Tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Những thành tựu công cuộc đổi mới của nước ta trong thời gian qua đã và đang tạo ra thế lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào thời kì phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó được tạo ra. Quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới được mở rộng hơn. bao giờ hết, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU. 1.Lý do chọn đề tài
2.Đối tượng nghiên cứu 3.Mục đích nghiên cứu 4.Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Khái niệm vật chất, ý thức
1.1 Định Nghĩa vật chất 1.2 Định nghĩa ý thức
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.1 Vật chất quyết định sự khai sinh của ý thức
2.2 Sự tác động trở lại của ý thức lên vật chất
3. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị.
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh
tế mới ở nước ta hiện nay. PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
---------------------------------- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu công cuộc đổi mới của nước ta trong thời gian qua đã và
đang tạo ra thế lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào thời kì
phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó được
tạo ra. Quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới được mở rộng hơn. bao giờ
hết, Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thể giới tăng
thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngày càng
cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. các nước
đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên do ưu thế về vốn công nghệ thị trường thuộc
về các nước phát triển, khiến cho các nước chậm phát triển và đang phát triển
đứng trước những thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của nước ta
quả thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại. Đảng và nhà nước
ta cần tiếp tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong
đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời đổi mới về
chính trị cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có
mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Chính vì vậy
tìm hiểu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng nó
vào mối quan hệ kinh tế và chính trị của đất nước, giúp cho công cuộc xây dựng
nền kinh tế nước ta ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó em đã lựa chọn để tài: "Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức trong nền kinh tế nước ta hiện nay". 3. Mục đích nghiên cứu
Thấy được tâm quan trọng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Phát triển đất nước theo đường lối đúng dẫn của Đảng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cùng với phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kinh tế chính trị Mác – Lênin
còn sử dụng phương pháp logic kết hợp với lịch sử. Phương pháp logic kết hợp
với lịch sử cho phép nghiên cứu, tiếp cận bản chất, các xu hướng và luật kinh tế
gắn với tiến trình hình thành, phát triển của các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi.
Việc áp dụng phương pháp logic kết hợp với lịch sử cho phép rút ra những
kết quả nghiên cứu mang tính logic từ trong tiến trình lịch sử của các quan hệ
giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
1. Khái niệm vật chất, ý thức
1.1 Định nghĩa vật chất
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.
Lênin định nghĩa vật chất là thực tại khách quan tồn tại bên ngoài ý thức của con
người. Nó bao gồm tất cả sự vật, hiện tượng và quá trình mang lại cảm giác cho
con người. Vật chất là hiện thực khách quan, không phải hư vô hay chủ quan.
Chúng là các thực thể độc lập và tồn tại dưới dạng các thực thể. Ngoài ra, ý thức
của con người chỉ có thể có được hình ảnh vật chất thông qua phản ánh. Định
nghĩa vật chất của V.I. Lênin giải quyết được trọn vẹn cả hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật triệt để. 1.2 Định nghĩa ý thức
Ý thức là hình thức phản ánh của bộ óc con người và sản phẩm của quá trình
phát triển tự nhiên và xã hội. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là "bộ não", là sản
phẩm phát triển cao nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi. Hoạt động ý thức chỉ
diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý thần kinh của bộ não. Ý
thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não. Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ, cùng với quá trình đó
các giác quan con người ngày càng phát triển, hoàn thiện và khả năng phản ánh của
ý thức sẽ ngày càng cao.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mọi vật chất và ý thức đều tồn tại trong vũ trụ, tạo thành hai lĩnh vực cơ bản.
Mối quan hệ giữa chúng được xem là vấn đề tổng quan và làm nền tảng cho các
nghiên cứu Triết học. Quan điểm Triết học Mác-Lênin cho rằng vật chất quyết định
sự khai sinh của ý thức, và ý thức cũng tác động trở lại vật chất. Chủ nghĩa Duy
tâm cho rằng ý thức là tồn tại duy nhất và quyết định linh hồn, tinh thần, trong khi
chủ nghĩa Duy vật cho rằng vật chất sinh ra ý thức. Mặc dù vật chất và ý thức có
bản chất đối lập, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
2.1 Vật chất quyết định sự khai sinh của ý thức
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất là cái có trước, ý thức có sau, chính vật
chất sinh ra ý thức và vật chất quyết định ý thức. Ý thức chính là sản phẩm vật
chất, được tổ chức nên bộ não của con người. Ý thức thể hiện thế giới vật chất, là
hình ảnh mang tính chủ quan, nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Định nghĩa vật chất của V.I Lê Nin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
2.2 Sự tác động trở lại của ý thức lên vật chất
Ý thức của con người có thể tác động lại đến vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn. Ý thức phản ánh thế giới vật chất và có thể thay đổi điều kiện hoàn cảnh vật
chất. Con người dựa trên tri thức để đề ra mục tiêu và thực hiện chúng. Trong xã
hội phát triển, vai trò của ý thức và tri thức khoa học ngày càng quan trọng.
3. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa nhất định và quan trọng:
Phải biết dựa vào những quy luật khách quan để xác định đúng dẫn mục tiêu, kế
hoạch, tìm và vận dụng phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục
tiêu đề ra một cách tối ưu nhất. Khắc phục được bệnh chủ quan; bệnh bảo thủ, trì
trệ, thái độ tiêu cực... đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.
Con người muốn ngày càng phát triển, tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì
phải luôn chủ động, phát huy khả năng của mình trong việc tìm tòi, sáng tạo những
cái mới, bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao
năng lực và không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng.
Giữa vật chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận
thức. Bên ngoài lĩnh vực đó, sự phân biệt là tương đối. Vì vậy, một chính sách
đúng đắn là cơ sở để kết hợp hai điều này. Con người tuyệt đối không được thụ
động. ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào việc lười suy nghĩ, lao động.
CHƯƠNG II : VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHÁT VÀ
Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG NÊN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứ ng
giữa kinh tế và chính trị.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Nhân tố vật chất
giữ vai trò quyết định còn nhân tố ý thức có tác động trở lại nhân tố ý thức. Nhân
tố vật chất trong nhiều trường hợp ý thức có tác dụng quyết định đến sự thành bại
của con người.Điều này thể hiện rõ trong các đường lối chủ trường, chính sách đổi
mới kinh tế của Đảng .Vai trò tích cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất
định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo đó ý
thức phải biến đổi phù hợp với nó, nếu tiêu cực thì sớm muộn cũng bị đào thải
nhưng xét đến cùng thì ý thức vẫn là nhân tố thứ hai quyết định .Và ta thấy nếu
kinh tế của một nước giàu, xã hội phát triển cao nhưng chính trị mất ổn định luôn
đấu tranh giai cấp... thì đất nước đó không thể yên ấm hoà bình được và cuộc sống
người dân tuy đầy đủ,sung túc nhưng sẽ luôn lo âu. Do đó nếu chính trị ổn định thì
dân mới yên tâm làm ăn và xây dựng một xã hội phát triển, đất nước giàu mạnh.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế XÃ
HỘI NGUYÊN THỦY - CHIẾM HỮU NÔ LỆ - PHONG KIẾN - TƯ BẢN CHỦ
NGHĨA - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. Trình độ tổ tổ chức quản lý và tính chất hiện đại
của nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ và mức sống của xã hội, bởi sản
xuất vật chất là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội đời sống tinh thần
của xã hội. Hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng mọi quan hệ của đời sống xã hội bao
gồm quan hệ chính trị, nhà nước pháp quyền, đạo đức, khoa học, tôn giáo... đều
hình thành biến đổi gắn liền với kinh tế và sản xuất nhất định. Trong đó theo Mác
quan hệ sản xuất giữa người với người là cơ bản quyết định tất cả các quan hệ
khác. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất khi tham gia
vào quá trình phân hoá và hoàn thiện các chức năng của con người thoả mãn các
nhu cầu của con người và xã hội. Sản xuất vật chất môi trường tự nhiên, điều kiện
xã hội.... đòi hỏi thể lực, trí tuệ và nhân cách con người phải phát triển thích ứng
với nó. Yêu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế. sản xuất cho khoa học kĩ
thuật và điều kiện sinh hoạt xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện. Đó chính là cơ
sở quyết định sự hoàn thiện của con người. chính trị, xã hội, là nhân tố quan trọng
hàng đầu của lực lượng sản xuất. Sự phong phú đa dạng của vật chất sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất là cơ
sở nảy sinh sự phát triển năng lực tinh thần của con người. Nói cho cùng nhu cầu
của con người về vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định vì con người trước
hết phải ăn mặc, nơi ở rồi đến vui chơi giải trí. Hoạt động nhận thức của con người
trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống và
cuộc sống của con người phụ thuộc vào nhu cầu vật chất và những điều kiện hiện có.
