Sở dĩ Cát Bối vốn là tên một loài cây, hoa nở giống như lOMoAR cPSD| 58457166
lông ngỗng nên được rút lấy sợi để dệt thành vải trắng. Chính vì có độ bền cao,
giá thành phải chăm, thấm hút mồ hôi tốt mà vải bông vẫn còn được lưu truyền
tới tận bây giờ. Hiện nay, mọi người đa số gọi là vải cotton, là chất liệu được
dùng phổ biến nhất trong may mặc.
2.2. Trang phục Việt Nam qua các thời kì
2.2.1. Lịch sử trang phục thời Hùng Vương
Cách đây hơn hai nghìn năm, khi nhà nước Văn Lang vừa mới ra đời, cuộc
sống của người Việt cổ bắt đầu trải qua những biến đổi đáng kể. Họ chuyển từ
cuộc sống săn bắt và hái lượm sang nông nghiệp, đánh dấu bước đầu tiên trong
việc phát triển nền nông nghiệp của đất nước. Thời kỳ này, việc sử dụng vỏ cây
để làm trang phục dần thay thế bởi việc trồng và thu hoạch cây đay, gai, và dâu
tằm để dệt vải. Dù kỹ thuật dệt vẫn còn thô sơ, nhưng việc sáng tạo trang phục
đã bắt đầu. Thông qua các dấu vết lịch sử như cán dao găm và mặt trống đồng,
chúng ta có cái nhìn tổng quan về trang phục Việt Nam thời Hùng Vương như sau .
a, Trang phục nữ giới
Phụ nữ thời Hùng Vương thường mặ áo ngắn đến bụng, хẻ ngự , bó ѕát àoᴄ ᴄ ᴠ
người, phía trong mặ уếm kín ngự ó ổ tròn ѕát ổ, trang trí thêm hìnhᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ
những tấm hạt gạo. Cũng ó những loại áo ánh ngắn, ổ uông, để hở mộtᴄ ᴄ ᴄ ᴠ
phần ai à ngự hoặ kín ngự , hở một phần ai à trên lưng. Hai loại ѕau óᴠ ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ
ᴠ ᴄ thể là loại mặ hui đầu haу ài khuу bên trái. Trên áo đều ó hoa ăn trang trí.ᴄᴄ ᴄ
ᴄ ᴠ Thắt lưng ó ba hàng hấm trang trí á h đều nhau quấn ngang bụng...Nhữngᴄ ᴄ
ᴄ ᴄ hoa ăn trên mặt trống đồng haу hình khắ trên án dao bằng đồng ó từ thời kỳᴠ
ᴄ ᴄ ᴄ nàу ho thấу phụ trang Việt đã đượ định hình rất rõ nét. Đâу ũng hính làᴄ ᴄ ᴄ
ᴄ ᴄ ᴄăn nguуên ho bản ѕắ ăn hóa thể hiện trong у phụ truуền thống ủa ngườiᴄ ᴄᴠ
ᴄ ᴄ Việt Nam hiện naу. b, Trang phục nam giới lOMoAR cPSD| 58457166
Không cầu kỳ như phụ nữ, nam giới ở thời kỳ này chuộng việc cởi trần, vì hoạt
động chính của họ là lao động. Phía dưới sẽ mặc một chiếc khố. Giới thiệu sơ
nét, khố là mảnh vải dài quấn nhiều vòng quanh bụng từ trước ra sau. Với công
dụng để che chắn bộ phận sinh dục, khố còn tạo sự mát mẻ, thoáng và dễ chịu
cho người mặc, phù hợp với thời tiết nóng bức và dễ dàng lao động. c, Trang sức
Trang sức luôn được người Việt ưa chuộng, nhất là các loại vòng. Vòng tai,
vòng cổ, vòng tay, vòng chân luôn được người dân sử dụng trong các dịp lễ hội.
Việc đeo vòng tai nặng đã làm trễ dái tai xuống, dẫn đến tục căng tai. Đối với
người dân Tây Nguyên, căng tai là biểu hiện của những người phụ nữ cần cù, siêng năng và chịu khó.
2.2.2. Trang phục triều đại nhà Lý
Nhà Lý là triều đại có quá trình hình thành và phát triển phồn vinh nhất trong
thời kỳ phong kiến của đất nước ta. Tuy nằm trong giai đoạn chịu ảnh hưởng
bởi một nghìn năm đô hộ của Trung Hoa, thế nhưng nhân dân ta vẫn kiên
cường, thể hiện rõ ý chí yêu nước, tinh thần chống giặc từ việc sử dụng vải dệt
qua việc sử dụng vải dệt từ Đại Việt may cổ phục chứ quyết không dùng gấm
vóc của nhà Tống. Có thể nói, văn hóa trang phục là một phần tất yếu của cuộc
sống. Chính vì vậy, vào thời này, nhà Vua đã đề ra những quy định nghiêm ngặt về trang phục.
a, Trang phục dành cho thường dân
Thời đại này đã bắt đầu xuất hiện hình ảnh áo dài. Nam giới sẽ khoác lên mình
chiếc áo dài năm thân, được phủ lá sen lớn lót phía sau vòng ra phía trước. Khác
với nữ giới, phần cổ áo của nam giới sẽ cao gấp đôi và không hở cổ. Ái năm
thân thường là áo the đen mặc kép với áo vải quyến màu trắng. Với các tăng
nhân Phật Giáo, thường họ sẽ mặc áo thụng (một loại áo vừa dài vừa rộng).
Thường vào các dịp thực hiện nghi lễ tế thần, thì nam nhân sẽ mặc bộ áo ấy với
các màu cơ bản như xanh chàm, nâu, đen. Tương tự như nam giới, phụ nữ thời lOMoAR cPSD| 58457166
Lý mặc áo dài màu đen hoặc nâu sẫm và phủ ra ngoài áo cánh lửng. Khác với
nam giới, nữ tượng trưng cho phái đẹp nên luôn có nhiều sự lựa chọn hơn. Thời
Lý chia làm ba kiểu áo. Trước hết, chúng ta điểm sơ lược qua áo dài tứ thân.
Thân trước có hai vạt mở giữa, khi mặc sẽ thắt hai vạt trước tết nút và phần vạt
còn lại bỏ thõng xuống. Tiếp theo, áo dài năm thân có cấu trúc gần như là tương
đồng với trang phục của nam giới, có nguồn gốc từ phương Bắc và cắt ghép
bằng năm thân vải. Khác với nam giới, cổ áo của nữ sẽ thấp hơn một nửa so với
trang phục nam. Cuối cùng, chúng ta đề cập đến áo tràng vạt. Đây là loại trang
phục thường được sử dụng trong các dịp đi lễ chùa và có cổ áo rộng, tay hẹp. b,
Trang phục dành cho quý tộc
Tuy vẫn là chiếc áo dài năm thân, nhưng tầng lớp quý tộc sẽ được mặc bởi
những chất liệu cao cấp hơn, chẳng hạn như gấm, vóc… Bên cạnh đó, họ
thường mặc kèm với một chiếc áo lót bằng lụa màu mỏng. Với triều đình, Vua
Lý thời ấy đã chủ trương sử dụng gấm vóc Đại Việt để may lễ phục (long bào),
đi kèm với đó là những đường nét hoa văn từ rồng, phượng. Đây là những thần
vật tượng trưng cho sự uy quyền, đó cũng chính là lý do vì sao chúng được
chạm khắc trên áo nhà Vua. Với các quan, từ ngũ phẩm trở lên mặc áo bào bằng
gấm và từ cửu phẩm trở lên mặc áo bào bằng vóc. Tất cả chất liệu để làm nên
trang phục của quan được lấy từ số gấm vóc còn lại của nhà Tống. Gắn liền với
trang phục thời này đó chính là những đường nét hoa văn. Không chỉ mang yếu
tố nghệ thuật, mỗi đường nét lại còn tồn tại từng ý nghĩa đặc trưng khác nhau,
tạo nên một nét riêng biệt cho văn hóa trang phục thời Lý. c, Trang sức -
Mũ Quyển Vân: Là loại mũ màu đen, có phần vành được trang trí bằng
các hạtngọc, chính giữa đính miếng trang sức hình lá đề, chạy dọc thân mũ là
các viền trang trí màu trắng, hai bên thái dương có gắn miếng vải màu đen, dây
thao cùng màu và to bản, chop mũ uốn cong về phía sau. lOMoAR cPSD| 58457166 -
Với vũ nữ: là giai đoạn phục hưng của nền văn hóa Việt cổ bản địa, nhà
Lý đã cho du nhập đa dạng các loại trang sức. Riêng với các vũ nữ, Vua nghiêm
ngặt quy định kiểu tóc búi cao lên đỉnh đầu, trên trán có một điểm trang trí, mái
tóc điểm những bông hoa, tay đeo vòng, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngắn có nhiều nếp. -
Với nhạc công: để nhận biết tính chất công việc, nhạc công phải trùm mũ
kín tóc, phía trên mũ được làm cao lên và có các diềm uốn lượn. -
Với các quan lại khi chầu Vua: vào thời bấy giờ, Vua là người trị vì cả
một nước. Chính vì thế, nhà Lý luôn khắt khe vấn đề trang phục trước khi vào
chầu Vua. Quan lại phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu. Đây là điều chưa từng
xuất hiện ở thời kỳ Hùng Vương và từ đây, văn hóa trang phục này đã trở thành
một tục lệ bắt buộc cho đến những đời sau.