Nền kinh tế của một nước là nền tảng để cho nước đó tiếp tục phát triển các chủ
trương biện pháp trong việc phát triển kinh tế vào công cuộc bảo vệ xây dựng đất
nước. Căn cứ vào tình hình kinh tế mà có những chính sách phù hợp nhằm đem lại
lợi ích cao cho xã hội và cho nhân dân. Tác dụng ngược lại thể chế chính trị, ý thức
của một nước rất quan trọng trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định chính
là điều kiện phát triển kinh tế, mọi doanh nghiệp cũng như nhân dân các công ty
các tổ chức đem hết sức mình tạo lợi ích cho bản thân và xã hội. Nguyên lý triết
học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đòi hỏi chúng ta
phải xem xét các sự vật từ thực tế khách quan, tránh chủ nghĩa chủ quan duy ý chí,
đồng thời phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức phát huy nỗ lực chủ quan
và hoạt động của con người.
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế
mới ở nước ta hiện nay
Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, nền kinh tế nước ta còn
nhiều nhược điểm. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất
cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa bảo đảm nhu cầu đời sống, sản
xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công
nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu. Vì thế, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, nông
nghiệp nhiều vùng hoang hoá, lạm phát trầm trọng... Qua các lần tổ chức Đại hội
Đảng lần thứ V và VI, Đảng và nhà nước kết hợp công tác và làm việc với dân đã
nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới, công cuộc
đổi mới. Và đến Đại hội Đại Biểu toàn Quốc lần thứ VII ta đã đánh giá tình hình
kinh tế chính trị xã hội Việt Nam sau những năm thực hiện đường lối đổi mới:Tình
hình chính trị của đất nước ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực,
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lí của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy
động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của
một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện. So với trước đây thì mức độ khủng
hoảng đã giảm bớt. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy...
Như vậy, ở đây lại càng thấy rõ tác động của kinh tế đối với chính trị và xã hội,
và đối với công tác đối ngoại, công tác quốc phòng và an ninh... Đổi mới kinh tế
quyết định nhưng các nhân tố chính trị, xã hội, đối ngoại cũng ảnh hưởng tích cực
so movetrở lại một cách biện chứng đối với kinh tế. Vận dụng đúng đắn các qui
luật của phép biện chứng duy vật. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì cũng
vạch ra những mặt yếu kém về kinh tế, nền kinh tế vẫn còn mang tích chất kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, kinh tế
tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp... và những
vấn đề tồn tại lớn về mặt văn hoá, xã hội... Để có những chủ trương và biện pháp
giải quyết Hội nghị đã dự đoán những thách thức lớn và những cơ hội lớn trong
thời gian tới, từ đó đề ra những nhiệm vụ chủ yếu; thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện chính sách nhất quản
phát triển kinh tế nhiều thành phần, xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng của xã hội chủ nghĩa, chăm lo các vấn đề văn
hoá - xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân và vỡ dõn, đổi mới chỉnh đốn Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội là những sự nghiệp khó khăn, đòi hỏi nhiều
công phu và sự phát huy tối đa vai trò của nhân tố chủ quan. Kiên trì giữ vững lòng
tự tin, quyết tâm khắc phục khó khăn, và thông minh, nhạy cảm để thích ứng với
tình hình thực tế biến đổi là cần thiết. Trí thức khoa học cũng đóng vai trò quan
trọng, nhưng cần sự hiểu biết, trí thông minh và ý trí quyết tâm để phát huy tác
dụng trong thực tế và tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách mạng. PHẦN KẾT LUẬN
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khó và phức tạp. có thể
coi nó như một công cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động nhiều của đất
nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi Đảng và nhà nước ta
phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời
phải tỉnh táo, thông minh nhạy bén để thích ứng kịp thời với tinh hình thực tế biến
đổi từng ngày, từng giờ.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu và quản
lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng
ta sẽ trở thành những cán bộ quản lý kinh tế giỏi góp phần xứng đáng vào công
cuộc đổi mới kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để
từ đó dứng cao hơn nữa vị trí Việt Nam trên chiến trường quốc tế, góp phần củng
cố hơn nữa sự ổn định về chính trị của đất nước. Đó là đường lối là trách nhiệm
của những nhà quản lí kinh tế, chính trị của chúng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Giáo trình triết học Mác - Lênin 2 - Tạp chí kinh tế
3 - Văn kiện Đại hội Đảng V, VI, VII