2.2.3. Trang phục triều đại nhà Trần
Nhà Trần – một thời kỳ gắn liền với kỳ tích vĩ đại, đánh bại liên tiếp ba lần quân
Mông – Nguyên. Cuộc chiến ấy gay go và kéo dài xuyên suốt cả một triều đại.
Chính vì lẽ đó, nhà Trần không quá chú trọng về trang phục. Tối giản, nhanh
gọn là những gì họ muốn hướng tới bởi mục đích cuối vãn là đi chống giặc, thế
nên nhân dân không dành nhiều thời gian cho trang phục vào giai đoạn này. a,
Trang phục dành cho thường dân
Giao Lĩnh là một loại áo đã được xuất hiện từ thời Lý, với hình thức là hai vạt
áo chéo nhau kết hợp với phần tay đượcmay dài và rộng gợi nên cảm giác mạnh
mẽ, khí chất dân tộc. Tương tự như nam giới, phụ nữ thời Trần cũng ưu tiên
việc diện áo tứ thân đi kèm váy. b, Trang phục dành cho quý tộc
Cổn Miện vẫn được xem là lễ phục của hoàng đế thời Trần. Bên cạnh đó, nhà
Vua gồm bốn loại mũ trong bộ trang phục của mình, lần lượt là: Mũ Miện, Mũ
Thông Thiên, Mũ Phù Dung và Mũ Phốc Đầu. Mũ Thông Thiên là một phần
của bộ trang phục Quyển Vân. Vào dịp Tết Nguyên Đán hay cày ruộng tịch
điền, nhà Vua sẽ lựa chọn bộ trang phục này và đây cũng là bộ phục được lưu lOMoAR cPSD| 58457166
truyền từ thời nhà Lý. Về Mũ Phù Dung, đây được xem là thường phục của nhà
Vua, được sử dụng trong các buổi thường triều, có dáng vẻ tựa hoa phù dung
hoặc hoa sen. Vào ngày thường, Vua luôn ưu tiên sử dụng Mũ Phóc Đầu, đây là
loại mũ mềm với hai cánh chuồn buông thõng xuống. c, trang sức
Là thời đại luôn hết mình vì đất nước, để thể hiện lòng yêu nước của mình, dân
nhân thời Trần đã tái hiện lại tục xăm mình với dòng chữ “Nghĩa dĩ quyên khu,
hình vu báo quốc” để thể hiện tinh thần đền ơn báo nước cũng như nói lên quan
điểm thẩm mỹ của họ.
2.2.4. Trang phục triều đại Hậu Lê
Thời Hậu Lê đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và văn hóa Việt
Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cổ phục Việt Nam.
Trong giai đoạn này, không chỉ trang phục mà cả phụ kiện như mũ nón và giày
dép cũng được bổ sung vào trang phục để tạo nên sự trang trọng và phong cách riêng biệt.
Nghề dệt cũng trở nên phát triển mạnh mẽ, vừa tiếp thu các kỹ thuật dệt hiện đại
từ phương Bắc, vừa duy trì những truyền thống để sản xuất ra nhiều sản phẩm
đẹp mắt. Lụa và vải vóc không chỉ được sử dụng để may trang phục, mà còn
được sử dụng như quà biếu trong các hoạt động ngoại giao.
Cổ phục của nhân dân thời Hậu Lê vẫn giữ nguyên kiểu áo Giao Lĩnh với tràng
vạt quen thuộc, nhưng có sự bổ sung đáng chú ý. Ngoài áo trực lĩnh, trang phục
thời Hậu Lê còn sử dụng đai quấn bên ngoài, tạo nên một diện mạo khá giống
với kiểu áo Kimono của Nhật Bản.
Mặc dù cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn đã chia đôi Đại Việt thành hai Đàng,
nhưng cách ăn mặc vẫn có nhiều điểm tương đồng. Nam giới ở Đàng Trong
(Gia Định) thường đóng khố ở trong và khoác áo trực lĩnh ở ngoài. lOMoAR cPSD| 58457166
Phụ nữ vẫn mặc áo yếm, khoác áo cánh cộc tay khi lao động và sử dụng áo dài
tứ thân khi có dịp trang trọng. Điều này thể hiện sự duy trì của truyền thống
trong trang phục và cách mặc của người Việt thời kỳ Hậu Lê.
2.2.5 Trang phục triều đại nhà Lê
Có thể nói thời kỳ nhà Lê là thời kỳ thăng hoa ủa trang phụ phụ nữ Việt Nam ᴄ
ᴄ khi giai đoạn nàу хuất hiện rất nhiều kiểu dáng à thiết kế ô ùng đa dạng. ᴠ ᴠ ᴄ
Nhưng nhìn hung á trang phụ thời nhà Lê đều ó thiết kế khá ầu kỳ ới ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ
ᴠ nhiều lớp áo hoàng, màu ѕắ bắt mắt. Chịu ảnh hưởng nhiều từ ăn hóa Trung ᴄ
ᴄ ᴠ Hoa nên á trang phụ truуền thống thời kỳ nhà Lê hưa thoát khỏi ái bóng ᴄ ᴄ
ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴠủa ùng đất hùng mạnh nàу. Trang phụ ủa phụ nữ Việtthời Lê ó nhiều nét
ᴄᴄ ᴄ giống ới kiểu áo hoàng Hanfu ủa Trung Quốᴠ ᴄ ᴄ ᴄᴠới phần ống taу rộng,
hiế ᴄ ᴄ thắt lưng to ngang eo đượ dùng để ố định bộ áo hoàng nàу lại. Chính ì
ảnh ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ hưởng bởi ăn hóa Trung Hoa mà bộ trang phụ nàу không đượ nhiều
người ᴠ ᴄ ᴄ hưởng ứng.
2.2.6 Trang phục triều đại nhà Nguyễn
Đời ѕống хã hội trong thời kỳ nàу ó ảnh hưởng không nhỏ đến trang phụ ủa ᴄ ᴄᴄ
người dân. Nếu như trang phụ ủa tầng lớp thống trị ngàу àng bị “pha tạp” ᴄᴄ ᴄ
theo lối đua đòi ải á h nửa mùa, thì trong хã hội, những phụ trang truуền ᴄ ᴄ ᴄ
ᴄ thống như áo dài, áo уếm, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai thao… đã trở
thành hơi thở à là kết tinh ăn hóa ủa ả dân tộ . Trong khi hiế уếm đào ᴠ ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ
ᴄ ᴠượt khỏi hốn ung đình để ùng ngườiphụ nữ ần lao “dầm mưa dãi nắng” ᴄ ᴄ ᴄ
ᴄ ngoài đồng ruộng, haу ùngáo tứ thân lượt là trong những buổi hội Lim, thì thời
ᴄ trang phương Tâу ới những hiế áу хòe, những hiế đầm á h tân hiện đại ᴠ ᴄ ᴄᴠ
ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄũng dần du nhập à đượ phụ nữquý tộ trẻ ưa huộng, trong đó Hoàng hậu
ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ Nam Phương – ị hoàng hậu uối ùng ủa triều đại phong kiến Việt Nam, là
ᴠ ᴄ ᴄ ᴄ người rất thí h mặ trang phụ Tâу phương à mặ rất đẹpᴄ ᴄ ᴄ ᴠ ᴄ . lOMoAR cPSD| 58457166
2.2.7 Trang phục từ giữa thế kỉ 20 đến nay
Đến thế kỷ 19, 20, áo dài bắt đầu trở thành thứ trang phụ không thể thiếu trongᴄ
đời ѕống хã hội Việt, từ á bà hoàng, ông húa trong hoàng ung ới á kiểuᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ
ᴄ ᴄ áo dài đượ maу trang trọng, quý phái bằng hất liệu gấm, thêu hỉ àng… đến ᴄ
ᴄ ᴄ ᴠ ᴄ ᴄá bà, á ô ận áo dài đến trường, đến ông ѕở, ra hợ, dạo phố. Một thời ᴄ ᴄᴄ
ᴠ ᴄ ᴄ gian dài trong thế kỷ 19-20, áo dài đã trở thành một loại thường phụ đượ
nam ᴄ ᴄ phụ lão ấu trên đất Việt уêu huộng. Trải qua nhiều biến động lị h ѕử, ùng
ới ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ ѕự du nhập ủa khuуnh hướng thời trang phương Tâу, áo dài đã ó nhiều
ải ᴄ ᴄ ᴄ tiến theo từng trào lưu nhất định. Tuу nhiên, dù ở bất kỳ trào lưu ải á h
nào, ᴄ ᴄ ᴄ từ áo dài Le Mur, áo maу dạng hít eo haу ổ thuуền theo “mốt” Trần Lệ
Xuân ᴄ ᴄ đến á loại áo dài ạt dài ѕát đất như hiện naу, áo dài ẫn hứng tỏ khả năng
ᴄ ᴄ ᴠ ᴠ ᴄ bất biến mà không phải loại trang phụ nào ũng làm đượ : đó là tôn lên ó
ᴄ ᴄ ᴄ ᴠ ᴄ dáng à nét đẹp quуến rũ dịu dàng ho người phụ nữ.ᴠ ᴄ lOMoAR cPSD| 58457166 KẾT LUẬN
Như vậy, sau gần hơn hai mươi thế kỷ trôi qua, văn hóa trang phục Việt Nam đã
có nhiều sự thay đổi rõ rệt. Thuở đầu, trang phục được tạo ra nhằm mục đích
che chắn những vị trí cần thiết và bảo vệ sức khỏe trước thời tiết khắc nghiệt.
Về sau, trang phục không chỉ dừng lại đó, chúng còn được xem như là vật để
làm đẹp. Dân gian ta có câu “Người đẹp vì lụa” và hẳn là như vậy, con người sẽ
trở nên tự tin hơn nếu được khoác lên mình những bộ trang phục lộng lẫy. Nếu
ban đầu trang phục đậm nét dấu ấn Việt Nam thì ngày nay, văn hóa trang phục
của người Việt dần bị “lai” sang phong cách của nhiều nước trên thế giới do sự
đô hộ và học hỏi, tiếp thu kiến thức trang phục từ nhiều quốc gia. Ngoài ra, bên
cạnh các mảnh vải dùng để che chắn thân, nhân dân còn sáng tạo thêm nhiều
loại trang sức cũng như giày dép để tôn dáng và che đi được khuyết điểm của
bản thân. Cũng nhờ vậy, Việt Nam hội tụ được đa dạng các phong cách trang
phục và từ đó, nhân dân có nhiều sự lựa chọn để làm đẹp cho bản thân. lOMoAR cPSD| 58457166
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]
Trần Ngọc Thêm – Cơ sở văn hóa Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục [2]
https://www.studocu.com/vn/document/hong-bang-international-
university [3] https://lrocrevn.com/ [4] https://yody.vn/ lOMoAR cPSD| 58457166 MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN …………………………………………………………..…..1
MỞ ĐẦU….…………………………………………………………….......2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA TRANG PHỤC
1.1. Khái niệm chung về văn hóa……………………………………………4
1.2. Khái niệm về văn hóa trang phục……………………………………….4
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TRANG PHỤC VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ
2.1. Chất liệu may mặc……………………………………………………….4
2.2. Trang phục Việt nam qua các thời kì ……………………………………5
2.2.1 Lịch sử trang phục thời Hùng Vương………………………..…………6
2.2.2. Trang phục triều đại nhà Lý………………………….………………..7
2.2.3. Trang phục triều đại nhà Trần…………...…………….………………9
2.2.4. Trang phục triều đại nhà Hậu Lê……………………...……………...10
2.2.5. Trang phục triều đại nhà Lê…….…………………..………………...11
2.2.6. Trang phục triều đại nhà Nguyễn ………………………….…...……11
2.2.6. Trang phục từ giữa thế kỉ 20 đến nay…..………….………………....11
KẾT LUẬN………………………………………………………………….13
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………….…………………………………..14